Khoa học, công nghệ và đổi mới ở nước Hà Lan?
Ảnh minh họa (Nguồn: internet) NC&PT của nước này thiên về các công ty sản xuất lớn và được thúc đẩy bởi các liên kết chặt chẽ với khu vực hàn lâm, tỷ lệ nghiên cứu công được tài trợ bởi ngành công nghiệp cao. Khu vực đại học đạt được thành tích khoa học đẳng cấp thế giới và sổ ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)
NC&PT của nước này thiên về các công ty sản xuất lớn và được thúc đẩy bởi các liên kết chặt chẽ với khu vực hàn lâm, tỷ lệ nghiên cứu công được tài trợ bởi ngành công nghiệp cao. Khu vực đại học đạt được thành tích khoa học đẳng cấp thế giới và sổ đăng ký bàng sáng chế PCT của các trường đại học và phòng thí nghiệm công ở trên mức trung bình của OECD. Ưu thế công nghệ hiện hữu của Hà Lan mạnh mẽ và đang tăng lên trong các ngành công nghệ mới nổi, nhưng mất một số động lượng trong các ngành công nghệ liên quan đến môi trường và lĩnh vực CNTT đã bị giảm sút.
| Chỉ tiêu | Giá trị | Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010) |
| Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010 | 58,8 | +0,7 |
| Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009 | 3,86 | +2,9 |
| GERD, tính theo % GDP, năm 2009 | 1,85 | +0,9 |
| Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | 0,75 | +1,6 |
Hiệu suất tổng thể của nguồn nhân lực được đánh giá tốt, với tỷ lệ người có trình độ đại học đạt 32%, Hà Lan có 39% lao động làm việc trong các ngành nghề thuộc lĩnh vực KH&CN, điểm PISA trong lĩnh vực khoa học của học sinh trong độ tuổi 15 xếp thứ 6. Tỷ lệ 6,2 nhà nghiên cứu trên 1000 tao động ở dưới mức trung bình của OECD. Các nhà nghiên cứu cũng đfl hội nhập tốt trong mạng lưới quốc tế với kết quả 51% bài báo khoa học được thực hiện thông qua đồng tác giả quốc tế, mặc dù đơn xin cấp bầng sáng chế PCT được tạo ra thông qua hợp tác quốc tế chiếm tỷ lệ khiêm tốn là 19%. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đang phát triển mạnh mẽ với 38 thuê bao băng thông rộng và 44 thuê bao mạng không dây tính trên 100 dân. Chỉ số sẵn sàng chính phủ điện tử của Hà Lan đứng thứ hai trong OECD.
Những thay đổi gần đây trong chi tiêu KHCNĐM: GERD gia tăng ở mức khiêm tốn: 0,9%/ năm trong vòng 5 năm tính đến năm 2010, mục tiêu cùa Hà Lan là GERD đạt 2,5% GDP vào năm 2020. Trong năm 2009, các nguồn tải trợ GERD gần như tương đương nhau, tài trợ từ khu vực công nghiệp là 45%, từ chính phủ là 41%, và 11% là tài trợ từ nước ngoài. Sau cuộc khủng hoảng, 214 triệu USD đã được đầu tư nhằm giữ các nhà nghiên cứu khu vực tư nhân ở lại trong lực lượng lao động thông qua việc điều họ đến làm việc tại các trường đại học và viện nghiên cứu công. Độ Vãn hóa, Giáo dục và Khoa học cũng đã phân bổ nguồn ngân sách 305 triệu USD cho giáo dục đại học.
Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Chiến lược mới - Vươn lên hàng đầu: Hướng tới một chính sách Doanh nghiệp mới, đã được triển khai vào năm 2011 nhằm cải cách chinh sách công nghiệp không nhất quán và rõ ràng, nhằm mục tiêu trở thành một trong năm nền kinh tế trí thức hàng đầu thế giới. Chính sách này tập trung nghiên cứu 9 ngành hoạt động hàng đầu (nông nghiệp - thực phẩm, nghệ vườn và nguồn giống, vật liệu công nghệ cao và hệ thống, năng lượng, hậu cần, các ngành công nghiệp sáng tạo, khoa học cuộc sổng, hỏa chất, và nước), đồng thòi tập trung kich thích đổi mới theo phía cầu thông qua tiếp cận tài chính của doanh nghiệp, sử dụng hợp lý hơn cơ sở hạ tầng tri thức và sử dụng các biện pháp khuyến khích tài chỉnh. Chiến lược bao gồm việc củng cổ tri thức và đổi mới ở cà hai khu vực công và tư nhân, với 662 triệu USD được tài trợ vào năm 2015.
Chính sách quản trị KHCNĐM: Với mục tiêu sắp xếp một hệ thống quản trị phân đoạn, Bộ Kinh tế, Nông nghiệp và Đổi mới đã được thành lập vào năm 2010 và tập trung vào đổi mới. Bộ Văn hóa, Giáo dục và Khoa học tập trung vào lĩnh, vực giáo dục và khoa học. Cục Doanh nghiệp Hà Lan (NL Agency) là cơ quan là đầu mổi Hên lạc cho các doanh nghiệp, các tổ chức tri thức và cơ quan chính phủ nhằm cung cấp thông tin, tư vấn, hỗ trợ tài chỉnh, mạng và các vấn đề pháp lý. Hội đồng nghiên cứu Hà Lan, Viện Hàn lâm Khoa học Hà Lan và Hiệp hội Phân tích Chính sách kinh tế Hà Lan cùng giữ vai trò là những tổ chức quản lý hết sức quan trọng.
