18/06/2018, 16:57

Hợp tác với quân Minh: Người Kinh Lộ

Quân đội nhà Minh Lê Tư “京路多從賊以叛 Kinh lộ đa tùng tặc dĩ phản” (Kinh lộ phần nhiều theo giặc làm phản.) – Toàn Thư Người hợp tác với quân Minh rất nhiều, đặc biệt ở đồng bằng sông Hồng, đến nỗi Toàn Thư phải than thở số người sang Minh trình diện khiến cả ...

tran chien (23)

Quân đội nhà Minh

Lê Tư

 “京路多從賊以叛 Kinh lộ đa tùng tặc dĩ phản”

(Kinh lộ phần nhiều theo giặc làm phản.) – Toàn Thư

Người hợp tác với quân Minh rất nhiều, đặc biệt ở đồng bằng sông Hồng, đến nỗi Toàn Thư phải than thở số người sang Minh trình diện khiến cả nước hầu như trống rỗng. Dưới đây chỉ xem xét chi tiết vài nhân vật quan trọng có tác động mạnh mẽ đến quá trình xâm lăng, chiếm đóng và triệt thoái của quân đội Minh triều.

1. Bùi Bá Kỳ :

Bùi Bá Kỳ (? – ?) người làng Phù Nội, châu Hạ Hồng (nay thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương).

Theo “Cáo nạn biểu” do chính Bá Kỳ viết dâng lên vua Minh, cha ông Bá Kỳ đều làm quan hàng đại phu, mẹ là bà con gần với hoàng tộc Trần nên từ nhỏ đã được đưa vào cung phục dịch hoàng gia, chức quan đến ngũ phẩm. Sau đó ông được đưa ra làm tì tướng của Võ Tiết hầu Trần Khát Chân. Khi họ Hồ soán đoạt, giết hại nhiều người trung thành với vua cũ, trong đó có gia tộc Bùi Bá Kỳ. Bản thân ông bị truy sát gắt gao.

Toàn Thư ghi nhận vụ tàn sát vào năm Kiến Tân II (1399). Nguyên nhân do Trần Khát Chân cùng nhóm đồng mưu định giết Quý Ly trong dịp hội thề Đốn Sơn. Vì Khát Chân chần chừ, thích khách Phạm Ngưu Tất không thực hiện được ý đồ. Việc vỡ lỡ, Quý Ly giết các người liên quan cùng gia đình, tổng cộng hơn 370 nhân mạng.

“Cáo nạn biểu” lưu lại trong “Thơ văn Lý-Trần” rất ngắn gọn. Bài biểu ghi nhận bởi Minh Thực Lục chi tiết rõ ràng hơn. Có lẽ văn bản đến tay vua Minh đã được trau chuốt lại bởi các quan ở Kim Lăng. Bài biểu như sau:

Ngày 6 tháng 8 năm Vĩnh Lạc II (10/9/1404) : Bồi thần An Nam là Bùi Bá Kỳ đến cáo cấp, lời tâu rằng:

“Gia đình thần đời đời thờ họ Trần nước An Nam, cha ông thần là quan Đại phu, chết vì việc nước. Mẹ thần thuộc dòng thân cận tôn thất họ Trần; vì vậy lúc nhỏ thần được hầu hạ Quốc vương, tước ngũ phẩm; rồi được làm Tỳ tướng cho Vũ Tiết hầu Trần Khát Chân. Năm Hồng Vũ thứ 32 thay Khát Chân ra biển Đông Hải chống cự với giặc Nụy. Lúc này gian thần cha con Lê Quí Ly giết chúa soán ngôi, hãm hại trung thần diệt cả dòng họ có đến trăm mười người. Anh em vợ con thần đều bị giết hại; lại sai người đi bắt thần để xẻ thịt. Thần nghe việc biến bèn bỏ quân ngũ, chạy trốn vào rừng, sống nơi cùng tịch cùng Mường Mán, vượn khỉ. Lòng trung thành sáng chói, nhưng uất ức không có chỗ tố cáo. Mới đây nghe tin Hoàng thượng lên ngôi báu, mở mang sự cai trị ra muôn nơi, nên muốn được phơi bày gan ruột, cầu xin diệt nạn này. Trải qua nhiều gian nan nguy hiểm, đến được biên giới. Giả mạo cùng với lái buôn khiêng vác hàng hóa, tháng 4 năm nay đến phủ Tư Minh, Quảng Tây. Được quan ty đưa đón và may mắn được chiêm bái Hoàng thượng. Thần trình rằng gian thần Lê Quí Ly là con của cố Kinh lược Lê Quốc Kỳ. Y đã hưởng ân sủng dưới triều nhà Trần, con là Thương cũng được ban chức cao. Đắc chí với tham vọng, giết vua, đổi tên họ là Hồ Nhất Nguyên; con là Hồ Đê tiếm hiệu soán ngôi, không tôn trọng mệnh lệnh Thiên triều, ngược đãi con dân trăm họ, dân chúng hàm oan kêu trời khấn đất, trung thần nghĩa sĩ nhức óc đau lòng. Thần trong lòng khích động vì điều nghĩa, mạo muội tâu lên Thiên tử xin ban rộng lòng nhân, thương dân chúng vô tội, mang quân cứu dân phạt tội, nối dòng chính thống bị đứt, thần tình nguyện cầm cung nỏ đi dẫn đường biểu dương uy trời, những người trung nghĩa hưởng ứng họp lại diệt bọn giặc, quét sạch hung đồ, lập lại con cháu nhà Trần. [Được như vậy] ắt nơi phiên di xa xôi này rất đội ơn thánh đức, cung kính triều cống, vĩnh viễn làm phiên dậu bên ngoài. Thần bất tài, trộm bắt chước Thân Bao Tư chịu tội đáng chết để thỉnh cầu, kính xin bệ hạ thương xót”.

Thiên tử thương tình, mệnh quan ty cấp cho y phục và thực phẩm. (Minh Thực Lục I, 206-207)[1]

Bùi Bá Kỳ kêu cầu quân Minh sang phù Trần diệt Hồ để trả thù nước, thù chủ cũ lẫn thù nhà.

Sau đó chưa đến một tháng, gia nô cũ của Trần Tông, một hào trưởng vùng biên giới Chiêm Thành, xưng tên Trần Thiêm Bình (Minh Thực Lục : Trần Thiên Bình), mạo danh là cháu nội Trần Nghệ Tông đến Kim Lăng qua ngõ Lão Qua-Vân Nam cũng để xin binh phạt Hồ.

Khi sứ giả nhà Hồ đến Kim Lăng chúc mừng năm mới, vua Minh đã bố trí để Trần Thiêm Bình, Bùi Bá Kỳ đối chất với sứ đoàn. Theo Minh Thực Lục, cuộc gặp gỡ đầy kịch tính khiến Chu Đệ quyết định chinh thảo An Nam:

Ngày 25 tháng 12 năm Vĩnh Lạc II (25/1/1405): Sứ giả An Nam đến mừng Nguyên Đán. Thiên tử ra lệnh bộ Lễ đưa Trần Thiên Bình ra cho gặp. Sứ giả nhận ra cháu Vương cũ, nên kinh ngạc sụp xuống vái và khóc. Bùi Bá Kỳ lên tiếng trách vì đại nghĩa, sứ giả kinh hoảng không đáp được. Thiên tử nghe tin bèn bảo các quan hầu cận rằng:

“Hồ Đê nước An Nam trước kia tấu rằng họ Trần đã tuyệt tự, y là cháu ngoại quyền quản lý việc nước, xin được phong Vương. Trẫm vốn nghi, nên cho người hỏi Bồi thần và kỳ lão đều bảo rằng đúng như vậy. Trẫm nghĩ rằng họ Trần trước kia làm rể mà được nước, nay Đê là cháu ngoại kế nghiệp cũng hợp lý, bèn xuống chiếu phong chức. Ai ngờ chính y giết chúa soán ngôi, tiếm xưng danh hiệu, thay đổi triều đại, bạo ngược với người trong nước, đánh chiếm đất đai lân quốc, việc làm quỉ thần cũng không dung, thần dân đều bị lừa phỉnh. Đây là tội nhân của một nước, làm sao mà dung thứ được !” (Minh Thực Lục I, 210)[2]

Thiêm Bình cho rằng chỉ 5.000 quân Minh hộ tống là đủ để họ Hồ qui phục vì dân chúng sẽ tự động nổi lên. Khi vua Minh hỏi, Bá Kỳ trả lời không biết Thiêm Bình là ai và không cho rằng lời đó là phải. Vua Minh bỏ rơi Bá Kỳ. Dĩ nhiên, vị hoàng đế nào cũng thích dùng người hoàng tộc, dù là giả, làm chiêu bài, như vậy có lợi hơn.

Khi đội quân áp tải Thiêm Bình về làm vua Giao Chỉ bị thất bại (năm 1406), hoàng đế Minh mới dùng lại Bá Kỳ, cho theo quân đội viễn chinh về Nam, ban cấp đai mão.

Ngày 18 tháng 5 năm Vĩnh Lạc IV (4/6/1406) : Ban mũ và dây đai cho người An Nam đã quy phụ là Bùi Bá Kỳ. Mệnh theo đại quân Nam chinh (Minh Thực Lục I, 222).[3]

Qua thơ văn còn giữ được, ta thấy Bá Kỳ thành tâm trong việc mà ông nghĩ là vì đại nghĩa này.

上明帝詩

其一

孤臣忠孝效胥為,
跋涉山川上帝畿。
碎首王墀滂血淚,
仰祈聖主向無疵。

Thướng Minh đế thi (1)

Kỳ 1

Cô thần trung hiếu hiệu Tư vi,
Bạt thiệp sơn xuyên thượng đế kỳ.
Toái thủ vương trì bàng huyết lệ,
Ngưỡng kỳ thánh chúa hướng vô tỳ.

Thơ dâng Hoàng đế nhà Minh

Kỳ 1

Cô thần bắt chước lòng trung hiếu của Thân Bao Tư,

Trèo non lội suối đến chốn kinh đô nhà vua.

Dập nát đầu trước thềm, đầm đìa máu và nước mắt,

Ngước trông thánh chúa không bắt lỗi lầm.

(Bản dịch của Thơ văn Lý Trần tập III)

上明帝詩

其二

陳事陵夷未可期,
含冤抱恨有天知。
南方臣子懷忠義,
誓國捐驅伐季犛。

Thướng Minh đế thi

Kỳ 2

Trần sự lăng di vị khả kỳ,
Hàm oan bão hận hữu thiên tri.
Nam phương thần tử hoài trung nghĩa,
Thệ quốc quyên khu phạt Quý Ly.

Thơ dâng Hoàng đế nhà Minh

Kỳ 2

Việc nhà Trần suy sụp biết ngày nào mới khôi phục được,

Ngậm oan ôm hận chỉ có trời biết.

Phận tôi con nước Nam mang lòng trung nghĩa,

Thề vì nước bỏ mình để đánh Quý Ly.

(Bản dịch của Thơ văn Lý Trần tập III)

Theo Toàn Thư, sau khi bắt được cha con Hồ Quý Ly, người Minh ngờ Hữu Tham nghị Bùi Bá Kỳ có bụng khác nên đưa ông về Kim Lăng quản thúc.

Hữu Tham nghị là chức vụ đứng hàng thứ 7 trong Bố Chính ty.

Thực chất, nhà Minh có kế hoạch tái lập quận huyện tại Giao Chỉ, con cờ Bá Kỳ đã đi hết nước.

2. Mạc Thúy (? – 1412 ?):

Về những người đầu hàng, tích cực nhất là nhóm họ Mạc, đứng đầu là Mạc Thúy người làng Long Động, châu Nam Sách, phủ Lạng Giang (nay thuộc xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương).

Lê Quý Đôn, có lẽ đã nghiên cứu gia phả Mạc tộc, ghi rõ trong Đại Việt Thông Sử vai vế cháu nội của Mạc Thúy đối với Mạc Đĩnh Chi. Lê tiên sinh cũng xác nhận Mạc Thúy là cao tổ của Mạc Đăng Dung, người sáng lập triều Mạc năm 1527. (2)

Mạc Thúy là người An Nam khiến Minh Thực Lục tốn nhiều bút mực do có đóng góp quan trọng vào sự nghiệp chinh phục Giao Chỉ của thiên triều.

Trước tiên, hãy nhìn về Thúy từ phía Đại Ngu. Sau khi tường thuật việc quân Minh bày trận ở bờ bắc sông Cái (thượng nguồn sông Hồng), Toàn Thư ghi nhận sự kiện Mạc Thúy hàng Minh như sau:

Bọn Mạc Địch, Mạc Thúy, Mạc Viễn và Nguyễn Huân mạo nhận là họ Mạc đều là những kẻ bất đắc chí, đón hàng quân Minh, người Minh đều trao cho quan chức. Sau Thúy làm đến tham chính; Địch làm đến chỉ huy sứ; Viễn làm đến diêm vận sứ; Huân làm đến bố chính; (Thúy, Địch, Viễn là cháu Mạc Đĩnh Chi). (Toàn Thư II, 229).[4]

Minh thực lục trong mục ngày 24 tháng 11 năm 1406 ghi nhận việc Mạc Thúy đầu hàng và hành trạng tiếp theo chi tiết hơn nhiều:

…các ngụy quan như Thiêm phán Đặng Nguyên ; người châu Nam Sách, phủ Lạng Giang là Mạc Thúy, Mạc Viễn đến yết kiến. Bọn họ nói rằng:

“Giặc dựa vào Đông Đô, Tây Đô; cùng sự hiểm trở của các sông Tuyên, sông Thao, sông Đà, sông Phú lương. Đường huyết mạch từ phủ Tam Giang, qua bờ phía nam sông Đà, núi Tản Viên, đến phía nam sông Phú Lương, qua sông Ninh đi sang phía đông. Lại từ bờ bắc sông Phú Lương theo sông Hải Triều [sông Luộc], sông Hy, sông Ma Lao đến Bàn Than, núi Khốn Mai, dọc sông xây đồn. Ải Đa Bang cho xây thêm thành đất, đồn trại nối tiếp liên hoàn dài hơn 900 dặm; bắt hết dân các châu tại Giang Bắc trên 200 vạn, gồm nam phụ lão ấu vào, để trợ thanh thế. Phía nam sông Phú Lương đều đóng cọc gỗ; tập trung các thuyền bè trong vũng nước đằng sau cọc, các cửa sông cũng đóng cọc gỗ để đề phòng công kích. Giặc phòng bị nghiêm nhặt tại Đông Đô, thường bày voi trận, lính tráng dọc thành; rêu rao đông đến 700 vạn.” (Minh Thực Lục I, 241)[5]

Như vậy, Đặng Nguyên Nguyên và Mạc Thúy đã báo cáo cho người Minh kế hoạch phòng thủ của quân Hồ.[6] Riêng số lượng nhân lực phía Đại Ngu rõ ràng bị thổi phồng quá đáng.

Theo Minh Thực Lục, Quân Minh từ huyện Tân Phúc di chuyển đến bến sông thị trấn Cá Thiều (chợ Kẻ Chiêu), châu Tam Đái để đóng thuyền chuẩn bị cho chiến dịch công kích. Tướng Hồ Trần Đĩnh đánh quấy rối thu vài thắng lợi nhỏ khiến quân Minh phải ngừng lại để củng cố. Sau đó, cuộc tổng tấn công khai màn; giặc đánh thủng phòng tuyến quân Hồ nơi chỉ huy quân Tả Thần Dực Nguyễn Công Khôi trấn giữ, tạo điều kiện làm cầu phao vượt sông Cái. Kỳ lạ là quân Minh mới đến còn dò dẫm địa hình lại thực hiện được trận đánh hiệu quả vào vị trí quân Tả Thần Dực. Người Minh tiêu diệt toán quân này triệt để và chóng vánh đến mức các đạo quân Hồ bên trên và phía dưới dòng sông đều không nghe thấy tiếng động của chiến trận. Hẳn bàn tay Mạc Thúy có nhúng vào sự việc vì nếu không có thông tin trinh sát đầy đủ, chiến công như thế thật bất khả thi.

Giữa tháng 1 năm 1407, Trương Phụ và Mộc Thạnh tấn công thành Đa Bang. Có lẽ nhờ vào thông tin của Mạc Thúy mà kỵ binh Minh dưới quyền Du kích Tướng quân Chu Quảng đã có những tấm vải vẽ hình cọp để dọa voi Đại Ngu. Hỏa tiễn của Thần cơ Tướng quân La Văn cũng sẵn sàng với số lượng lớn. Quân kỵ, súng thần cơ và tên lửa khiến tượng binh Hồ dưới quyền tướng quân đạo Thiên Trường Nguyễn Tông Đỗ rối loạn tháo lùi. Quân Minh tràn vào Đa Bang, trấn thủ Lương Dân Hiến và Thái Bá Nhạc tử trận.

Người Minh tiến chiếm Đông đô.

Hạ tuần tháng 1 năm 1407, Hồ Nguyên Trừng phản công trên sông Lỗ nhưng không thành công phải lui về giữ cửa Muộn. Người các châu thuộc lộ Tam Giang như Tuyên Giang, Thao Giang cùng nhiều phủ huyện quanh đó đến gặp tướng Minh để xin hàng.

Nói về trận phản công này, ghi chép ngày 26 tháng 1 năm 1407 của Minh Thực Lục như sau: Tả Tham chính Chinh thảo An Nam Phong Thành hầu Lý Bân, Hữu Tham tướng Vân Dương bá Trần Húc mang quân đánh giặc họ Lê tại Tây Đô.

Giặc nghe tin thành Đa Bang bị chiếm, bèn đốt phá cung thất kho tàng tại đây, rồi chạy ra biển. Bọn giặc dựa vào vùng đất tại núi Thiên Kiện, đưa quân từ sông Sinh Quyết, Đàm Xá đánh vào quân ta. Quan Tổng binh Tân Thành hầu Trương Phụ sai Đô đốc Hoàng Trung mấy lần đánh bại giặc. Do vậy các huyện của hai châu Tuyên Giang, Thao Giang thuộc lộ Tam Giang lần lượt đến cửa quân xin hàng. (Minh Thực Lục I, 247)[7]

Toàn Thư ghi nhận giờ phút đen tối nhất của nhà Hồ vào tháng 2 năm Hưng Khánh I (1407): “Kinh lộ phần nhiều theo giặc làm phản.”[8]

Phối hợp với chính sách tái lập nhà Trần của vua Minh, chính Mạc Thúy đã kích động phong trào quay lưng lại với họ Hồ tại trung châu. Khi đồng bằng sông Hồng trù phú, giàu nhân lực ngảnh mặt, thậm chí chống lại, vận mệnh triều Hồ xem như đã được định đoạt.

Riêng cánh quân phía đông bắc của Hồ Đỗ, Hồ Xạ cũng phải rút lui sau trận quyết chiến với Vương Hữu và Liễu Tông. Toàn Thư chỉ ghi việc Đỗ, Xạ rút bỏ Bình Than về hợp binh với Trừng ở cửa Muộn. Thực Lục lại miêu tả trận đánh tại vùng này như trận chiến có thành quả lớn nhất chiến dịch chinh Nam.

Ghi chép ngày 8 tháng 2 năm 1407: Ngày hôm nay, quan Tổng binh Chinh thảo An Nam Chinh Di Tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ điều động Thanh Viễn bá Vương Hữu, Tả Phó Tướng quân Tây Bình hầu Mộc Thạnh điều bọn Đô Chỉ huy Liễu Tông hợp binh dẹp giặc. Quan quân vượt sông Chú Giang tập kích quân giặc tại sách Trù Giang, lại làm khốn giặc tại Mai Sơn, sông Vạn Kiếp và núi Phả Lại; chém 37.390 thủ cấp, bắt Đoàn phó là Đinh Bộ Khúc giết đi, dư đảng giặc tan rã. Lúc này tướng giặc Hồ Đỗ tụ thuyền tại sông Bàn [Bình] Than; Trương Phụ nhân dịp người bản xứ châu Nam Sách là Đội chính Trần Phong đến xin hàng, bèn sai đi đánh Hồ Đỗ. Đỗ thua chạy đến sông cửa Muộn, tịch thu hết thuyền bè. Lại sai Trần Phong chiêu dụ dân chúng các xứ Lạng Giang và Đông Triều, nhân dân được yên nghiệp, do đó quận ấp châu Phong tiếp tục đầu hàng, sĩ phu dâng thư kết tội giặc họ Lê độc ác trăm cách. (Minh Thực Lục I, 247-248)[9]

Cánh quân được chỉ huy bởi hai phó tướng, tức không phải mũi nhọn chính nhưng hiệu quả giết chóc rất lớn. Thực Lục cho thấy quân Hồ phòng ngự chông chênh ở vùng đông bắc, đội lính địa phương dưới quyền Trần Phong ngả về người Minh khiến quân chính quy nhà Hồ bị bật gốc kéo theo sự sụp đổ của hệ thống cai trị.

Tuy vậy, quân Hồ vẫn còn sinh khí. Hạ tuần tháng 2 năm 1407, tướng chỉ huy quân Thần Đinh là Ngô Thành nương thủy triều đột kích đến Giao Thủy. Phụ, Thạnh chặn đánh từ hai bờ sông. Thành tử trận, được truy phong Kiêu vệ tướng quân.

Minh Thực Lục miêu tả trận này khá quyết liệt, cũng cho biết chiến công của người Minh có sự cộng tác đắc lực của Mạc Thúy. Đặc biệt tin tình báo về hoạt động quân Hồ nhiều khả năng do họ Mạc cung cấp. Người Minh ghi lại tên các tướng Hồ hi sinh mà sử Việt bỏ qua.

Ghi chép ngày 21 tháng 2 năm 1407: Ngày hôm nay, quan Tổng binh Chinh thảo An Nam Tân Thành hầu Trương Phụ, Tả Phó tướng Tây Bình hầu Mộc Thạnh đánh bại giặc họ Lê tại sông Mộc Hoàn.

Khởi đầu Phụ nhận được tin điệp báo cho biết thuyền giặc qua lại tại vùng sông Phú Lương, hạ lưu đất Giao Châu khoảng 20 dặm. Lại có tin Quí Ly và con là Trừng tụ tập thuyền bè tại sông Hoàng Giang, rồi đem quân đóng tại sông Mộc Hoàn. Thạnh cùng Tham tướng Phong Thành hầu Lý Bân suất quân bộ, kỵ, chiến thuyền từ sông Phú Lương đến đóng tại sông Lỗ. Giặc họ Lê dùng khoảng hơn 500 chiến thuyền đánh vào quân ta. Quân của Phụ thủy lục cùng tiến; bọn Đô đốc Liễu Thăng hăng hái đánh thuyền giặc tại Giao Thiển, khiến giặc đại bại. Tịch thu hơn 10 thuyền giặc, giết tướng giặc là Nguyễn Nhân Tử, Nguyễn Lỗi, Nguyễn Liệt, chém hơn một vạn đầu, bắt sống tướng giặc Hoàng Thế Cương, Đồng Văn Kiệt, Phùng Tông Thực, Mạc Thiết, Phạm Hài, Nguyễn Lợi hơn trăm tên, tất cả đều bị chém; riêng bọn giặc chết trôi không kể xiết. Lúc này người châu Nam Sách tên là Mạc Thúy, vốn giận giặc họ Lê, bèn mang lính địa phương vạn người đến theo, nhiều lần gắng sức lập công. (Minh Thực Lục I, 248-249)[10]

Ngày 10 tháng 3 năm 1407, Trương Phụ thông qua Mạc Thúy và bộ thuộc để công bố đức chính Thiên tử nhà Minh đến quan lại, binh lính, dân chúng Đại Ngu ở khắp các quận huyện. Người Minh yêu cầu quan lại trở về nhiệm sở, binh lính quay lại doanh trại và dân chúng ở yên với chức nghiệp của mình. Mạc Thúy còn có nhiệm vụ tìm kiếm người đức hạnh thuộc dòng dõi họ Trần để gửi về Kim Lăng nhận phong vương.

Ngày 17 tháng 4 năm 1407, Mạc Thúy, Doãn Bái và nhóm bô lão 1.120 người từ Bắc Giang và các phủ khác, từ An Việt và các huyện khác đến gặp chỉ huy quân Minh. Nguyên văn phát biểu của Mạc Thúy ghi nhận bởi Minh Thực Lục như sau:

“Được ơn cấp bảng dụ khắp trong nước, tuyên bố đức ý của thánh Thiên tử cho quan trở lại nguyên chức, lính trở lại nguyên đơn vị, dân trở về nghiệp cũ; hỏi tìm con cháu nhà Trần chọn một người hiền, tấu xin tước vương để làm chủ nước; lại chia người đi các nơi phủ dụ quan lại quân dân yên nghiệp như cũ. Duy con cháu nhà Trần trước đây bị giặc họ Lê tru diệt hết, không còn sót ai, không thể kế thừa. An Nam vốn là đất cũ của Trung Quốc, sau đó bị chôn vùi vào tục Man Di, không được nghe dạy dỗ lễ nghĩa. Nay may mắn được Thánh triều tảo trừ hung nghiệt, quân dân già trẻ được chiêm ngưỡng áo khăn thịnh trị, hân hạnh không kể xiết; xin được duy trì trở lại quận huyện cũ, ngõ hầu sửa đổi tục man di, vĩnh viễn thấm nhuần thánh hóa.”

Thúy kính cẩn cùng các bậc kỳ lão soạn sẵn biểu văn, xin dâng lên triều đình để lòng kẻ dưới được đề đạt. Quan Tổng binh Tân Thành hầu Trương Phụ cho rằng cha con giặc họ Lê chỉ trong sớm tối bị tiêu diệt, các phủ huyện đều được bình định, cần có sự thống trị để phủ ngự dân này, nên ngay ngày hôm nay cho người ruổi về kinh đô tâu trình. (Minh Thực Lục I, 250-251)[11]

Minh Thực Lục chép về trận Hàm Tử ngày 4 tháng 5 năm 1407 chỉ đề cập đến đạo chủ lực cuối cùng của nhà Hồ bị tiêu diệt, không nhắc đến Mạc Thúy. Sau trận này, quân Hồ không còn khả năng tác chiến, họ bỏ chạy ngay khi người Minh xuất hiện truy đuổi hoàng tộc Hồ và nhóm quan tướng cao cấp.

Cuộc truy bức của quân Minh kết thúc vào giữa tháng 6 năm 1407. Minh Thực Lục ghi lại giây phút cuối cùng của triều đại Hồ như sau:

Ngày 12 tháng 5 năm Vĩnh Lạc V (17/6/1407): Ngày Ất Sửu, dân bản xứ An Nam là bọn Vũ Như Khanh bắt được ngụy Quốc vương nước Đại Ngu Lê Thương, ngụy Thái tử Lê Nhuế, con cháu giặc họ Lê, ngụy Lương Quốc vương Lê Kích, cùng tướng ngụy Trụ quốc Đông Sơn Hương hầu Hồ Đỗ tại núi Vọng Cao, cửa biển Vĩnh Áng.

An Nam được bình định. (Minh Thực Lục I, 254)[12]

Vũ Như Khanh (Toàn Thư gọi là Nguyễn Như Khanh) là bộ hạ của Mạc Thúy.

Theo Toàn Thư, tướng quốc Lê Quý Tì và con tên Nguyễn Cữu bị bắt ngay ngày quân Minh đến cửa biển Kỳ La (ngày 5 tháng 5 Vĩnh Lạc V tức 10/7/1407) bởi một cựu quan nhà Hồ đầu hàng giặc Minh là Nguyễn Đại.

Quý Ly và Trừng bị bắt vào 16 tháng 6 năm 1407 (ngày 11 tháng 5 năm Vĩnh Lạc V), trước Thương một ngày.

Đến tháng 1 năm Hưng Khánh II (1408), Mạc Thúy theo Trương Phụ đánh Diễn Châu (bắc Nghệ An). Vua Hậu Trần Giản Định và tướng Đặng Tất phải chạy vào Hóa châu.

Họ Mạc rất tích cực phục vụ Minh triều. Chúng ta thấy ông xuất hiện ở Kim Lăng khá sớm.

Ngày 17 tháng 5 năm Vĩnh Lạc VI (11/6/1408) : Bọn Thổ quan Tri phủ Lạng Giang đất Giao Chỉ tên là Mạc Thúy đến triều cống sản vật địa phương. Ban thưởng có sai biệt. (Minh Thực Lục I, 295)[13]

Trong lúc chờ đợi ân sủng của vua Minh, họ Mạc được quan tâm chu đáo.

Ngày 28 tháng 8 năm Vĩnh Lạc VI (17/9/1408) : Ngày Quý Mão, ban yến cho quốc vương Bột Nê (Brunei) Ma Na Nhược Gia Na và cùng với bọn sứ thần các xứ Vu Điền, Đông Dương, bọn Mạc Thúy tri phủ Lạng Giang, Giao Chỉ. (Minh Thực Lục I, 310)[14]

Thành Tổ Chu Đệ đáp lại rất ân cần. Ngoài quà thưởng bằng bạc, tiền giấy và lụa, Minh đế còn đặc biệt tặng nhóm bầy tôi mới một bài thơ do vua sáng tác. Vinh dự cho họ Mạc như thế là tột đỉnh theo quan niệm Trung Hoa.

Ngày 8 tháng 9 năm Vĩnh Lạc VI (27/9/1408): Ngày Quý Sửu, thăng Tri phủ Lạng Giang Mạc Thúy chức Hữu Tham chính ty Bố Chính Giao Chỉ, thưởng 50 lạng bạc, 500 quan tiền, lụa nõn các loại 5 tấm. Thăng Phó Thiên hộ vệ Trung Giao Châu Nguyễn Như Ngẫu chức Chỉ huy Thiêm sự, thưởng giống như Thúy. Thăng Tri châu phủ Lạng Giang Mạc Huân chức Hữu Tham nghị ty Bố chính; thăng Chỉ huy Thiêm sự vệ Tả Giao Châu Trần Nhữ Thạch chức Chỉ huy Đồng tri; cùng Tri phủ Tân An Mạc Viễn được thưởng so với Thúy giảm một phần năm.

Bọn Thúy đều là người Giao Chỉ, khi đại quân vào nước họ là người đầu tiên qui thuận, giúp dẹp giặc chiêu dụ dân chúng có thành tích. Tân Thành hầu Trương Phụ do tiện nghi trao chức, đến nay vào triều, luận công lao theo thứ tự mà thăng thưởng. Còn lại bọn Bùi Như Long gồm 24 người đều được phong chức Thiên hộ, Bách hộ, cùng ban sắc tưởng thưởng.

Thiên tử đích thân làm thơ tặng bọn Thúy. (Minh Thực Lục I, 310-311)[15]

Hữu Tham chính là chức vụ hàng thứ 5 thuộc ty Bố Chính. Ông tham dự tiệc tùng nhiều lần cùng với sứ thần các nước.

Ngày 10 tháng 10 năm Vĩnh Lạc VI (28/10/1408) : Ngày Giáp Thân, ban yến cho Hữu Tham chính Giao Chỉ Mạc Thúy, Tham nghị Mạc Huân; sứ thần các nước Chiêm Thành, Bảng Cát quốc, Lạt Cáp, Hỏa Châu; các nơi ở Vân Nam như Xa Lý, Lão Qua, cùng các xứ như Ngõa Lạt. (Minh Thực Lục I, 313-314)[16]

Ba năm sau, vua Minh sai sứ sang Giao Chỉ gia ân thêm cho các bầy tôi Giao Chỉ có thành tích đặc biệt.

Ngày 24 tháng 3 năm Vĩnh Lạc IX (16/4/1411): Hoàng thượng cho rằng bọn Thổ quan Giao Chỉ như Hữu Tham chính Mạc Thúy đều hết sức lập công, tiễu trừ bọn phản tặc, giữ vững lãnh thổ; nên sai người mang sắc đến ủy lạo, ban cho vải vóc và tiền.

Ban cho Mạc Thúy lụa nõn các loại sáu tấm, Hữu Tham nghị Mạc Huân lụa nõn các loại năm tấm, Tri phủ Tam Giang Đỗ Duy Trung, Tri phủ Giao Châu Đỗ Hy Vọng, Tri phủ Trấn Man Nguyễn Hy Cấp, Tri phủ Tân An Mạc Viễn, Tri phủ Thanh Hóa Lương Nhữ Hốt, Thổ quan Chỉ huy Trần Phong, Trần Nhữ Thạch, Đinh Trạch, Vũ Chính lụa nõn các loại bốn tấm. Đồng tri phủ Tuyên Hóa Lương Sĩ Vĩnh, Đồng tri phủ Thái Nguyên Ma Bá Hổ, Dương Cự Lãm lụa nõn các loại ba tấm. Mỗi người được ban thêm một bộ y phục kim ỷ, 1.000 quan bạc giấy. (Minh Thực Lục I, 346)[17]

Nhưng sự nghiệp phục vụ Đại Minh của Mạc Thúy không kéo dài được lâu. Theo Toàn Thư, ông mất trong cuộc hành quân đánh dẹp Nông Văn Lịch, thủ lĩnh nhóm người nói tiếng Thái ở Lạng Sơn, cộng đồng sắc tộc vốn có quan hệ thân hữu từ trước với vua Trần tại Thăng Long.

Ghi chép của Toàn Thư vào cuối năm Trùng Quang IV (1412) : Nông văn Lịch ở Lạng Sơn tụ tập quân lính chiếm giữ đất ấy, chẹn lấp đường đi lại của người Minh, giết bắt vô số. Tham chính Mạc Thúy từng đem quân tiến sâu vào đất ấy, bị trúng tên thuốc độc mà chết. (Toàn Thư II, 248)[18]

Như vậy, Mạc Thúy tử trận khoảng cuối năm 1411 hoặc đầu năm 1412.

Với hỗ trợ của quân Minh, Mạc Thúy trở nên kiêu hãnh và chủ quan. Vị thủ lĩnh miền duyên hải đủ khả năng giúp người Minh dành chiến thắng chớp nhoáng trên sông hay ven biển nhưng không có khả năng đó nơi địa bàn núi rừng. Minh Thực Lục có một dòng nhắc đến cái chết của Mạc Thúy nhân việc Mạc Tung thế tập chức Hữu Tham chính của cha.

Ngày 1 tháng 8 năm Vĩnh Lạc XVI (31/8/1418) : Ngày Mậu Dần, mệnh con trai của Mạc Thúy là Tung tập ấm chức của cha; được ăn lộc nhưng không phải đảm trách công việc. Lúc này Thúy đánh giặc chết trận, nên ban ơn cho con. (Minh Thực Lục II, 56)[19]

Mạc Thúy đã nỗ lực hết sức, kể cả hi sinh mạng sống, để đi hết con đường đã chọn. Đền đáp của người Minh cũng thật vẹn tròn.

Họ Mạc là cự tộc vùng Nam Sách. Khi Mông Cổ nam xâm, hương (?) Bàng Hà thuộc vùng này hàng giặc khiến sau chiến tranh (năm 1289) vua Trần phải xử tội đồ toàn bộ quân dân sở tại. Trai tráng Bàng Hà chỉ được làm lính phục vụ trong trang trại các vương hầu hoặc làm nô tỳ. Tuy vậy, năm 1304 vẫn thấy Mạc Đĩnh Chi quê Bàng Hà đi thi Thái Học sinh, đậu Trạng nguyên và giữ nhiều chức vụ quan trọng dưới đời Trần. Như thế, mệnh vua chỉ nghiêm khắc với thứ dân; với thế gia địa phương, triều đình tránh làm mất lòng họ. Khi người Minh sang, cháu nội Đĩnh Chi là Mạc Thúy dễ dàng huy động hàng vạn quân hỗ trợ Trương Phụ đánh phá nhà Hồ. Chính người của Mạc Thúy bắt sống vua Đại Ngu Hồ Hán Thương. Điều đó cho thấy thế lực họ Mạc, với xu hướng bất tuân chính quyền Tây Đô, không thể xem thường. Nguồn lực ven biển không chỉ phát sinh từ đồng bằng trù mật hay cá muối dồi dào, các luồng di dân Trung Hoa chắc chắn cũng tạo nên nền thương mại phồn thịnh. Hải Dương thời Trần là nguồn cung cấp danh sĩ do là nơi địa đầu tiếp thu văn hóa Tống, cũng là nơi dễ nổi loạn vì tiềm lực kinh tế phong phú của nó. Mạc Thúy dẫn quân truy sát tới cùng dòng tộc Hồ ông không ưa thích, ngang nhiên tuyên bố họ Trần bị tuyệt diệt để người Minh sáp nhập An Nam. Thái độ tự tin cho thấy Mạc Thúy có tài lực và hậu thuẫn, ông hiểu rõ rằng chính người Minh mới là địa chỉ ký thác tài sản tư nhân an toàn nhất. Ông đã chọn phương án tối ưu.

Ngoài bất mãn có thể có vì chính sách hạn điền hạn nô tiến hành bởi nhà Hồ, ở góc cạnh khác, dường như hành động này là phản ứng đề kháng cung cách cai trị mang chất “trại” của họ Hồ để ngả sang văn hóa Hán. Đương thời, văn hóa Minh hẳn khá gần gũi với văn hóa miền biển bắc bộ và bắc trung bộ, là những địa phương Hoa hóa sâu sau khi tiếp nhận các đợt di dân chạy trốn nhà Nguyên, đặc biệt là các di dân nho sĩ người Mân.

Hơn thế kỷ sau, hậu duệ Mạc Đăng Dung lại khuynh đảo một triều đại xuất thân từ Thanh Hóa. Lần này, họ Mạc không phục vụ ai mà tự lập làm hoàng đế. Tính chất “bắc hướng” của tộc Mạc thể hiện rõ ràng khi Đăng Dung trói mình quỳ lạy tướng Minh ở cửa ải đồng thời xác nhận chủ quyền Trung Hoa trên dải đất phên dậu, hành động tủi hổ chưa vị vua phương Nam nào đủ can đảm thực hiện.

Cuối thời Mạc, lúc thất thế trước quân đội Lê Trung Hưng, một lần nữa hoàng gia Mạc lại dựa vào phương Bắc từ đất Cao Bằng.

Chúng ta cần ghi nhận thái độ Toàn Thư thể hiện qua phản ánh hoạt động của Mạc Thúy. Các tác giả Toàn Thư cho rằng nhóm họ Mạc là những người bất đắc chí, tức bất mãn họ Hồ, nên đón hàng quân Minh. Sau đó sách ghi chép hoạt động hỗ trợ quân Minh của Thúy tại vùng Nhật Nam và Diễn Châu. Có vẻ Thúy làm hướng đạo cho người Minh truy đuổi tàn quân Hồ suốt bờ biển Hải Tây. Chính bộ hạ của ông bắt được Hồ Hán Thương và Thái tử Nhuế.

Lê Quý Đôn ghi chi tiết hoạt động hỗ trợ quân Minh rất đắc lực của Mạc Thúy qua Đại Việt thông sử, nhưng cũng cho là họ Mạc bất mãn nhà Hồ.

Hai tác phẩm quan trọng này đều không đề cập sự việc ầm ĩ là Thúy đã huy động hàng nghìn bô lão để xác nhận họ Trần tuyệt tự và yêu cầu nhà Minh lập lại quận huyện như xưa.

Thông tin từ Toàn Thư, Đại Việt thông sử không đủ để đánh giá đúng hành động của quan Tham chính họ Mạc.

3. Lương Nhữ Hốt :

Người Trạo Vịnh, Hoằng Hóa (Cổ Đằng), Thanh Hóa.

Vào năm 1411, sứ giả Minh đế đến Giao Chỉ ban thưởng Nhữ Hốt cùng nhiều quan viên khác. Đợt khen thưởng này, Nhữ Hốt được bốn tấm lụa hoa hai mặt, một bộ triều phục kim tuyến và 1.000 quan tiền giấy.

Ngày 29 tháng 9 năm Vĩnh Lạc XV (7/11/1417) : Tại Giao Chỉ, thăng Tri phủ Thanh Hóa Lương Nhữ Hốt chức Tả Tham chính ty Bố chính Giao Chỉ, vẫn tiếp tục trông coi phủ tại Thanh Hóa. Nhữ Hốt người đất Giao Chỉ, được biểu dương vì có công trong việc chiêu phủ tại Giao Chỉ. (Minh Thực Lục II, 46-47)[1]

Lương Nhữ Hốt là hàng thần mau mắn, chính ông tố cáo Lê Lợi có ý định nổi dậy với người Minh khiến vị thủ lĩnh kháng chiến phải gấp rút dựng cờ khởi nghĩa vào năm Vĩnh Lạc XVI (1418).

Ngày 3 tháng 5 năm Vĩnh Lạc XVII (27/5/1419) : Ngày Đinh Mùi, Thổ quan ty Bố Chính Giao Chỉ, bọn Tả Tham chính Lương Nhữ Hốt đốc suất các Thổ quan quận, huyện dưới quyền, cống đồ dùng vàng, bạc cùng sản vật địa phương. Ban cho tiền giấy cùng y phục lụa sa dệt kim có sai biệt. (Minh Thực Lục II, 65)[2]

Khoảng tháng 9 năm 1424, nghĩa quân Lê Lợi đánh đồn Đa Căng, Lương Nhữ Hốt giữ đồn không nổi phải bỏ chạy về Tây Đô.

Ngày 17 tháng 12 năm Hồng Hy I (25/1/1426): Thổ quan Tả Tham chính Ty Bố chính Giao Chỉ Lương Nhữ Hốt đến triều đình tiến cống đồ dùng vàng bạc, cùng sản phẩm địa phương. Thiên tử bảo Thượng thư Lữ Chấn rằng:

“Nhữ Hốt tuy là Thổ quan nhưng rất trung thành, lo chiêu dụ dân, ra sức đánh giặc; đã lập được nhiều công. Nay đến triều đình, đáng ban thưởng để tưởng lệ, phàm đồ tiến cống thì theo giá trị mà cho lại”. Vì thế ban cho Nhữ Hốt 200 đĩnh tiền giấy, bốn tấm gấm vóc, đám tùy tùng ban cho tiền giấy có sai biệt. Số đồ tiến cống được đổi trả 7.480 đĩnh bạc. (Minh Thực Lục II, 130)[3]

Vua Minh đặc biệt ân cần có lẽ vì tình hình Giao Chỉ chuyển biến xấu. Với hành động tôn vinh hết mức dưới đây, Thành tổ đã mua đứt lòng trung thành của họ Lương.

Ngày 26 tháng 1 năm Tuyên Đức I (5/3/1426) : Ban sắc mệnh cho viên Thổ quan Tham chính Lương Nhữ Hốt thuộc ty Bố chính Giao Chỉ, phong tặng ông bà, cùng cha mẹ vợ. Nhữ Hốt người đất Thanh Hóa, kính cẩn phụng sự triều đình, có công giết giặc, chiêu phủ; mấy lần được thăng đến chức Tham chính; nay đến triều đình, đặc cách ban cho để khen thưởng. (Minh Thực Lục II, 131)[4]

Năm 1427, sau khi thua trận Ninh Kiều – Tụy Động, Vương Thông muốn giải hòa để kéo quân về nước. Lương Nhữ Hốt đem chuyện tù binh Ô Mã Nhi chết đuối do bị quân Trần đục thuyền trên đường trao trả để thuyết phục Vương Thông tiếp tục chiến đấu. Hốt đã khiến binh đao kéo dài dù không thay đổi được hồi kết cục. Họ Lương chỉ xếp giáo qui hàng khi Vương Thông kéo quân về bắc. Ông bị Lê Lợi giết ngày 24 tháng 11 ta năm Thuận Thiên I (1428) cùng với Trần Phong và Trần An Vinh do vẫn ngấm ngầm giao thiệp với người Minh để khởi loạn.

2. Trần Phong (? – 1428):

Theo Minh Thực Lục, Trần Phong người châu Nam Sách (Hải Dương nay); theo Đại Việt Thông Sử, ông người xã Ma Lộng, huyện Chí Linh (Hải Dương nay). Như vậy, châu Nam Sách xưa bao gồm cả Ma Lộng.

Trần Phong đầu hàng quân Minh ngay từ đầu cuộc chiến. Tới tháng 2 năm 1407 đã thấy ông dẫn quân bản bộ phối hợp với Vương Hữu và Liễu Tông đánh phá đạo quân vùng Đông Bắc dưới quyền Hồ Đỗ. Sau khi đối đầu quân Minh thất lợi, bị thiệt hại nặng, Hồ Đỗ gom góp tàn quân trụ lại tại Bình Than. Trương Phụ ra lệnh Phong tấn công khiến Đỗ phải bỏ chạy về cửa Muộn.

Ghi chép ngày 19 tháng 11, Vĩnh Lạc V (18/12/1407): Ngày Kỷ Tỵ, viên quan Chỉ huy Đồng tri Hữu Vệ Giao Châu người địa phương tên là Trần Phong, cùng bọn Thiên hộ Nguyễn Chính, Bách hộ Tống Như Lộ tất cả 20 người đến kinh sư cống phương vật. Bèn ban 80 đĩnh tiền giấy, một bộ tơ gai; cùng ban cho bọn tùy tòng tiền, có sai biệt. (Minh Thực Lục I, 289)[5]

Tháng 4 năm 1411, vua Minh đã cử sứ sang Giao Chỉ thưởng tiền, lụa và triều phục cho người có công, tên Trần Phong được liệt kê trong danh sách võ tướng.

Ngày 20 tháng 2 năm Vĩnh Lạc XIII (31/3/1415), Minh Thực lục ghi nhận việc ban thưởng của vua Minh cho những quan tướng có công trong việc trấn áp Trần Quý Khoáng. Trần Phong cũng có tên trong danh sách lĩnh thưởng với chức danh là Chỉ huy Đồng tri Giao châu Hữu vệ.

Ngày 27 tháng 11 năm Vĩnh Lạc XX (10/12/1422), Minh Thực lục ghi nhận việc Trần Phong, với chức vụ Đô Chỉ Huy, dẫn đầu một đoàn gồm tám mươi ba người đến kinh đô dâng cống đồ vàng bạc cùng nhiều thứ khác. Vua Minh ban tặng quần áo lụa thêu kim tuyến, lụa, gấm, tiền giấy.

Ngày 1 tháng 7 năm Tuyên Đức I (11/8/1426), Minh Thực lục ghi nhận thất bại của Phương Chính, Lý An cùng các thuộc tướng, trong đó có Trần Phong tại Giao Chỉ. Tất cả được tha tội nhưng bị chuyển làm quân tiên phong để lập công. Theo Đại Việt thông sử, đây là trận đánh do thủy quân từ Đông Quan đến giải vây thành Nghệ An xảy ra vào ngày 15 tháng 4 ta năm Hồng Hy thứ I (1425). Phía quân nổi dậy là tướng Lê Ninh, Lê Thiệt dưới trướng Bình Định vương Lê Lợi.

Khi bị vây trong thành Đông Quan, Trần Phong cùng Lương Nhữ Hốt đã tác động Vương Thông bãi bỏ giảng hòa lần đầu tiên với Lê Lợi khiến cuộc kháng chiến kéo dài thêm một năm. Khi viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh bị đánh bại, Vương Thông về nước, Phong mới chịu đầu hàng.

Trần Phong bị Lê Lợi giết ngày 24 tháng 11 ta năm Thuận Thiên I (1428), cùng với Lương Nhữ Hốt và Trần An Vinh do âm mưu thông đồng với người Minh để làm loạn. Tuy nhiên, gia đình và bộ thuộc của Phong được miễn xá.

3. Nguyễn Huân :

Người Biến Khả (Chí Linh, Hải Dương). Ông đầu hàng quân Minh cùng lúc với Mạc Thúy dưới danh nghĩa là người họ Mạc.

Trong ghi chép việc ban thưởng của vua Minh ngày 27/9/1408 tại Kim Lăng, Minh Thực lục thể hiện Nguyễn Huân họ Mạc, được thăng từ Tri châu Lạng Giang lên chức Hữu Tham nghị.

Trong ghi chép ngày 28/10/1408 nói về đại yến ban cho sứ đoàn các nước, Minh Thực lục ghi rõ chức vụ Mạc Huân là Hữu Tham nghị Ty Bố chính Giao Chỉ, tức dưới Mạc Thúy một cấp.

Tháng 4 năm 1411, vua Minh sai sứ sang Giao Chỉ thưởng tiền, lụa và triều phục cho người có công, trong đó Huân đứng hàng thứ hai, sau Mạc Thúy. Huân xả thân phục vụ nhà Minh không ngại thủ đoạn. Nguyễn Liễu, người Lý Nhân (nay thuộc Hà Nam), nổi dậy chống Minh ở Lục Na (nay thuộc Bắc Giang), Vũ Lễ (nay thuộc Lạng Sơn). Nguyễn Huân vờ kết thông gia rồi gài bẫy giết Liễu vào năm Trùng Quang IV (1412).

Năm 1416, Nguyễn Huân lại sang Kim Lăng triều yết. Minh Thực lục ghi nhận sự kiện nguyên văn như sau:

Ngày 10 tháng 6 năm Vĩnh Lạc XIV (4/7/1416): Ngày Canh Ngọ, Hữu Tham nghị Mạc Huân thuộc ty Bố chính Giao Chỉ đưa các thổ quan tại các phủ Tam Giang, Phụng Hóa gồm 139 người đến triều cống ngựa cùng đồ dùng vàng bạc.

Hoàng thượng khen Huân có lòng thành ra qui thuận trước tiên, rồi chịu gian lao tham gia tòng chinh; đặc cách ban yến ủy lạo, thăng Huân chức ty Bố chính sứ; thăng Thổ quan Tri phủ Đỗ Kế Trung chức Hữu Tham chính, lại ban cho tỷ thư để tỏ sự ân sủng khác thường. Các quan còn lại được thăng chức một cấp, ban cho tơ lụa, tiền có phân biệt. (Minh Thực Lục II, 33)[6]

Minh Thành Tổ xây dựng kinh đô Bắc Kinh. Huân tỏ lễ bầy tôi bằng cách gửi 500 người sang Trung Hoa để phụ giúp. Vua Minh ban thưởng rồi cho về, không nhận người. Minh Thực Lục ghi lại như sau:

Ngày 13 tháng 7 năm Vĩnh Lạc XVI (14/8/1418): Ngày Tân Dậu, Hữu Tham chính sứ Giao Chỉ Mạc Huân, cùng Tri phủ Giao Châu Đỗ Hy Vọng tâu rằng:

“Giao Chỉ ở nơi hoang tịch, nhiều năm ngưỡng mộ sự giáo hóa của thánh nhân; được Hoàng thượng đối xử cùng chung một lòng nhân, cho đặt lại quận, huyện, để được giống như đất nội thuộc; phàm kẻ có một chút hay, đều được thu dùng. Tấm lòng biết ơn muốn được báo đáp, canh cánh ngày đêm. Nay được tin xây dựng thành Bắc Kinh; con dân bốn biển đều đến giúp sức, nhưng tấm lòng của kẻ hèn khuyển mã này cũng muốn mà không đến được để báo đáp. Nay kính cẩn đưa người làm trong nhà là bọn Đỗ Phiêu 500 người, sai Huyện thừa Lê Hiến dẫn đến, nguyện đến kinh khuyết góp một chút công nhỏ.”

Thiên tử đọc tờ tâu, gọi bọn Hiến đến ủy lạo, và phán rằng :

“Bọn người từ xa đến đây lo việc, bày tỏ đầy đủ lòng thành, nhưng việc xây dựng đã hoàn tất, không muốn làm mệt nhọc các ngươi thêm nữa.”

Mỗi người được thưởng 20 đĩnh tiền giấy rồi cho về. (Minh Thực Lục II, 55-56)[7]

Năm 1426, khi sang nước mẹ sát hạch định kỳ, ta thấy Huân đã lấy lại họ Nguyễn.

Ngày 16 tháng 10 năm Tuyên Đức I (15/11/1426): “Ngày Bính Tý, bọn Hữu Tham chính ty Bố chính Giao Chỉ Nguyễn Huân, Đồng tri phủ Bắc Giang Nguyễn Khả Lộng, Đồng tri phủ Giao Châu Lê Nguyên Khởi đến kinh đô để khảo mãn cùng cống đồ dùng vàng, bạc, sản vật địa phương. (Minh Thực Lục II, 150-151)[8]

Ngày 21 tháng 10 năm Tuyên Đức I (20/11/1426): Thăng Hữu Bố chính sứ Giao Chỉ Nguyễn Huân làm Tả Bố chính sứ vì tại chức được chín năm và có công bắt giặc, cai trị dân chúng. (Minh Thực Lục II, 151)[9]

Với chức vụ này, Nguyễn Huân là thổ nhân đạt địa vị cao nhất trong hệ thống hành chính của nhà Minh tại Giao Chỉ.

Kèm theo chức vụ cao là quà tặng quý giá của thiên tử.

Ngày 23 tháng 10 năm Tuyên Đức I (22/11/1426): Ban cho bọn… Tả Bố chính sứ ty Bố chính Giao Chỉ Nguyễn Huân, Đồng tri phủ Bắc Giang Nguyễn Khả Lộng, Đồng tri phủ Giao Châu Lê Nguyên Khởi tiền giấy, gấm lụa hoa văn có phân biệt. (Minh Thực Lục II, 152)[10]

Hoàng đế Đại Minh ban ân sủng đặc biệt khi miễn nghĩa vụ sưu dịch cho toàn bộ gia tộc Nguyễn Huân.

Ngày 27 tháng 11 năm Tuyên Đức I (25/12/1426) : Thổ quan Giao Chỉ Tả Bố chính sứ Nguyễn Huân tâu rằng bọn người nhà là Phan Khuyển gồm 175 hộ thuộc phủ, châu, huyện tại Lạng Giang xin được miễn sưu dịch để lo phụng dưỡng.

Mệnh bộ Hộ gửi văn thư cho miễn. (Minh Thực Lục II, 153)[11]

Đó là phần dành cho người sống, Hoàng đế còn quan tâm đến cả tổ tiên và phu nhân của quan Tả Bố Chính sứ.

Ngày 1 tháng 12 năm Tuyên Đức I (29/12/1426) : Ban cho Tả Bố chính sứ Giao Chỉ Nguyễn Huân cáo mệnh cùng sắc phong cho ông bà nội, cha mẹ, cùng vợ; lại có sắc dụ Huân như sau:

“Trước kia Hoàng tổ Thái Tôn Văn Hoàng đế lên ngôi, nghĩ rằng đất Giao Chỉ bị giặc họ Lê [Hồ] gây họa, giết vua, bạo ngược với dân, bèn mang quân điếu phạt. Khi đến nơi, kẻ trí cúi mình theo sự giáo hóa, người ngu thì vẫn còn nghi ngờ hai lòng. Ngươi, Nguyễn Huân, một lòng ngay thực, suy lự thuần lương, đạt thời cơ biết đạo trời; lòng thành hăng hái qui hướng triều đình, dốc tâm cần lao đảm nhiệm chức vụ, vỗ về người thuận theo, diệt trừ kẻ nghịch, giúp ích rất nhiều, trải qua năm tháng tấm lòng trung không suy hao.

Hoàng tổ ta xét công lao của người, mấy lần thăng chức; Trẫm nối dõi cơ đồ lớn, chỉ mong kế tục được sự nghiệp. Nay ngươi đến triều đình để được xét thành tích, nghĩ đến công lao của ngươi, đặc biệt ban ân sủng đến đời ông cũng được vinh hiển. Phàm đạo quân thần cốt ở sự thủy chung; Trẫm thể lòng Hoàng tổ để đãi ngươi, Ngươi hãy lấy tấm lòng thờ Hoàng tổ để thờ Trẫm, cung kính mãi mãi không biến tiết, hưởng vinh suốt đời. Nay ban đặc dụ khen thưởng.

Khâm tai !” (Minh Thực Lục II, 154)[12]

Ân sủng khác thường cho thấy tình hình Giao Chỉ rất căng thẳng. Những người như Huân vô cùng cần thiết cho nhà Minh trong thời điểm quyết định.

Thời gian Huân sang chầu, Lê Lợi đã hoàn toàn phong tỏa các đường tiến quân từ Vân Nam và Lưỡng Quảng sang Giao Chỉ (khoảng tháng 7 năm 1426). Nguyễn Huân không còn cơ hội mang vinh dự vua ban về quê nhà.

Chiếu chỉ vua Tuyên Đức ban cho Hoàng Phúc và Nguyễn Huân dưới đây cho thấy Huân bị kẹt lại đất Trung Hoa, không vào An Nam được. Vua Minh ghép Huân vào đạo viện binh dưới quyền Liễu Thăng. Phúc và Huân còn có nhiệm vụ trông chừng An Viễn hầu, được quyền mật tấu trực tiếp về việc quân.

Ngày 26 tháng 10 năm Tuyên Đức II (14/11/1427): Ngày Canh Thìn, sắc cho Thượng thư bộ Công Hoàng Phúc, Bố chính sứ Giao Chỉ Nguyễn Huân rằng:

“Phúc, người là bề tôi thanh liêm, trung thành, chính trực, có lòng thương dân; Huân, trung kính thuần lương, kiên cường một tiết thờ vua, đều là bậc lão thành của tiền triều. Nay Giao Chỉ chưa yên, mang binh chinh tiễu, đặc mệnh hai ngươi tham tán Tổng binh quân cơ, đồng tâm hiệp lực vận trù quyết sách, hòa mục tướng soái, tưởng lệ quân sĩ, để việc bình định sớm thành, yên dân một phương. Việc đáng trần tấu, gửi mật thư cho ta. Hãy cố gắng đáp ứng sự ủy nhiệm.

Khâm thử !” (Minh Thực Lục II, 176)[13]

Toàn Thư có chép thổ quan Hữu Bố Chính sứ Nguyễn Đắc Huân theo đạo quân của Liễu Thăng đánh vào cửa Pha Lũy vào tháng 9 ta năm 1427 và sau đó tiến xuống Chi Lăng. Sau nhiều trận kịch chiến, đạo quân này bị Lê Lợi tiêu diệt hoàn toàn tại cánh đồng phía bắc thành Xương Giang. Hoàng Phúc bị bắt. Sau đó, không thấy tài liệu nào ghi lại hành trạng của Nguyễn Huân nữa.

Như vậy, vua Minh ban chiếu cho Hoàng Phúc và Nguyễn Huân sau khi đạo viện binh vượt qua biên giới.

4. Nguyễn Đại :

Toàn Thư ghi nhận vào ngày 5 tháng 5 năm Hưng Khánh I (1407): Quân Minh đánh vào cửa biển Kỳ La, châu Nhật Nam. Nguyễn Đại (Nguyễn Đại trước thờ họ Hồ, sau phản lại họ Hồ, đầu hàng quân Minh, đến đây dẫn người Minh sang xâm lược) bắt được Hữu Tướng quốc Quý Tỳ và con ông là Phán trung đô Nguyễn Cữu. (Toàn Thư II, 233)[14]

Toàn Thư ghi nhận vào tháng 7 năm Hưng Khánh I (1407): Trương Phụ cho là Nguyễn Đại có công trong việc bắt hai cha con họ Hồ, trao cho chức Giao Chỉ đô chỉ huy sứ. Đại kiêu căng ra mặt, làm nhiều việc trái phép, say mê tửu sắc, lại ngầm có chí làm phản. Phụ bèn giết đi. (Toàn Thư II, 236)[15]

Đây là nạn nhân tương tự Bùi Bá Kỳ. Hẳn Đại tin tưởng rằng người Minh sẽ lập con cháu họ Trần. Khi Thành tổ lộ rõ ý định đặt quận huyện tại Giao Chỉ thì Đại trở thành nguy cơ tiềm ẩn. Dĩ nhiên, ông phải bị đưa ra khỏi cuộc chơi với lý do thật chính đáng.

5. Đỗ Duy Trung (? – 1426):

Đỗ Duy Trung người xã Nhuệ Chiết, huyện Ma Khê, phủ Tam Giang (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Ông làm quan cho nhà Trần, Hồ và nhà Minh.

Theo ghi nhận của Minh Thực Lục, lộ Tam Giang đầu hàng vào tháng 1 năm 1407. Nhiều khả năng, Duy Trung đã hàng Minh trong thời điểm này hoặc trước đó không lâu, khi quân chủ lực Hồ chưa bị tiêu diệt. Trong chiếu cho phép con trai Đỗ Bá Nghi tập ấm chức vụ của cha, vua Minh khẳng định Duy Trung là một trong những người đầu tiên đến xin hàng.

Đỗ Duy Trung đóng vai trò quyết định trong việc cản trở hai vua Giản Định và Trùng Quang chiếm lĩnh trung châu năm 1409. Ông từ chối chiêu dụ của các vua hậu Trần, giữ vững Tam Giang, bảo đảm đường tiến của viện quân chỉ huy bởi Trương Phụ. Nhờ đó, Phụ vào An Nam an toàn, đuổi bắt được Giản Định, đẩy Trùng Quang lui về Nghệ An.

Ngày 16/4/1411, vua Minh sai trung sứ sang Giao Chỉ ban thưởng cho các thổ quan có công. Đỗ Duy Trung đứng hàng thứ ba sau Mạc Thúy và Mạc (Nguyễn) Huân. Ông được bốn súc lụa hoa, một bộ triều phục kim tuyến và 1.000 quan tiền giấy.

Ngày 6 tháng 5 năm Vĩnh Lạc XI (12/6/1413) : Ngày Ất Dậu, Giao Chỉ Thổ quan Tri phủ Tam Giang Đỗ Duy Trung sai cháu là Tất Liệt, Thổ quan Tri phủ Giao Châu Đỗ Hy Vọng sai con là Cừ dâng biểu cống ngựa, cùng sản vật địa phương; được ban ơn ủy lạo. (Minh Thực Lục I, 360)[16]

Ngày 10 tháng 6 năm Vĩnh Lạc XIV (4/7/1416), khi đến Nam Kinh triều cận, Đỗ Duy Trung được thăng chức Hữu Tham chính ty Bố chính Giao Chỉ, được Minh Thành Tổ ban bằng sắc.

Ngày 18 tháng 8 năm Vĩnh Lạc XX (3/9/1422) : Các Thổ quan Giao Chỉ Hữu Tham chính Đỗ Duy Trung coi giữ phủ Tam Giang, Tri phủ Phụng Hóa Trần Thùy, con cố Tri phủ Giao Châu Đỗ Hy Vọng tên Cự, Tri huyện Đương Đạo Lương Quốc Phụ thuộc phủ Tuyên Hóa; tất cả gồm 27 người đến triều cống đồ dùng vàng, bạc cùng sản vật địa phương.

Hoàng Thái tử mệnh bộ Lễ ban yến ủy lạo (Minh Thực Lục II, 92)[17]

Ngày 3 tháng 12 năm Tuyên Đức I (31/12/1426): Ngày Nhâm Tuất, sắc mệnh phong Đỗ Bá Nghi, con cố Tham chính Đỗ Duy Trung tại ty Bố chính Giao Chỉ, chức Tri phủ phủ Tam Giang.Sắc phong như sau:

“Trước kia lúc quốc gia mới bình định Giao Chỉ, cha ngươi là người đầu tiên qui thuận, ra sức đánh dẹp và khuất phục bọn phản loạn, lập thành tích nên được ông nội ta, Thái tông Hoàng đế, trao chức lớn; mệnh cai trị phủ Tam Giang, thanh danh hiển hách, tuy đã mất nhưng dân vẫn không quên. Nay đặc cách mệnh ngươi giữ phủ Tam Giang, khi sắc tới ngươi lập tức đến nhiệm sở coi sóc dân chúng, ra sức dẹp giặc. Để xứng đáng kế thừa, ngươi phải hết sức cần lao c

0