24/05/2018, 13:02

Khoa học, công nghệ và đổi mới ở nước Pháp?

Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Hệ thống đổi mới của Pháp đứng thứ hai châu Âu sau Đức với số lượng công bố khoa học, bằng sáng chế và GERD chiếm khoảng 5% OECD. Hệ thống đổi mới của Pháp được đặc trưng bởi chính sách công nghiệp của những năm 1960 và những năm 1970, đã đem lại cho ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)

Hệ thống đổi mới của Pháp đứng thứ hai châu Âu sau Đức với số lượng công bố khoa học, bằng sáng chế và GERD chiếm khoảng 5% OECD. Hệ thống đổi mới của Pháp được đặc trưng bởi chính sách công nghiệp của những năm 1960 và những năm 1970, đã đem lại cho một số ngành công nghiệp nhất định (hàng không, đường sắt, hạt nhân) một lợi thế công nghệ bền vững. Một số ngành công nghiệp của Pháp như dược phẩm, hàng không và hạt nhân nằm trong số khu vực tư nhân đầu tư cho NC&PT nhiều nhất thế giới. Tuy năm 2010, cường độ BERD đã quay trở lại mức của năm 2001 (1,38% GDP) sau nhiều năm suy giảm nhưng vẫn ở mức thấp. Sự gia tăng của BERD bị hạn chế bởi: sự thu hẹp thị phần giá trị gia tăng của ngành chế tạo và chi tiêu thấp của các ngảnh dịch vụ cho NC&PT (12% BERD năm 2007); sự tập trung của các hoạt động NC&PT vào các khu vực công nghệ trung bình cao (29%), đặc biệt là ngành công nghiệp ỏ tô (14%); và các DNVVN đóng vai trò thứ yếu trong hệ thống nghiên cứu (21%). Tài trợ cho nghiên cứu công của ngành công nghiệp còn hạn chế, một dấu hiệu của những liên kết yếu kém giữa các khu vực này. Hơn nừa, các doanh nghiệp mới khởi nghiệp còn yếu kém: Pháp đứng ở dưới múc trung bình của OECD về số đơn đăng ký sáng chế của các doanh nghiệp trẻ. Chính phủ Pháp vẫn duy trì ảnh hưởng mạnh đối với những phân mảng lớn của các ngành công nghiệp mạng, và các rào cản pháp lý hạn chế cạnh tranh trong khu vực bán lẻ và thiết lập các cửa hàng mới. Ở khu vực công, các trường đại học và các viện nghiên cứu công hoạt động tích cực về mặt đăng ký sáng chế theo hiệp định PCT và nộp đăng ký sáng chế trong các công nghệ mới nổi, số lượng các tiến sĩ khoa học và kỹ thuật mới tốt nghiệp cùa Pháp giữ ở mức ổn định.

Chỉ tiêu

Giá trị

Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010)

Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010

57,7

+0,6

Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009

6,13

+2,3

GERD, tính theo % GDP, năm 2010

2,25

+2,0

Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010

0,92

+2,5

Những thay đổi gần đây trong chi tiêu cho KHCNĐM: Với việc thông qua Luật nghiên cứu và việc phân bổ thêm kinh phí, năm 2006, GERD vượt hơm 40 tỷ USD. Chương trình Đầu tư cho tương lai (PIA), được thực hiện như một phần của kế hoạch kích thích kinh tế, thúc đẩy việc triển khai năng lực KHCNĐM mới bằng cách rót 40 tỷ USD trong mười năm để thúc đẩy nghiên cứu, giáo dục đại học, đổi mới và phát triển bền vững.

Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Các ưu tiên của Chiến lược Nghiên cứu và đổi mới quốc gia (SNRI, 2009-2012) là tăng cường năng lực nghiên cứu, hiệu suất khoa học và các điều kiện phát triển doanh nghiệp mới, cũng như chuyển giao trí thức giữa các cơ quan nghiên cứu công và doanh nghiệp (đặc biệt là các DNVVN).

Chính sách quản trị KHCNĐM: Hệ thống giáo dục đại học và nghiên cứu của Pháp gần đây đã trải qua những cải cách sâu rộng, bao gồm cả cải tổ cơ cấu cấp bộ, thành lập các cơ quan tài trợ nghiên cứu (ANR), các cơ quan đánh giá nghiên cứu và giáo dục đại học (AERES), quyền tự chủ nhiều hơn cho các trường đại học (Luật LRU), tương tế hóa các hoạt động (PRES) và áp dụng các mối quan hệ dựa trên hợp đồng giữa các cơ quan nghiên cứu và nhà nước. Các liên minh theo chủ đề (năng lượng, y tế, CNTT-TT, môi trường và khoa học xã hội và nhân văn) được thiết lập năm 2009-2010 là bước tiếp theo hướng tới hợp tác và kế hoạch hóa tốt hơn.

Nền tảng khoa học: Pháp có một hệ thống kép trong khu vực nghiên cứu công: các viện nghiên cứu công thực hiện gần một nửa số NC&PT công, nhưng phần tỷ lệ này đang chuyển sang các trường đại học. Mặc dù chỉ đáng kể cho NC&PT công (0,85% GDP năm 2010), Pháp không có nhiều bài báo được đăng trên các tạp chí khoa học hàng đầu. Hệ thống giáo dục đại học của Pháp bị phân mảng, gần đây hệ thống này mới củng cố hồ sơ nghiên cứu của mình và có tương đối ít các tổ chức nằm trong bảng xếp hạng các trường đại học hàng đầu thế giới. Những cải cách gần đây về quản trị chính sách KHCNĐM đã đưa đến một sự dịch chuyển theo hướng tài trợ dựa vào cạnh tranh và nghiên cứu theo chủ đề hơn và vai trò lớn hơn của các trường đại học.

Đổi mới và NC&PT của doanh nghiệp: NC&PT của doanh nghiệp là một ưu tiên quan trọng của Chiến lược Nghiên cứu và đổi mới quốc gia (2009-2012) và đã thu hút rất nhiều sự chú ý của chính sách trong những năm gần đây. Tài trợ của Chính phủ trong lĩnh vực này đã tăng đáng kể. Tài trợ gián tiếp thông qua khấu trừ thuế nghiên cứu (CIR) đã được củng cố bằng mội sự sửa đổi quan trọng trong kế hoạch năm 2008 (với chi phí ngân sách gần 6 tỷ USD năm 2010), trong khi tài trợ trực tiếp thông qua cơ quan đổi mới (OSEO) và cơ quan tài trợ nghiên cứu được duy trì. Tỷ trọng tàì trợ gián tiếp tăng từ một phần ba lên hai phần ba tài trợ tổng thể của Chính phủ từ năm 2005 đến năm 2010, với một sự thay đổi trong tổ hợp chính sách trong giai đoạn này. Để củng cố lưu thông tiền tệ của doanh nghiệp trong thời kỳ khủng hoảng, việc hoàn trả ngay lập tức thuế nghiên cứu được thực hiện cho năm 2009 và 2010. Đối với các DNVVN, việc hoàn trả ngay lập tức đã được thực hiện thường xuyên trong năm 2011.

Tinh thần doanh nghiệp: Hội nghị bàn tròn của các ngành công nghiệp (EGI - Estates General of Industry) là cơ hội để soạn thảo một chính sách công nghiệp mới tập trung vào việc cơ cấu các khu vực công nghiệp, tái công nghiệp hóa và xác định các khu vực chiến lược (kỹ thuật số, các ngành công nghiệp sinh thái, năng lượng, giao thông vận tải, hóa chất, vật liệu tiên tiến). Trong khuôn khổ Chương trình Đầu tư cho tương lai, tài trợ của cơ quan đổi mới để hỗ trợ ngành công nghiệp và các DNVVN đã tăng lên 2,8 tỷ USD. Chương trình Đầu tư cho tương lai cho phép thành lập hai quỹ đầu tư mạo hiểm đặc biệt: Quỹ Gieo mầm quốc gia (2011) với số vốn ban đầu là 460 triệu USD, và Quỹ Quốc gia cho xã hội số (2011), với số vốn ban đầu là 2,6 tỷ USD để tài trợ cho nội dung, các ứng dụng và các dịch vụ kỹ thuật số đổi mới.

