Khoa học, công nghệ và đổi mới ở nước Na Uy?
Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Tổng quan chính sách đổi mới cùa OECD đă nêu rõ, về hiệu quả hoạt động, Na Uy có hoạt động đổi mới cao hơn so với mong đợi từ tổng chi quốc gia cho NC&PT khá khiêm tốn của nựớc này (1,69% GDP năm 2010) cho thấy. Chi tiêu của doanh nghiệp cho ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)
Tổng quan chính sách đổi mới cùa OECD đă nêu rõ, về hiệu quả hoạt động, Na Uy có hoạt động đổi mới cao hơn so với mong đợi từ tổng chi quốc gia cho NC&PT khá khiêm tốn của nựớc này (1,69% GDP năm 2010) cho thấy. Chi tiêu của doanh nghiệp cho NC&PT (0,87%) thấp hơn mức trung bình của OECD, nhưng các chỉ số về doanh nghiệp, nhất là vốn mạo hiểm, vượt quá tiêu chuẩn nàỵ. Các chỉ số liên quan đến nền tảng khoa học gần bằng hoặc cao hơn một chút so với mức trung bình OECD. Ưu thế công nghệ của Na Uy trong các công nghệ môi trường là rất lớn và tăng đáng kể trong thập kỷ qua. Các công nghệ sinh học và công nghệ nano cũng như công nghệ thông tin và truyền thông, ít được quan tâm hơn dù có những cải tiến nhất định.
| Chỉ tiêu | Giá trị | Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010) |
| Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010 | 75,3 | -1,0 |
| Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009 | 7,14 | +0,0 |
| GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | 1,69 | +3,9 |
| Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | 0,84 | +6,8 |
Hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông rất vững chắc và xếp vị trí gần đầu OECD. Các khía cạnh thương mại, nhất là đăng ký cấp sáng chế của các trường đại học và phòng thí nghiệm công, còn khiêm tốn.
Những thay đổi gần đây về chi tiêu KHCNĐM: Chi tiêu NC&PT đã tăng lên 4,7 tỷ USD năm 2010. Từ năm 2005-2010, tổng chi tiêu cho NC&PT tăng mỗi năm 3,9% và kinh phí công cho NC&PT ở mức 6,8%, là những các dấu hiệu về khả năng phục hồi của nền kinh tế và cam kết của Chính phủ về khoa học, công nghệ và đổi mới. Năm 2009, khu vực công nghiệp đã chiếm 44% tổng chi cho NC&PT, ngân sách chính phủ là 47% và 8% từ nguồn nước ngoài.
Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Sách trắng về Chính sách Đổi mới: Một Na Uy đổi mới và bền vững nhằm tăng cường đổi mới thông qua con người sáng tạo và hoạt động kinh doanh. Sách trăng về Nghiên cứu (2009- 2013) xác định chín mục tiêu chính sách ưu tiên. Các chiến lược tăng trưởng xanh và công nghệ sinh học được đưa ra năm 2011; các chiến lược công nghệ nano và công nghệ thông tin, truyền thông hoàn thiện năm 2012. Chiến lược Ocean 21 bắt đầu năm 2011 như sự kế tiếp mở rộng “các chiến lược-21” trước đây. Hội đồng Nghiên cứu Na Uy còn phát triển các chiến lược nghiên cứu, vừa theo chủ đề lại vừa bao quát các vấn đề như quốc tế hóa và đổi moi.
Chính sách quản trị KHCNĐM: Các bộ của Na Uy đều có trách nhiệm cấp kinh phí NC&PT trong lĩnh vực của họ. Các ưu tiên quốc gia cho nghiên cứu và đổi mới được đề ra ở cấp chính phủ. Là hội đồng nghiên cứu duy nhất tại quốc gia này, Hội đồng Nghiên cứu Na Uy có vai trò quan trọng trong xây dựng và triển khai chính sách nghiên cứu và đổi mới, đảm bảo sự điều phối các vấn đề liên quan đến nghiên cứu từ nghiên cứu cơ bản đến đổi mới. Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia được tổ chức lại từ ngày 1/1/2011. Cơ quan Đổi mới Na Uy cấp kinh phí cho đổi mới doanh nghiệp và phát triển vùng. Hiện nay, cơ quan này thuộc quyền sở hữu của Bộ Thương mại và Công nghiệp (51 %) và chính quyền hạt (49% trên cơ sở bình đẳng). Công ty Phát triển Công nghiệp Na Uy cung cấp các dịch vụ thông tin và hạ tầng thực tế cho đổi mới; công ty này sở hữu một phần các công viên khoa học và nghiên cứu. Hội đồng Thiết kế Na Uy khuyến khích sử dụng thiết kế làm công cụ đổi mới chiến lược. Cơ quan Đổi mới Na Uy và Công ty Phát triển Công nghiệp Na Uy đã được đánh giá toàn diện vào năm 2010. Đánh giá về Hội đồng Nghiên cứu Na Uy cũng đang được thực hiện.
