24/05/2018, 13:02

Khoa học, công nghệ và đổi mới ở nước ITALIA?

Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Do nhiều chỉ số cho thấy mức độ hoạt động KHCNĐM khiêm tốn, Italia đang tập trung tăng cường hoạt động này. Năm 2010, GERD chỉ chiếm 1,26% GDP, bằng khoảng một nửa mức trung bình của OECD và tương đương với cường độ NC&PT của các nền kinh tế mới ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)

Do nhiều chỉ số cho thấy mức độ hoạt động KHCNĐM khiêm tốn, Italia đang tập trung tăng cường hoạt động này. Năm 2010, GERD chỉ chiếm 1,26% GDP, bằng khoảng một nửa mức trung bình của OECD và tương đương với cường độ NC&PT của các nền kinh tế mới nổi. Khu vực doanh nghiệp thực hiện chỉ khoảng một nửa GERD, một tỷ lệ đóng góp thấp đối với một nền kinh tế tiên tiến. BERD ở mức 0,66% GDP, thấp hơn mức trung bình của OECD, với hoạt động dài mới của khu vực doanh nghiệp khác nhau giữa các doanh nghiệp và các ngành. Trong thực tế, một bộ phận các doanh nghiệp đổi mới, bao gồm các DNVVN linh hoạt, cùng tồn tại với nhiều doanh nghiệp không đổi mới hoạt động ở các mức năng suất thấp. Hơn nữa, nhiều năng lực đổi mới và NC&PT tập trung ở các khu vực phía Bắc và Trung Italia. Tỷ trọng NC&PT công được ngành công nghiệp tài trợ thấp là biểu hiện của mối liên kết yếu kém giữa công nghiệp với khoa học. Vốn mạo hiểm thiếu và tỷ lệ đơn đăng ký sáng chế của các doanh nghiộp trẻ thấp. Nói chung, Italia có xu hướng thực hiện tốt hơn các chỉ số đổi mới không dựa vào NC&PT (ví dụ, Italia đứng đầu trong các thiết kế cộng đồng). Số người dân hoàn thành giáo dục đại học chiếm tỷ lệ rất nhỏ, mặc dù dã có sự gia tăng đáng kể từ năm 1999. Tương ứng với GERD của mình, Italia chỉ có một số ít nhà nghiên cứu đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, sự tham gia của các nhà nghiên cứu của nước này vào mạng lưới quốc tế khá mạnh với 41% bài báo khoa học và 13% đơn đăng ký sáng chế theo hiệp định PCT được thực hiện thông qua hợp tác quốc tế. Thuê bao Internet gần ở mức trung bình và sự sẵn sàng của chính phủ điện tử là tương đối thấp.

Chỉ tiêu

Giá trị

Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010)

Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010

43,9

-0,1

Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009

4,99

+3,6

GERD, tính theo % GDP, năm 2009

1,26

+2,7

Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010

0,55

-0,9

Những thay đổi gần đây về chi tiêu cho KHCNĐM: GERD đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 2,7% trong nửa sau của thập kỷ trước. Năm 2009, khu vực công nghiệp tài trợ 44% GERD, tài trợ từ Chính phủ chiếm 42%, và 9% NC&PT được tài trợ từ nước ngoài. Với ngân sách 2,5 tỷ USD (2010-2011), Quỹ Xúc tiến nghiên cứu (FAR) đóng góp đáng kể vào việc tăng tài trợ công cho các doanh nghiệp, các trường đại học và các tổ chức nghiên cứu công.

Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Kế hoạch Nghiên cứu quốc gia (2011-2013) nhằm mục đích thúc đẩy nghiên cứu bằng cách tăng cường sự hợp tác của khu vực doanh nghiệp với khu vực nhà nước và tài trợ cho quốc tế hóa nghiên cứu. Chương trình Công nghiệp 2015 (2006-2015) được xây dựng để hỗ trợ cho các mạng lưới doanh nghiệp, các dự án đổi mới của khu vực công nghiệp và bao gồm một quỹ tài trợ cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, Chương trình Cải cách quốc gia 201Ị-2012 đòi hỏi các chính sách chung để có một tác động nhỏ đến ngân sách quốc gia. Các DNVVN và các doanh nghiệp ở miền Nam Italia được đặc biệt chú ý trong các chiến lược và các chính sách KHCNĐM. Khung Chiến lược quốc gia 2007-2013 bao gồm Chương trình Hành động nghiên cứu và năng lực cạnh tranh quốc gia 2007-2013, được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khu vực châu Âu (ERDF) và Quỹ Quay vòng quốc gia, có tầm quan trọng cao đối với năng lực cạnh tranh và sự gắn kết của khu vực.

Chính sách quản trị KHCNĐM : Bộ Phát triển Kinh tế (MISE) chịu trách nhiệm vé đổi mới công nghiệp, Bộ Giáo dục, Đại học và Nghiên cứu (MIUR) chịu trách nhiệm về hệ thống giáo dục quốc gia, bao gồm giáo dục đại học và chịu trách nhiệm thúc đẩy nghiên cứu ở cấp quốc gia và quốc tế. Cơ quan Đánh giá Trường Đại học và Viện Nghiên cứu quốc gia (ANVUR) hoạt động dưới sự chi đạo của MIUR từ năm 2010.

Nền tảng khoa học: Hệ thống nghiên cứu công, với chi tiêu của các trường đại học cho NC&PT (HERD) chiếm 0,36% và của Chính phủ (GOVERD) chiếm 0,18% GDP năm 2010, thực hiện phần NC&PT lớn hơn trong tổng chi cho NC&PT quốc gia. Khu vực đại học và các tổ chức nghiên cứu công đóng góp vào đổi mới theo nhiều cách, nhưng sự hợp tác của họ với các doanh nghiệp kinh doanh cần được cải thiện. Để cải thiện hoạt động nghiên cứu công, một chương trình cải cách các cơ chế tài trợ và quản lý các trường đại học đã được Quốc hội thông qua năm 2010 và đang được thực hiện. Việc cải cách các viện nghiên cứu công trực thuộc MIUR gần đây cũng được tiến hành.

Đổi mới về NC&PT cùa doanh nghiệp: Giống như các nước OECD khác, Italia đã có sự dịch chuyển theo hướng tài trợ gián tiếp cho NC&PT trong những năm gần đây. Như được nêu trong Chương trình Cải cách quốc gia 2011, trong giai đoạn 2011-2012, các ưu đãi thuế được tăng cường cho nghiên cứu được các doanh nghiệp ủy quyền cho các trường đại học, các viện nghiên cứu công cũng như cho các hợp tác nghiên cứu giữa doanh nghiệp, các trường đại học và các tổ chức nghiên cứu công.

Đổi mới khu vực công: Kế hoạch chính phủ điện tử 2012 của Bộ Hành chính công đề ra một tập hợp các dự án đổi mới số đề hiện đại hóa hành chính công, giúp cho hoạt động hành chính công minh bạch và hiệu quả hơn, và để nâng cao chất lượng của các dịch vụ và giảm chì phí. Kế hoạch này đưa ra 80 dự án và 27 mục tiêu được hoàn thành vào năm 2013.

Dòng trí thức và thương mại hóa: Italia đã đưa ra các sáng kiến khác nhau nhằm mục đích thu hẹp khoảng cách giữa giới học viện và ngành công nghiệp. Các khu công nghệ cao cũng như các phòng thí nghiệm công - tư được thành lập ở các địa điểm khác nhau trên khắp đất nước. Quỹ Đổi mới quốc gia (FNI) do MISE thành lập năm 2012 để tài trợ cho các dự án đổi mới dựa trên khai thác kiểu dáng công nghiệp và bằng sáng chế. Ngoài ra, các gói đổi mới được đưa ra năm 2011 hỗ trợ hoạt động đổi mới của các DNVVN. Mạng lưới đổi mới công nghiệp và nền tảng công nghệ quốc gia (RIDITT) được thành lập năm 2010 để bảo đảm sự phổ biến công nghệ và đổi mới giữa các hệ thống nghiên cứu và các doanh nghiệp.

Toàn cầu hóa: Chiến lược Quốc tế hóa nghiên cứu của Italia (SIRIT 2010-2015) tích hợp các ưu tiên nghiên cứu quốc gia vào trong các ưu tiên và cảc chiến lược của quốc tế, đặc biệt là Chiến lược 2020 của EU. Italia tham gia tích cực trong các chương trình NC&PT của EU, Diễn đàn Chiến lược châu Âu về cơ sở hạ tầng nghiên cứu (ESFRI) và các sáng kiến khác của châu Âu như EUREKA (cho hợp tác KH&CN quốc tế) và Erasmus (cho luân chuyển sinh viên và các nhà nghiên cứu).

Nguồn nhân lực: Italia thiếu nguồn nhân lực có kỹ năng cao và hầu hết nguồn nhân lực có trình độ cao đôi khi lại tìm kiếm các cơ hội tốt hơn ở nước ngoài. Trong giai đoạn 2011-2013, tiền lương và các cơ hội phát triển nghề nghiệp của giới học thuật bị ngừng trệ để kiềm chế chi tiêu của khu vực công. Thiếu các cơ hội, các triển vọng nghề nghiệp và điều kiện làm việc không hấp dẫn các nhân tài có thể tiếp tục làm suy yếu nguồn nhân lực của nước này. Một đạo luật của Quốc hội được đưa ra gần đây nhằm mục đích hỗ trợ việc tuyển dụng các nhà nghiên cứu ở giai đoạn đầu sự nghiệp. Kế hoạch Hành động mới cho việc làm của thanh niên trong tương lai (Italia 2020) nhằm vào việc sắp xếp lại chương trình đào tạo phù hợp hơn với nhu cầu thay đổi của ngành công nghiệp.

Các công nghệ mới nổi: Italia đang giải quyết các vần đề nghiên cứu tiên ngành khác nhau được coi là quan trọng cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ví dụ như nghiên cứu về di sản thiên nhiên và văn hóa và về các hệ thống phức tạp của các thành phố thông minh.

Đổi mới xanh: ltalia đã cải thiện ưu thể công nghệ hiện hữu của mình trong các công nghệ liên quan đến môi trường hơn một thập kỷ qua và sẽ sớm phát triển chuyên ngành, nếu xu hướng này tiếp tục. Chính phủ đưa ra một số sáng kiến để thúc đẩy sản xuất năng lượng tái tạo. Sáng kiến Conto Encrgia nhằm thúc đẩy quang điện mặt trời, và Quỹ Kyoto được thiết lập để tài trợ cho các biện pháp giảm thiểu phát thái khí nhà kính, Sáng kiến Chứng chỉ xanh thúc đẩy sản xuất điện năng từ các nguồn tái tạo và Chứng nhận trắng - nhan hiệu hiệu suất năng lượng (TEE) – khuyến khích các biện pháp tiết kiệm năng lượng. Một gói ưu đãi tài chính cho những can thiệp vào hiệu quả năng lượng trong các tòa nhà mới và hiện có đã được Quốc hội thông qua năm 2011.

Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013

Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN

Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật

0