Cơ sở hạ tầng khoa học và CNTT-TT: Trong khuôn khổ Chương trình Đầu tư cho tương lai, Pháp đã đầu tư ồ ạt để nâng cấp các cơ sở nghiên cứu của mình (các phòng thí nghiệm và các cơ sở xuất sắc). Kế hoạch Plan Campus dành 6,9 tỷ USD để cải tạo các tòa nhà của các trường đại học, trong đó hơn 1 tỷ USD dành cho Cao nguyên Saclay.

Phát triển cụm: Chính sách cụm năng lực cạnh tranh, được đưa ra năm 2004 để tăng cường hợp tác công nghệ và công nghiệp, đã kết thúc giai đoạn thứ hai (2009-2011). Nó đã nhận được 575 triệu USD như một phần của Chương trình Đầu tư cho tương lai (ngoài các khoản biếu tặng ban đầu là 1,7 tỷ USD). Các nỗ lực trong giai đoạn thứ hai tập trung vào hợp tác liên cụm và tầm nhìn quốc tế rộng hơn.

Dòng trí thức và thương mại hóa: Chính sách KHCNĐM của Pháp nhằm vào việc tăng cường hợp tác nghiên cứu và chuyên giao công nghệ. Trong khuôn khổ Chương trình Đầu tư cho tương lai PIA, các viện nghiên cứu nhà nước liên ngành có thể được thiết lập dưới dạng hợp tác công - tư (2,3 tỷ USD), với mục đích trở thành các cơ sở đổi mới công nghệ đẳng cấp thế giới và tăng cường các hệ sinh thái cụm. Ngoài tài trợ cho hợp tác nghiên cứu, năm 2011, Cơ quan tài trợ nghiên cứu đã đưa ra Chương trình Chủ tọa công nghiệp hỗ trợ hợp tác nghiên cứu các vấn đề chiến lược cho ngành công nghiệp Pháp. Chương trình Đầu tư cho tương lai cũng đã tài trợ cho thành lập Quỹ Xúc tiến nghiên cứu quốc gia (2010) với số vốn ban đầu lá 1,2 tỷ USD để hỗ trợ triển khai các hiệp hội xúc tiến chuyển giao công nghệ (SATT) và chuyên nghiệp hóa việc thúc đẩy nghiên cứu. France Breveis, quỹ đầu tir sở hữu trí tuệ, được thành lập năm 2011.

Đổi mới xanh: Chương trình Grenelle de Penvironnement (2007) đã đưa đến việc sử dụng các biện pháp nhằm mục tiêu vào các ngành có tác động môi trường cao (ưu đãi thuế, ghi nhãn sinh thái, mua sắm xanh,...). Gần 7 tỷ USD đã được đầu tư cho các giai đoạn tiền công nghiệp hóa và nghiên cứu của các ngành công nghiệp xanh trong tương lai (ví dụ như nền tảng công nghệ, xe sạch, lưới điện thông minh và nền kính tế tuần hoàn). Nghiên cứu công đã thay đổi và hướng đến các vấn đề môi trường, một khu vực mà Pháp đã đạt được một chút ưu thế công nghệ hiện hữu. Chương trình Ambition Ecotcch 2012 cũng nhằm mục đích thúc đẩy tăng trưởng của ngành công nghiệp sinh thái bằng cách cung cấp tài trợ để thúc đẩy đổi mới về xuất khẩu về tư vấn cho các DNVVN xanh.

Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013

Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN

Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật

0