Nền tảng khoa học: Hà Lan có một nền tảng khoa học vững chắc với một tỷ lệ cao chi đầu tư NC&PT công tính theo GDP, các trường đại học được đánh giá có chất lượng cao và các sản phẩm nghiên cứu mạnh. HERD bằng 0,75% GDP trong năm 2010, cũng là một trong những tỷ lệ cao nhất trong OECD.
NC&PT và đổi mới trong doanh nghiệp: Gần đây Chính phủ đã tiến hành phân bổ lại 662 triệu USD để giảm thuế kinh doanh, các nguồn trợ cấp sẽ được chuyển đổi thành các khoản vay. Luật Thúc đẩy NC&PT là công cụ chính để kích thích NC&PT thông qua việc cung cấp các khoản khấu trừ thuế đổi với tiền lương của lao động NC&PT. Kế hoạch khấu trừ NC&PT mới được áp dụng năm 2012 sẽ giảm thuế cho những đầu tư liên quan đến NC&PT. Quỹ Đổi mới, với ngân sách hàng năm là 159 triệu USD, thực hiện cung cấp các khoản vay và vốn rủi ro.
Tinh thần doanh nghiệp: Hà Lan có ít DNVVN tăng trưởng nhanh và có mục tiêu thúc đẩy sự liên kết của các trường đại học và các doanh nghiệp (đặc biệt là các DNVVN). Cơ quan Ondememersplein sẽ được thành lập như một văn phòng một cửa làm việc 24 giờ cung cấp thông tin và tư vấn cho các doanh nghiệp giờ, mục đích là nhằm làm giảm gánh nặng hành chính cho doanh nghiệp. Mạng Syntens giúp hỗ trợ các DNVVN thông qua 15 trung tâm quốc gia và với 270 cố vấn viên. Chương trinh hành động Giáo dục và Kinh doanh là một sáng kiến nhằm kích thích kiến thức doanh nghiệp trong giáo dục thông qua trao đổi giữa các tổ chức giáo dục và các nhà doanh nghiệp.
Cơ sở hạ tầng khoa học và CNTT-TT: Nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, Lộ trình Cơ sở hạ tầng nghiên cứu quy mô lớn năm 2008 đã xác định các cơ sở được tài trợ công để thúc đẩy nghiên cứu đột phá cùng với hợp tác quốc tế. Trung tâm Holst, một liên doanh đối tác công - tư về các lộ trình công nghệ và nghiên cứu chung, và Quỹ SURF giúp thúc đẩy đổi mới công nghệ thông tin.
Các cụm ngành và chính sách khu vực: Phương pháp tiếp cận lĩnh vực hàng đầu dựa trên kiến thức chuyên ngành đã được phát triển trong chín lĩnh vục kinh tế được lựa chọn cho mục đích đó, chẳng hạn như lĩnh vực: công nghệ cao, thực phẩm và hóa chất. Các đề án khác bao gồm Hành động vì Lưu thông kiến thức và Hợp đổng Thực hiện đổi mới.
Toàn cầu hóa: Hà Lan có một định hướng quốc tế mạnh mẽ nhưng đã không thể chuyển dịch định hướng này sang thu hút lao động tri thức nước ngoài và các doanh nghiệp thâm dụng trí thức. Chương trình Quốc tế hoá Giáo dục đại học và một số hiệp định song phương với các nước khác nhằm mục đích tăng cường hợp tác quốc tế. Đề án Khuyến khích Nghiên cứu đổi mới nới rộng các điều kiện để trợ cấp cho người nước ngoài. Tổ chức Hợp tác quổc tế trong Giáo dục đại học Hà Lan và Chương trình Thị thực Khoa học hỗ trợ thực hiện quốc tế hóa ngành giáo dục. Prepare2Start là một dịch vụ miễn phí nhằm thúc đẩy quá trình quốc tế hóa.
Nguồn nhân lực: Sáng kiến Nền tảng quổc gia về KH&CN nhằm mục đich thúc đẩy giáo dục khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học ở tất cả các độ tuổi. Đề án Thúc đẩy Nghiên cứu Đổi mới là một sáng kiến chung của các cơ quan NWO, KNAW và các trường đại học với mục đích hỗ trợ các nhà nghiên cứu, đồng thời thúc đẩy ngành nghề khoa học. Ngân sách của Chương trình cho năm 2012 là 199 triệu USD. Trong năm 2011, Nội các Hà Lan đã công bố một chương trình nghị sự chiến lược dành cho Giáo dục đại học, Nghiên cứu và Khoa học: Đặc trưng trong tính đa dạng nhằm thách thức các nhà doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu, giảng viên và sinh viên xuất sắc. Trung tâm Khoa học NEMO có mục đích thúc đẩy nền văn hóa khoa học và đổi mới.
Các ngành công nghệ mới nổi: Một loạt các công nghệ mới nổi thuộc những lĩnh vực dược nêu trong Chiến lược Ngành hàng đầu, ví dụ: hệ thống và vật liệu công nghệ cao, khoa học đời sống. Point One tiến hành NC&PT trong lĩnh vực công nghệ nano, hệ thống nhúng và cơ điện tử.
Đổi mới xanh: Công cuộc đổi mới xanh luôn là một ưu tiên hàng đầu. Một số chương trỉnh hỗ trợ NC&PT trong lĩnh vực chuyển đổi năng lượng (EOS8 và UK.R9) với nguồn ngân sách 79 triệu USD. Đề án Quỹ Xanh và Đề án vốn đầu tư mạo hiểm (cơ sở TechnoPartner SEED) cung cấp khoản hoàn thuế để đầu tư vào các Quỹ Xanh ủy quyền.
Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013
Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN
Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật