24/05/2018, 22:11

Khái niệm tiền công, tiền lương và một số khái niệm khác có liên quan tới tiền công, tiền lương

Trong xã hội con người luôn phấn đấu để thoả mãn nhu cầu của mình. Sự phấn đấu đó từ lâu đã trở thành một trong những động lực chủ yếu kích thích con người hoạt động hăng say, tích cực và cũn từ đó gây tác động cải tạo xã hội làm cho xã hội càng văn minh ...

Trong xã hội con người luôn phấn đấu để thoả mãn nhu cầu của mình. Sự phấn đấu đó từ lâu đã trở thành một trong những động lực chủ yếu kích thích con người hoạt động hăng say, tích cực và cũn từ đó gây tác động cải tạo xã hội làm cho xã hội càng văn minh hơn. cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu của con người không ngừng tăng lên, đa dạng hơn, phong phú hơn.

Xét vè mặt hệ thống, nhu cầu con người bao gồm hai hệ thống, nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội học.

Nhu cầu sinh học là nhu cầu do bản thân họ sự sống đòi hỏi, còn nhu cầu xã hội là nhu cầu do sự đòi hỏi của cuộc sống trong cộng đồng con người.

Qua quá trình phát triển của xã hội loài người cho thấy, ở mỗi thời kỳ, mỗi khu vực tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất xã hội mà mức độ đáp ứng nhu cầu tối thiểu của con người, của người lao động có sự khác nhau. Chính sự khác nhau đó phản ánh mức sống cao hay thấp.

Mức sống tối thiểu được hiểu là mức độ thoả mãn nhu cầu tối thiểu của người lao động trong một thời kỳ nhất định nào đó.

Ở phương diện này, mức sống tối thiểu là cơ sở để xác định mức tiền lương tối thiểu.

Ở nước ta, trong chế độ tiền lương ban hành ngày 23 tháng 5 năng 1993, tiền lương tối thiểu được hiểu như sau:

Tiền lương tối thiểu là số tiền nhất định trả cho người lao động làm công việc đơn giản nhất, ở mức độ nhẹ nhàng nhất và diễn ra trong một môi trường lao động bình thường. Số tiền đó bảo đảm cho người lao động có thể mua được những tư liệu sinh hoạt thiết yếu để tái sản xuất sức lao động của bản thân và có dành một phần nuôi con và bảo hiểm lúc hết tuổi lao động.

Xây dựng hệ thống trả công hợp lý là một vấn đề hết sức phức tạp. vì trong thực tế có hai hình thức trả công đó là trả công theo sản phẩm và trả công theo thời gian.

  1. Chế độ tiền công trả theo thời gian đơn giản là chế dộ trả công mà tiền công nhận được của người công nhân nhận được do mức lương cấp bậc, bậc cao hay thấp hay thấp và thời gian thực tế làm việc nhiều hay ít. Chế độ trả công này chỉ áp dụng ở những nơi khó định mức lao động chính xác, khó đánh giá công việc thật chính xác.
  2. Chế độ trả công theo thời gian có thưởng là sự kết hợp giữa chế độ trả công theo thời gian đơn giản với tiền thưởng khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng hoặc chất lượng đã quy định. Chế độ trả cồng chủ yếu áp dụng đối với những công nhân phụ làm việc phục vụ, công nhân làm việc ở những khâu sản xuất có trình độ cơ khí hoá cao...

Hình thức trả công theo sản phẩm: là hình thức trản công trong đó tiền công được trả phụ thuộc vào mức lương cấp bậc, mức lao động, số lượng sản phẩm thực tế được sản xuất ra và được nghiệm thu. Hình thức trả công teo snả phẩm bao gồm các chế độ sau:

Chế độ trả công theo sản phẩm trực tiếp cá nhân:

Là chế độ trả công theo sản phẩm áp dụng đối với từng công nhân trong đó tiền công tỉ lệ thuận với số lượng sản phẩm được sản xuất ra và được nghiệm thu.

Đơn giá = L/Q hay Đơn giá=L x T

L: lương cấp bậc công việc

Q: mức lương sản lượng

T: mức lương thời gian

Tiền công=Đơn giá x Qtt

Qtt: số sản phẩm thực tế sản xuất, nghiệm thu

Chế độ trả công theo sản phẩm tập thể:

Đó là tiền công được trả cho một nhóm người lao động cho khối lượng công việc mà họ đã thực hiện sau đó phân chia tới từng người theo một phương pháp nhất định nào đó. Tiền công của mỗi người lao động phụ thuộc vào mức lương cấp bậc thời gian làm việc thực tế, mức độ hoàn thành mức lao động của cả nhóm.

i = 1n 

ĐG =

n Q

hay ĐG =  Li x Ti

i = 1

Li: mức lương cấp bậc của công việc i

Li: tổng lương cấp bậc của cả nhóm công nhân

Ti: mức lương thời gian của công việc i

I: lương cấp bậc bình quân của cả nhóm công việc

Chế độ trả công theo sản phẩm gián tiếp:

Là chế độ trả công áp dụng cho những công nhân phụ mà công việc của họ có ảnh hưởng nhiều đến kết quả hoạt động lao động của công nhân chính hưởng lương theo sản phẩm.

ĐG =

ĐG: đơn giá lương sản phẩm của công việc phụ hay phục vụ

L: lương cấp bậc của công nhân phụ hay phục vụ

Q: mức sản lượng của công nhân chính

M: số máy được công nhân phụ phục vụ

Chế độ trả công khoán:

Được áp dụng cho những công việc nếu giao cho từng chi tiết bộ phận công việc sẽ không có lợi mà phải giao toàn bộ khối lượng công việc cho công nhân hoàn thành trong một thời gian nhất định. Đơn giá tính theo hai cách:

  • Xây dựng đơn giá cho một đơn vị công việc.

Tiền công khoán= Đg khoán cho 1 đơn vị x khối lượng công việc

  • Trả cho cả một khối lượng công việc.

Chế độ trả công theo sản phẩm có thưởng:

Đó là các chế độ trả công theo sản phẩm nói trên kết hợp với các hình thức tiền thưởng.

LTH=L+L(m.h)

LTH: tiền công theo sản phẩm có thưởng.

L: tiên công tính theo đơn giá cố định

M: % tiền thưởng cho 1% vượt mức chỉ tiêu tiền thưởng

H: % hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thưởng.

Chế độ trả công theo sản phẩm luỹ tiến:

Là chế độ trả công áp dụng cho khâu thiết yếu hoặc khâu quan trọng của sản xuất mà công việc tăng năng suất lao động ở đó có tác dụng thúc đẩy sản xuất ở những bộ phận sản xuất khác có liên quan góp phẩn hoàn thành vượt mức kế hoạch của xí nghiệp.

Sử dụng hai loại đơn giá:

  • Đơn giá cố định trả cho tất cả các sản phẩm đã hoàn thành.
  • Đơn giá luỹ tiến để trả công cho tất cả các sản phẩm vượt mức khởi điểm.
0