24/05/2018, 13:03

Khoa học, công nghệ và đổi mới ở nước AILEN?

Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, Ailen đã hứng chịu dợt suy thoái nghiêm trọng. Vì thế, họ đã thông qua các giải pháp hà khắc để giải quyết nợ công. Đầu tư cho đổi mới có thể phài chịu sức ép trong nhừng năm tới. Đầu tư từ doanh nghiệp cho ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)

Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, Ailen đã hứng chịu dợt suy thoái nghiêm trọng. Vì thế, họ đã thông qua các giải pháp hà khắc để giải quyết nợ công. Đầu tư cho đổi mới có thể phài chịu sức ép trong nhừng năm tới. Đầu tư từ doanh nghiệp cho NC&PT chiếm 1,18% GDP, ở mức trung bình cùa OECD năm 2010. Phần lớn khoản đầu tư này (70%) do các chi nhánh của nước ngoài thực hiện. Ailen có số lượng tương đổi lớn các nhà đầu tư cho NC&PT hàng đầu và đứng đầu nhóm trung bình của các nước OECD về các công ty đổi mới sáng tạo còn non trẻ, vốn mạo hiểm được khai thác hiệu quả và chỉ số tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động doanh nghiệp cao hơn mức trung bình của OECD. Với 34% đăng ký sáng chế theo Hiệp ước Hợp tác sáng chế có sự hợp tác quốc tế, Ailen xếp ở vị trí cao hơn mức trung bình của OECD, về khía cạnh kinh phí của khu vực công nghiệp cấp cho NC&PT công, Ailen thực hiện kém hơn mức trung bình của OECD, số người tốt nghiệp ngành khoa học và kỹ thuật và chất lượng giáo dục khoa học nằm ở mức trung bình của các nước OECD. Hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông tương ứng mức trung bình của OECD.

Chỉ tiêu

Giá trị

Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010)

Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010

53,5

+2,6

Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009

4,55

+2,6

GERD, tính theo % GDP, năm 2009

1,77

+7,2

Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010

0,58

+6,7

Những thay đổi gần đây về chi tiêu cho KHCNĐM: Tổng chi tiêu cho NC&PT đạt 3,2 tỷ USD năm 2010, bằng 1,77% GDP, thấp hơn mức trung bình cua OECD. Mục tiêu của Chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới là đưa cường độ nghiên cứu đạt 2,5% GDP vào năm 2013, nhưng mục tiêu này được lùi xuống năm 2020. Các sức ép ngân sách có thể gây áp lực lớn đến đầu tư cho nghiên cứu những năm tới. Ngân sách Chính phủ cho NC&PT đã giảm từ 948 triệu USD năm 2009 xuống còn 853 triệu USD năm 2011.

Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Các mục tiêu của Chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới giai đoạn 2006-2013 bao gồm đẩy rrtạnh đổi mới bằng cách nâng cao nguồn nhân lực (đặc biệt về khoa học và kỹ thuật), củng cố năng lực nghiên cứu và khả năng của khu vực doanh nghiệp và gia tăng phần đóng góp của nghiên cứu vào phát triển ngành nông nghiệp, y tế, môi trường và biển. Kế hoạch Tái thiết quốc gia 2011- 2014 cũng chủ trương xem NC&PT là một ưu tiên đầu tư.

Chính sách quản trị KHCNĐM: Trước sức ép tài chính, tháng 2/2010 Chính phủ đã lập một kênh cấp vốn riêng, gồm có ngân sách khoa học, công nghệ và đổi mới của nhiều cơ quan khác nhau tham gia thực hiện các chính sách liên quan. Củng cố hoạt động chi tiêu cho phép quản lý chặt chẽ hơn.

Nền tảng khoa học: Ai len có tỷ lệ các trường đại học hàng đầu cao hơn mức trung bình và tỷ lệ cao các bài báo công bố. Tuy nhiên, chi tiêu công cho NC&PT thấp hơn mức trung bình của OECD. Chiến lược quốc gia về giáo dục đại học, tháng 1/2011, chủ trương tăng qui mô và số lượng bằng cách phát triển cụm các viện nghiên cứu hợp tác vùng và thúc đấy sự hợp nhất và liên kết của các viện.

Dòng tri thức và thương mại hóa: Kế hoạch Hợp tác đổi mới được cơ quan của chính phủ cấp ngân sách 12 triệu USD năm 2012, cung cấp hỗ trợ tài chính cho các dự án nghiên cứu hợp tác giữa khu vực công nghiệp 7 trường đại học với các ứng dụng công nghiệp và thương mại trực tiếp. Sáng kiến Voucher mới với 5 triệu USD năm 2012, nhầm mục đích thúc đẩy liên kết giữa các nhà cung cấp tri thức công với các doanh nghiệp nhỏ. Một nỗ lực khác là Chương trinh các trung tâm công nghệ với 24 triệu USD năm 2012, khuyến khích hợp tác thông qua cáp kinh phí cho các trung tâm công nghệ do khu vực công nghiệp đứng đầu, ở đó các nhà khoa học thuộc các viện nghiên cứu tiến hành NC&PT tập trung vào thị trường. Ngoài ra, một Nghị định thư Sở hữu tri tuệ quốc gia mới đang được xây dựng để thay thế cho các Bộ luật quốc gia hiện hành về phương thức quản lý và thương mại sở hữu trí tuệ từ nghiên cứu công và hợp tác công-tư.

Toàn cầu hóa: Hộ thống đổi mới được hợp nhất hiệu quả vào hệ thống khoa học và công nghệ quốc tế. Ailen có hệ thống thuế hấp dẫn các công ty đa quốc gia nước ngoài và IDA Ailen, Cơ quan xúc tiến đầu tư khuyến khích việc tiến hành NC&PT của các tổ chức này. Ailen có khoảng 142 thỏa ước, cộng tác quốc tế và các hoạt động tương tự với châu Âu và với Hoa Kỳ ở mức thấp hơn. Ngoài ra, mạng lưới hỗ trợ quốc gia thuộc Chương trình Khung của Liên minh châu Âu khuyến khích sự tham gia của các công ty Ailen trong Chương trình Khung 7 nhấn mạnh đến các dự án nghiên cứu hợp tác xuyên quốc gia. Mạng lưới này tư vấn cho các đề xuất dự án và giúp tìm đối tác.

Nguồn nhân lực: Ailen chú trọng nhiều hơn đến môn khoa học và toán học trong chương trình giảng dạy cấp cơ sở và trung học. Nỗ lực này gồm Dự án Toán học với kinh phí 9 triệu USD trong các năm 2009-2010, nhằm đào tạo giảo viên toán ở trường trung học. Ở cấp đại học, chương trình Giải thưởng kinh nghiệm về tri thức nghiên cứu cho sinh viên cố gắng thu hút các sinh viên vào nghiên cứu để họ hứng thú với nghề khoa học và kỹ thuật. Chương trình Khoa học và kỹ thuật khám phá phối hợp với các hệ thống giáo dục và nghiên cứu để nâng cao nhận thức, tăng hiểu biết cho các học sinh phổ thông cơ sở và trung học. Các sự kiện liên quan đến khoa học được tổ chức như một hoạt động trong Chương trình Khoa học 2012 của thành phố Dublin cũng nhằm tăng tính phổ cập của khoa bọc. Chiến lược quốc gia về giáo dục đại học công bố năm 2011 tập trung chủ yếu vào các kỹ năng chung, đặc biệt đến sự sáng tạo và doanh nghiệp là cần thiết cho đổi mới và tăng trưởng kinh tế. Tất cả các cơ sở giáo dục đại học được khuyến khích đưa các sáng kiến giáo dục này vào cấp đại học và sau đại học.

Lĩnh vực công nghệ nổi trội: Chương trình ưu tiên nghiên cứu của Ailen nhằm mục đich xác định các lĩnh vực cơ hội tiềm năng lớn, mang lại lợi nhuận kinh tế để đặt ra các ưu tiên đầu tư công của Chính phủ. Các lĩnh vực ưu tiên bao gồm lưới điện thông minh, ứng dụng trong y tế và thiết bị y tế, đổi mới dịch vụ và các hoạt động kinh doanh, năng lượng tái tạo biển và nền tảng kỹ thuật số, nội dung và ứng dụng.

Đổi mới xanh: Báo cáo của Nhóm hành động cấp cao về doanh nghiệp xanh (2009) đã đưa ra khuyến nghị về biện pháp tôtt nhất để thúc đẩy nền kinh tế xanh ở Ailen và hình thành một khu vực tăng trưởng có khả năng tạo ra 8.000 việc làm. Các khuyến nghị nhấn mạnh nhu cầu hỗ trợ các khu vực có tiềm năng lớn (như quản lý nước và chất thải, thu hồi và tái chế cũng như các công nghệ năng lượng tái tạo) để tích lũy năng lực nghiên cứu cần thiết và sử dụng các công cụ chính sách như tài chính và thu mua xanh. Việc thực hiện đang được tiếp tục theo Kế hoạch hành động về việc làm 2012.

Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013

Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN

Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật

0