Nền tảng khoa học: Khu vực công là khu vực thực hiện nghiên cứu quan trọng ở Na Uy. Chi tiêu cho NC&PT của khu vực đại học bằng 0,55% GDP và Chính phủ chi cho NC&PT ở mức 0,28% GDP. Từ năm 2012, Chính phủ quyết định dừng hoạt động của Quỹ Nghiên cứu do những biến động tỷ lệ lãi suất làm giảm việc cấp vốn ổn định. Quỹ này được thay thế bằng cơ chế cấp vốn thường xuyên thông qua ngân sách quốc gia. Thành tích và các cơ chế phân bổ dựa vào chỉ số được sử dụng trong tất cả các nhánh của hệ thống nghiên cứu công, bao gồm các cơ sở đại học, được phân bổ 30% ngân sách các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp y tế.
NC&PT và đổi mới trong doanh nghiệp: Một tỷ lệ tương đối lớn chi doanh nghiệp cho NC&PT ở nước này là từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Kế hoạch khấu trừ thuế Skattefunn là kế hoạch lớn duy nhất hỗ trợ NC&PT doanh nghiệp với chi tiêu thuế ước tính là 135 triệu USD năm 2012. Chương trình trợ cấp NC&PT doanh nghiệp là sân chơi nghiên cứu mở, trong đó các công ty cạnh tranh về chất lượng dự án mà không có những hạn chế về chủ đề. Các chương trình công nghệ cụ thể và định hướng ngành cũng được triển khai. Tầm quan trọng đặc biệt dành cho thiết kế. Na Uy có một sổ thay đổi từ hồ trợ gián tiếp sang trực tiếp cho nghiên cứu, phát triển và đổi mới doanh nghiệp.
Tinh thần doanh nghiệp: Na Uy có một vài chương trình cụ thể về vốn khởi nghiệp: Argentum, chiến lược đầu tư quỹ của quỹ (fund of fund) đầu tư vào vốn mạo hiểm và quỹ cổ phần tư nhân từ khởi nghiệp đến thu mua toàn bộ. Công ty Đầu tư Investinor AS đầu tư cổ phần trực tiếp vào các công ty trong giai đoạn khởi đầu và kinh doanh sau này. Đổi với quỹ vôdn khởi đầu, vốn của nhà nước được cung cấp dưới dạng các khoản vay với yếu tố giảm nhẹ rủi ro.
Các chính sách cụm và vùng: Nghiên cứu, phát triển và đổi mới vùng được thúc đẩy trong các cụm thông qua các chương trình VRI và ARENA cũng như trong các trung tâm chuyên gia và được cấp kinh phí từ các quỹ vùng dành riêng cho NC&PT.
Dòng tri thức và thương mại hóa: Một số công cụ thúc đẩy dòng tri thức, gồm có các trung tâm xuất sắc, trung tâm đổi mới dựa vào nghiên cứu và các trung tâm nghiên cứu năng lượng thân thiện môi trường. Ngoài ra, các chương trình hợp đồng NC&PT ngành công nghiệp và khu vực công khuyến khích hợp tác phát triển nghiên cứu. Chương trình FORNY 2020 và các cơ quan chuyển giao thông nghệ đẩy mạnh hoạt động thương mại hóa.
Toàn cầu hóa: Quốc tế hóa là ưu tiên tổng thể của chính sách nghiên cứu và đổi mới của Chính phủ. Năm 2010, Hội đồng Nghiên cứu Na Uy đã thông qua chiến lược quốc tế hóa mới, theo đó, toàn bộ các hoạt động của Hội đồng phải bao gồm các mục tiêu và kế hoạch rõ ràng về hợp tác quốc tế, về cấp kinh phí, có sự chuyển dịch từ các công cụ dành riêng cho quốc tế hóa sang phạm vi quốc tế hóa được bao hàm trong tất cả các hoạt động.
Nguồn nhân lực: Na Uy có tỷ lệ cao dân sổ có trình độ bậc đại học và việc làm khoa học và công nghệ trong tổng số lao động. Kể hoạch hành động về doanh nghiệp trong giáo dục năm 2009-2014, nhằm tăng cường các kỹ năng cá nhân, quan điểm, tính sáng tạo và tư duy đổi mới của sinh viên. Chương trình Khoa học cho chiến lược tương lai 2010-2014 khuyến khích môn toán, khoa học và công nghệ. Định hướng và thông tin nghề nghiệp được thúc đẩy thông qua hợp tác vùng và các trung tâm nghề nghiệp.
Các công nghệ nổi trội: Tăng trưởng xanh và các vấn đề môi trường tiếp tục phát triển như là các lĩnh vực chủ chốt trong khoa học, công nghệ và đổi mới, song song với các lĩnh vực công nghệ ưu tiên như công nghệ sinh học, nano và công nghệ thông tin và truyền thông.
Đổi mới xanh: Chiến lược Tăng trưởng xanh khuyến khích công nghệ xanh bằng một chương trình 52 triệu USD (2011-2013), bao gồm các cơ sở sản xuất năng lượng gió ngoài khơi và các mô hình giao thông xanh. Các trung tâm nghiên cứu năng lượng thân thiện môi trường đã được thành lập sau khi đã có một trung tâm mới nghiên cứu khí hậu.
Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013
Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN
Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật