25/05/2018, 17:48

Khảo về "Đại Cồ Việt" (Nước Việt - nước Phật giáo)

Quốc hiệu Đại Cồ Việt 大瞿越 do vua Đinh Tiên Hoàng đặt năm 968 SCN. Đại Cồ Việt là quốc hiệu đầu tiên, được dùng trong 8 đời vua của 3 triều Đinh, Tiền Lê, Lý, với quãng thời gian dài 86 năm (từ 968 - 1054). Tức là mãi đến năm Giáp Ngọ, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ 6 (1054), vua Lý Thái ...


 
Quốc hiệu Đại Cồ Việt 大瞿越  do vua Đinh Tiên Hoàng đặt năm 968 SCN. Đại Cồ Việt là quốc hiệu đầu tiên, được dùng trong 8 đời vua của 3 triều Đinh, Tiền Lê, Lý, với quãng thời gian dài 86 năm (từ 968 - 1054). Tức là mãi đến năm Giáp Ngọ, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ 6 (1054), vua Lý Thái Tông mới đặt lại quốc hiệu là Đại Việt.  Nội dung của ba chữ "Đại Cồ Việt" đã được một số học giả quan tâm nghiên cứu. Sở dĩ, nó được chú ý đến như vậy bởi lẽ đây là quốc hiệu chính thức đầu tiên của người Việt sau khi đánh đuổi người phương Bắc, kết thúc giai đoạn một ngàn năm mà cương vực của người Việt chịu sự cai quản của thiên triều. Quốc hiệu Đại Cồ Việt đương nhiên chứa trong đó tư tưởng chính trị và xu hướng tôn giáo của người cầm quyền, tuy nhiên trước nay đây vẫn luôn là một bài toán khó giải. Rất nhiều ý kiến đã đưa ra, nhưng vẫn chỉ được coi như là những giả thuyết. Giả thuyết được đồng thuận nhiều nhất được một số học giả hàng đầu của thế kỷ XX đưa ra, giả thuyết này coi CỒ (lớn) là một từ Việt cổ. Bài viết này viết ra với mục đích tổng thuật, đánh giá về các giả thuyết trước đây, cũng như khảo luận về quốc hiệu đầu tiên này, từ đó đưa ra cách nhận định riêng trên cơ sở những thành quả của các ngành lịch sử, tôn giáo (Phật học), văn bản học, văn tự học v.v.

I. Giả thuyết coi CỒ là từ Việt cổ

2.1. CỒ " " là một từ Việt cổ?
Những học giả như Sở Cuồng Lê Dư (1932), Bửu Cầm (1960), Thúc Ngọc Trần Văn Giáp (1969), Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1971), Lê Văn Quán (1981, 1982, 2007) , Trần Quốc Vượng (1960, 2000) v.v.  đều cho rằng chữ " ", âm Hán-Việt đọc là "cù", thực tế thường được đọc là CỒ nghĩa là "to, lớn". Năm 1975,  Đào Duy Anh viết như sau: "Cồ nghĩa là lớn:mến đức cồ, kinh bùi ngọt. Trong Sử ký thấy dùng từ CỒ trong tên nước ở thời nhà Đinh là Đại Cồ Việt. Ngày nay ta cũng còn thấy dùng chữ kép đại cồ lồ. Song từ Quốc âm thi tập về sau thì không thấy từ cồ được dùng riêng.từ tố TTD nhm) trong từ điển của A de Rhodes (1651), Pierre Pegneaux de Béhaine (1772 - 1773), L.J. Taberd (1838), Huình Tịnh Paulus Của (1895), J.F.M. Génibrel (1898), G.Hue (1937) . Nhưng các từ này không phải là từ cổ mà vẫn dùng trong tiếng Việt ít nhất từ thế kỷ XVII hiện nay. Thực tế, trong suốt lịch sử tiếng Việt, chữ CỒ chưa từng đứng độc lập làm thành phần trong câu. Bởi giai đoạn Cổ- Trung đại, tiếng Việt đã có từ CẢ, CÁI để trỏ nghĩa "lớn", đến giờ là từ LỚN, BỰ, TO, ĐẠI. "CỒ" chỉ là một từ tố trong các từ song tiết như gà cồvịt cồcồ cộ, vịt xiêm cồ, mà thôi. Sắc thái của nó không chỉ có nghĩa là "to" mà đôi khi còn có nghĩa là "ngố, ngờ nghệch" như câu: lóng ngóng như gà cồ/ tồ, Nữ kê tác quái - gà mái đá gà cồ. "Gà cồ" còn có nghĩa là gà đực, gà chọi, như gà cồ sớt chó sói... Đồng dao có câu: Sáo đen là em gà cồGà cồ là cô sáo sậu. Sáo sậu là cậu chim ri..; Vè nói ngược có câu: ...lên non đặt lờ/ xuống sông bửa củi/ gà cồ hay ủi/ heo nái hay bươi... Tục ngữ còn có câu: gà cồ ăn quẩn cối xay (tk XIX), nay chuyển sang nói gà què ăn quẩn cối xay,lại có câu ca dao: Gà cồ lẩn quẩn cối xay/ Ai cho muối ớt xé phay gà cồ. Câu đố dân gian có câu: Vân Tiên cõng mẹ chạy ra, đụng phải gà cồ lại cõng mẹ chạy vô... Từ tố CỒ hiện vẫn đang còn dùng trong một số địa phương. Ví dụ: vùng Sơn Tây, gọi anh nào to cao ngồ ngộ gọi là CỒ, như Thắng Cồ. Hay gọi loài ve sầu to và đen hơn loại ve sầu thường là con "cồ cộ". Chữ "cồ cộ" ở một số nơi khác còn để chỉ loại châu chấu cỡ lớn. Xin xem các từ điển từ xưa đến nay. Những tin đồn thất thiệt thì gọi là tin vịt, hơn nữa là tin vịt cồ. Có thể đi đến nhận định, từ tk XVII đến nay, chữ CỒ là một từ tố không có khả năng đứng độc lập, vì phải nhường chỗ cho các từ đồng nghĩa khác; quan trọng nhất, nó chỉ chuyên dùng cho các đối tượng là động vật mà thôi. Cho nên, khả năng kết hợp  "đức cồ" (TTD nhấn mạnh) là rất khó xảy ra. Việc coi CỒ trong ĐẠI CỒ VIỆT như một từ cổ là kết luận được hình thành từ cảm thức tiếng Việt hiện đại thông qua tra cứu các từ điển cổ mà thôi. Sở dĩ ông coi CỒ là một từ cổ vì ông tra được chữ này (thực ra chỉ là
Về mặt cấu trúc của ngữ danh từ, đây là một cấu trúc của Hán văn. Trong đó, trung tâm ngữ là từ "Việt" đứng ở sau cùng, hai từ "đại" và "cồ" đứng trước để tu sức cho "Việt". Cấu trúc này có lẽ không phải bàn cãi nhiều. Nếu theo giả thuyết CỒ là một chữ Nôm, thì cấu trúc này sẽ có trật tự khá bất ổn như sau: [từ Hán (đại) + từ Nôm (cồ: lớn) + từ Hán]. Mối quan hệ giữa "đại" và "cồ" là mối quan hệ đẳng lập, nhưng "cồ" lại là yếu tố chức năng để chua nghĩa cho "đại". Điểm bất ổn ở chỗ, cố gắng chua nghĩa cho một từ quá đơn giản và dễ hiểu. Cho nên, nói như học giả An Chi: "Đối với chữ Cồ trong Đại Cồ Việt mà nói rằng đây là một yếu tố Nôm có nghĩa là "to, lớn" thì thật chẳng còn gì nhẹ dạ cho bằng. Với cách hiểu quá đỗi hời hợt này, người ta đã gây ra trong 3 tiếng Đại Cồ Việt một cái lỗi quá thô thiển về trùng ngôn (pleonasm): đã "đại" mà lại còn "cồ". Chẳng những thế, cách hiểu rất ít chiều sâu đó còn biến ba tiếng Đại Cồ Việt thành một thứ ngôn ngữ "ba rọi" (vừa Tàu vừa ta) không thể chấp nhận được cho một quốc hiệu nghiêm túc và đáng kính trọng v.v." Hiện tượng từ Nôm được dùng như là một thành phần của một ngữ danh từ tiếng Hán không phải là không có. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Trang thì trong số 4000 vị thần thì có khoảng 10% tên các vị có yếu tố Nôm, như Bến Nước Đại vươngCửa Ngòi Công chúaĐống Đá Hiển ứng Chiêu cảm Đại vương v.v. Có thể thấy yếu tố Nôm ở đây chỉ là danh từ riêng, và cấu trúc của các ngữ này chỉ là [danh từ Nôm + từ Hán]. Giả thuyết coi CỒ chua nghĩa cho ĐẠI là bất ổn cả về ngữ nghĩa lẫn cấu trúc.

2.2. Hệ quả của giả thuyết coi CỒ là một từ Việt cổ.
Dựa trên giả thuyết coi CỒ là chữ Nôm để ghi từ Việt cổ của các học giả vừa nêu, năm 1984, Keith Weller Taylor đi đến nhận xét rằng: "đại cồ" là một dạng ghép "phản ánh sự phát triển sáng tạo của ngôn ngữ bản địa khi nó được sử dụng cho vấn đề chính trị" trong giai đoạn tự chủ mới.

Năm 1992, nhà nghiên cứu văn tự học Trung Quốc, La Trường Sơn cũng viết: "năm 968 scn, triều Đinh bắt đầu kiến lập nhà nước phong kiến tự chủ, chữ CỒ trong quốc hiệu lại là một chữ Nôm, nhưng ý nghĩa của chữ Nôm này vốn đã nằm trong nghĩa của chữ "đại" rồi. Đó là dấu vết chữ Nôm xuất hiện đầu tiên trong thế kỷ X."
Theo chúng tôi, đây là giả thuyết thuần túy văn tự theo chiều hướng có lợi cho dân tộc (TTD nhm) của các nhà Nôm học trong thế kỷ XX, từ đó dẫn đến những ý kiến đồng thuận của các nhà sử học trong nước và các nhà nghiên cứu nước ngoài (những người phi bản địa). CỒ được coi là một từ Nôm để chứng minh ba điểm: 1. Chữ Nôm đã ra đời từ thế kỷ X; 2. Khẳng định quyền độc lập tự chủ của dân tộc thông qua sự tự ý thức của người cầm quyền về ngôn ngữ dân tộc. 3. Độc lập dân tộc là kế thừa truyền thống tộc Việt từ thời Hùng Vương, Âu Lạc, Lạc Việt, với những thành tựu văn hóa như nỏ thần kim quy! Một giả thuyết khoa học đứng trên rung động tình cảm dân tộc là một điều có thể hiểu được vào một số thập kỷ của thế kỷ trước (thế kỉ XX) khi hoàn cảnh lịch sử của đất nước còn chưa được ổn định. Nhưng, kể cả chữ CỒ là một từ Nôm đi chăng nữa thì cũng không thể khẳng định rằng chữ Nôm đã ra đời với tư cách là một hệ thống văn tự dùng để ghi một chuỗi ngôn từ thuần Việt. Như trên đã chứng minh, giả thuyết coi CỒ chua nghĩa cho ĐẠI là bất ổn cả về ngữ nghĩa lẫn cấu trúc. Không những vậy, giả thuyết này còn bất hợp lý xét ở các cạnh khía văn hóa, lịch sử, chính trị, tư tưởng, như dưới đây.

2.3. Chữ CỒ từ bối cảnh văn hóa thời đại. 

Qua các tài liệu lịch sử, ba đời vua (13 năm) nhà Đinh chưa có ý thức về "ngôn ngữ bản địa". Đinh Bộ Lĩnh tự xưng là Vạn Thắng Vương 萬聖王. Quần thần tôn là Đại Thắng Minh Hoàng đế 大勝明皇帝(đế hiệu thuần Hán). Rồi ngay sau khi lên cầm quyền, vua Đinh phong cho con là Đinh Liễn tước là Nam Việt Vương 南越王, rồi sai Đinh Liễn đi sứ để triều cống và xin sự công nhận của thiên triều. Nhà Tống mới lập, còn bận nhiều việc chưa đem quân đến chinh phạt, nên năm 973 Tống Thái Tổ bèn ban bài chế công nhận Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ Quận vương, Đinh Liễn làm Kiểm hiệu Thái sư, Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ檢校太師靜海軍節度使. Năm 970, đổi niên hiệu là Thái Bình太平. Đến niên hiệu Thái Bình thứ 3, vua phong Đinh Tuệ là Vệ Vương衛王, lập con thứ là Hạng Lang làm Thái tử太子.

Như thế, có thể thấy rằng, vào giai đoạn đầu độc lập tự chủ, triều đại đầu tiên của Việt Nam luôn ý thức được rằng, phải mềm mỏng trong vấn đề ngoại giao. Trong nước vẫn có thể có quốc hiệu, vua vẫn tự xưng đế hiệu của mình. Nhưng một mặt, vẫn phải nhún nhường xin nhà Tống công nhận mình là nước phiên thuộc, hàng năm vẫn phải cống sứ đầy đủ. Và muốn được Bắc quốc công nhận, các nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý cũng phải cố gắng chứng tỏ mình là một nước thuộc về văn hóa ngôn ngữ của Trung Hoa, phải cố gắng chứng tỏ mình đã được "giáo hóa", là nước có "văn hiến" (xét theo nghĩa gốc của từ này, như Nguyễn Trãi sau đó gần 500 năm cũng đã viết trong Bình Ngô đại cáo).  Biểu hiện quan trọng nhất của việc có văn hiến là xác định hệ thống văn tự quan phương (văn) và chủ thể sử dụng thứ văn tự đó (hiến), rồi sau đó mới đến thiết lập triều nghi, dùng hình pháp (pháp trị), đóng đô, xây cung điện để làm chỗ thiết triều, xắp đặt bách quan, lập ngôi hoàng hậu, phong vương phong tước, dựng đàn Xã Tắc làm nơi tế tự của triều đình quốc gia (quốc tế, tự điển).v.v. Quan trọng không kém là đặt quốc hiệu. Vì thế, tên nước Đại Cồ Việt là thuần Hán thì thiên triều mới chấp nhận được. Và cũng chỉ có thuần là nghĩa Hán thì nó mới "đồng bộ" với các tên quan chức theo mô hình của Hán như Đô hộ phủ, Thập đạo Tướng quân, Đinh quốc công, tăng thống.v.v. Đinh triều hẳn là triều đình lấy Hán văn làm ngôn ngữ hành chính và ngoại giao (TTD nhm). Bài từ tiếp sứ Vương lang quy của Ngô Chân Lưu sau này cũng là bài thơ chữ Hán vậy.
Nếu không dùng chữ Hán, cái nhà nước vừa mới hình thành sau cả ngàn năm thuộc Bắc, cái nhà nước mới được hưởng chút ít "Thái Bình" sau cái loạn 12 sứ quân kia lại bị liệt vào danh sách những nước "mọi rợ" (không có chữ viết) thì sẽ sớm phải chịu cảnh "khai hóa" của nước lớn. Đọc lời chế của Tống Thái Tổ có thể thấy rõ điều này: "Bộ Lĩnh [...], giữ tiết làm tôi hướng theo phương Bắc, [...], có chí mến văn hóa của Trung Quốc, thường nghĩ đến việc nội phụ, [...],qua lại cống hiến lễ vật. Nay có có lời khen ngợi đã sai con đến xin làm phiên thuộc, vậy phong cho cha làm quận vương.v.v. " Cho nên, lập luận cho "Đinh Tiên Hoàng dùng lại chữ "Việt" là tìm về cội nguồn Lạc Việt (tổ tiên của dân tộc Việt chúng ta), lại thêm chữ CỒ (tiếng Việt) để muốn giương cao nước Cồ Việt là một nước rộng và có nền văn hóa "lớn" thuần Việt (phi Hoa phi Ấn)" là có phần chủ quan, tiền định.
Đến đây, chúng tôi có khuynh hướng nghiêng về phía các học giả cho rằng, quốc hiệu "Đại Cồ Việt" vẫn là tên thuần Hán. Điều đó có nghĩa là, chữ "Cù" không phải là chữ Nôm dùng để ghi âm CỒ của tiếng Việt cổ trong một ngữ danh từ theo trật tự cấu trúc của tiếng Hán.

--
2009
 
--
Tác giả: TS. Trần Trọng Dương
Nguồn: khoavanhoc.edu.vn
 
 
Admin 4
0