Khoa học, công nghệ và đổi mới ở Hungary?
Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Một tỷ lệ cao BERD được thực hiện trong các chi nhánh nước ngoài tham gia vào sản xuất công nghệ cao, nhiều lĩnh vực công nghiệp trong nước thực hiện đổi mới còn tương đối ít. Mối liên kết ngành công nghiệp - khoa học hợp lý, với phần đóng góp của ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)
Một tỷ lệ cao BERD được thực hiện trong các chi nhánh nước ngoài tham gia vào sản xuất công nghệ cao, nhiều lĩnh vực công nghiệp trong nước thực hiện đổi mới còn tương đối ít. Mối liên kết ngành công nghiệp - khoa học hợp lý, với phần đóng góp của nghiên cứu công được tài trợ bởi ngành công nghiệp trên mức trung bình của OECD.
| Chỉ tiêu | Giá trị | Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010) |
| Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010 | 26,1 | +0,8 |
| Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009 | 4,21 | +3,6 |
| GERD, tính theo % GDP, năm 2009 | 1,16 | +4,0 |
| Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | 0,46 | -0,6 |
Việc hội nhập KH&CN với các mạng lưới toàn cầu cũng được đánh giá tốt: 48% bài báo khoa học và 32% đơn đăng ký sáng chế được thực hiện với sự hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, số lượng bàng sáng chế PCT của các trường đại học và phòng thí nghiệm nghiên cứu công tính trên GDP thấp hơn mức trung bình của OECD. Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ nano đạt gần với mức trung bình của OECD. Chỉ số nguồn nhân lực còn yếu kém: chi cỏ 20% dân sổ trưởng thành có trình độ đại học và điểm số khoa học PISA của học sinh ở Hungary đứng thứ 27 trong OECD. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đang được phát triển- Hungary có tỷ lệ 20 thuê bao băng thông rộng cố định và 10 thuê bao không dây trên 100 dân. Chỉ số sẵn sàng chính phủ điện tử ở dưới mức trung bình của OECD, tương tự như Slovenia và Cộng hòa Séc.
Thay đổi gần đây trong chi tiêu cho KHCNĐM: GERD của Hungary đứng ở mức 1,16% GDP trong năm 2010. Tuy nhiên, GERD đã tăng mạnh mẽ với tốc độ 4% một năm từ 2005 đến 2010, một trong những tỷ lệ tăng trưởng cao nhất trong EU. Là một phần của Chiến lược châu Âu 2020 Hungary đã nhằm mục tiêu GERD sẽ tăng lên 1,8% GDP vào năm 2020 Trong năm 2010, 47% của GERD được đóng góp bởi ngành công nghiệp 39% là từ chính phủ và 12% từ nước ngoài.
Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Chính sách đổi mới của Hungary thường xuyên thay đổi trong thập kỷ qua. Kế hoạch Szechenyi mới sửa đổi và cập nhật chiến lược chính sách đổi mới KH&CN chính thức vào đầu năm 2011 và hiện là văn bản chiến lược chính. Nó tập trung vào các lĩnh vực công nghệ quan trọng được lựa chọn và là mục tiêu để gia tăng cưòng độ NC&PT nhằm tăng cường sự đổi mới của các công ty.
Chính sách quản trị KHCNĐM: Chính sách quàn lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cũng đã thay đổi thường xuyên trong hai thập kỷ qua và thậm chỉ đã được sửa đổi hai lần kể từ năm 2009. Hiện nay, Hội đồng Chính sách Khoa học, Nghiên cứu và Đổi mới sáng tạo (NK.ITT) cung cấp tư vẩn chiến lược dài hạn cho chỉnh phủ. Bổn bộ (Bộ Kinh tế quốc dân, Bộ Phát triển quốc gia, Bộ Tài nguyên và Hành chính công và Bộ Tư pháp) được đại diện trong NKITT. Văn phòng Đổi mới Quốc gia (NIH) là một tổ chức chính sách quan trọng. Viện Hàn lâm Khoa học Hungary (HAS), với mạng lưới các viện nghiên cứu khoa học, giám sát Quỹ Nghiên cứu khoa học Hungary (OTKA).
Nền tảng khoa học: Hungary có quy mô nghiên cứu khoa học tương đổi nhỏ được chia đều giữa giáo dục đại học yà các viện nghiên cứụ của Viện Hàn lâm Khoa học Hungary. Chi tiêu công cho NC&PT thấp điều này được phản ánh trong bảng xếp hạng các trường đại học và các ấn phẩm quốc tế, cả hai đều dưới mức trung bình của OECD.
NC&PT và đổi mới trong doanh nghiệp: Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đáng kể đến NC&PT của Hungary và chính sách đổi mới. Trong năm 2010, khoảng 77 triệu USD (gần 37% ngân sách cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo) của Quỹ Nghiên cứu và đổi mới công nghệ (KTI) đã bị ngưng lại và một số chương trình đã bị đinh chỉ. Các công cụ khuyến khích NC&PT đối với doanh nghiệp bao gồm tài trợ trực tiếp như tài trợ cạnh tranh, vốn cổ phần và đầu tư mạo hiểm, và chứng từ đổi mới, tín dụng thuế cho NC&PT.
Tinh thần doanh nghiệp: Trình độ công nghệ của phần lớn các doanh nghiệp Hungary, đặc biệt là DNVVN lỗi thời và kém phát triển. Việc gia tăng tỷ trọng của doanh nghiệp đổi mới sáng tạo trong nước là một trong những mục tiêu chính của chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Hungary. Sáng kiến Phát triển công nghệ của doanh nghiệp nhắm vào để đạt được mục tiêu này với ngân sách 278 triệu USD.
Cơ sở hạ tầng khoa học và CNTT-TT: Chi tiêu cho cơ sở hạ tầng nghiên cứu của Hungary là thấp trong giai đoạn chuyển tiếp. Gần đây, các sáng kiến đã được đưa ra để cải thiện chất lượng của các phòng thí nghiệm nghiên cứu công, bao gồm cả Chương trình Cơ sở Hạ tầng Xã hội (SOIP) và Lộ trình Cơ sở hạ tầng nghiên cứu quốc gia (NEKIFUT). Viện Phát triển Cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia (NIIF) là một mạng lưới siêu máy tính dành riêng cho nghiên cứu và Dịch vụ thông tin điện tử (EỈSZ) tạo điều kiện truy cập dữ liệu cho khu vực giáo dục đại học và các tô chức nghiên cứu khoa học.
Chính sách cụm và khu vực: Sáng kiến chính sách cụm là một trụ cột chính trong chính sách khu vực. Chương trình hỗ trợ các cụm của các công ty có tiềm năng xuất khẩu trong các thành phố chính. Các Chương trình Phát triển hoạt động kinh tế (EDOP) và Chương trình hoạt động Trung ương (CHOP) cũng hỗ trợ hoạt động của các cụm. Ngoài ra, còn có sự hỗ trợ cho đổi mới và khu công nghệ.
Dòng tri thức và thương mại hóa: Các sáng kiến cải thiện nghiên cứu và thương mọi hóa công nghệ bao gồm Quỹ Đầu tư mạo hiểm Đổi mới đâu tiên Corvinus (CELIN), hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ khởi nghiệp và Quỹ bảo lãnh chủ sở hữu. Văn phòng Sở hữu trí tuệ Hungary (HIPO) giám sát bào vệ sở hữu trí tuệ và đã soạn thảo Kế hoạch hành động Thúc đẩy năng lực cạnh tranh sở hữu công nghiệp của các nhà doanh nghiệp (Vivace) để giải quyết những yếu kém về sở hữu trí tuệ và văn hóa đổi mới của đất nước
Nguồn nhân lực: Các chỉ số về trình độ kỹ năng và nguồn nhân lục của Hungary là thấp. Kế hoạch Szechenyi Mới nhằm mục đích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực học thuật. Chính phủ đã tăng cường hỗ trợ cho nghiên cứu tiến sĩ, học bổng và cơ hội việc làm sau tiến sĩ. Các sáng kiến khác để cải thiện hệ thống giáo dục bao gồm tài trợ cho đạt được: Sáng kiến “Từ chảy chất xám biến thành nhận chất xám” nhằm vào các nhà nghiên cứu trẻ tài năng, trong khi Chương trình Hungary Campus hỗ trợ cho sự luân chuyển sinh viên quốc tế.
Những công nghệ mới nổi: Hungary đã có những bước cải tiến nghiên cứu công nghệ nano (Đề án NAP Nano) thông qua một thỏa thận NC&PT Quốc tế năm 2005 với Liên bang Nga. Các Chương trình Công nghệ Quốc gia và Sàn giao dịch cũng là các biện pháp để hỗ trợ các công nghệ tiên tiến nhất được mong đợi sẽ đóng vai trò quyết định trong phát triển kinh tế của Hungary.
Đổi mới xanh: Phát triển kinh tế xanh là một trong những lĩnh vực trọng tâm của Kế hoạch Szechenyi Mới. Chiến lược phát triển bền vững quổc gia Hungary năm 2007 khuyến khích NC&PT trong các nguồn năng lượng tương lai. Các sáng kiến xanh khác bao gồm Kế hoạch Hành động Quốc gia về Năng lượng tái tạo, Chiến lược Đổi mới Công nghệ Môi trường Quốc gia (2011-2020) và Chiến lược năng lượng quốc gia đến năm 2030.
Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013
Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN
Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật