Bàn về vụ án Cung Thượng Dương
Đặng Thanh Bình 1. Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý của học giả Hoàng Xuân Hãn viết: “Chú thích 4. TT và VSL đều chép lầm chữ Kỷ ra chữ Ất vì tự dạng gần nhau. Sự lầm như nhau chứng rằng hai sách đều bởi một gốc mà ra: Đại-Việt sử-ký của Lê ...
Đặng Thanh Bình
1.Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý của học giả Hoàng Xuân Hãn viết:
“Chú thích 4. TT và VSL đều chép lầm chữ Kỷ ra chữ Ất vì tự dạng gần nhau. Sự lầm như nhau chứng rằng hai sách đều bởi một gốc mà ra: Đại-Việt sử-ký của Lê Văn-Hưu. VSL chép ngày bằng lối can chi, chứ không nói rõ số mục ngày trong tháng. Vì không biết phép lịch dùng đời Lý, nên tôi không đổi ra ngày ta, mà chỉ dùng phép đổi ra ngày dương lịch mà thôi (Xem phép đổi trong báo Khoa-học số 19 và 20). Nhờ sự đổi ấy, tôi đã thấy rằng bản in VSL lầm ngày một vài chỗ, như ta sẽ thấy”.
Sách Việt sử lược chép:
“Năm Quý Tỵ [1053] là năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ 5. Nhà Tống đánh Trí Cao. Vua Tống sai Lương Châu sang xin vua [Lý Thái Tông] giúp binh lực”.
Sách Toàn thư chép:
“Quý Tỵ năm thứ 5 [1053] Mùa đông tháng 10, Trí Cao sai Lương Châu đến xin quân”.
* Giữa sách Việt sử lược và sách Đại Việt sử ký toàn thư chép sai khác nhiều mục.
Sách Việt sử lược chép:
“Năm Giáp Ngọ [1054] là năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ 6. Dùng Bùi Gia Hựu làm Văn minh điện đại học sĩ (…) lập 8 hoàng hậu. Dùng Nguyễn Đạo Thành làm Thái sư, Quách Kinh Nhật làm Thái uý”
Sách Toàn thư chép:
“Giáp Ngọ năm thứ 6 [1054] Cho Bùi Hựu làm Văn minh điện đại học sĩ (…) Canh Tý năm thứ 2 [1060] Mùa thu tháng 7, quân Tống xâm lấn không được, bèn sai Thị lang bộ Lại là Dư Tĩnh đến Ung Châu để hội nghị. Vua [Lý Thánh Tông] sai Phí Gia Hựu đi”.
* Theo như sách Việt sử lược thì năm 1054 vua Lý Thánh Tông lấy Lý Đạo Thành làm Thái sư.
Sách Việt sử lược chép:
“Năm Kỷ Dậu [1069] là năm Thần Võ thứ nhất. Mùa xuân tháng 2, ngày Mậu Tuất vua xuống chiếu thân chinh đánh nước Chiêm Thành (…) Tháng 3 (…) Đại quân tiến lên trước đóng ở bờ sông Tu Mao thấy tướng Chiêm Thành là Bố Bì Dà La đang bày trận ở bờ sông. Quan quân xông ra đánh, chém Bố Bì Dà La, quân Chiêm chết vô số. Chúa Chiêm Thành là Đệ Củ nghe quân bị thua bèn dắt vợ con ban đêm lẩn trốn. Đêm ấy, quan kéo vào thành Phật Thệ, đến bến Đồng La, dân ở thành Phật Thệ xin hàng. Mùa hạ tháng 4, nguyên soái Nguyễn Thường Kiệt bắt được Đệ Củ ở biên giới Chân Lạp. Mùa hạ tháng 5, vua ngự tiệc cùng quần thần ở ngội điện của vua Chiêm Thành, vua lại thân hành múa thuẫn và đánh cầu ở nơi thềm điện ấy”.
Sách Toàn thư chép:
“Quý Mão năm thứ 5 [1063] Bấy giờ vua xuân thu đã nhiều, tuổi 40 mươi mà chưa có con trai nối dõi, sai Chi hậu nội nhân Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa, sau đó Ỷ Lan phu nhân có mang, sinh hoàng tử Càn Đức tức Nhân Tông.Tục truyền rằng vua cúng khấn cầu tự chưa thấy hiệu nghiệm, nhân đi chơi khắp các chùa quán, xa giá đi đến đâu, con trai con gái đổ xô đến xem không ngớt, duy có một người con gái hái dâu cứ nép trong bụi cỏ lan. Vua trông thấy, gọi đưa vào cung, được vua yêu, phong làm Ỷ Lan phu nhân. Vua muốn có con trai, sai Bông đem hương cầu đảo ở chùa Thánh Chúa. Nhà sư dậy cho Bông thuật đầu thai thác hoá. Bông nghe theo. Việc phát giác, đem chém Bông ở trước cửa chùa. Người sau gọi chỗ ấy là Đồng Bông. Chùa ở xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, Đồng Bông ở phía Tây trước cửa chùa, nay hãy còn (…) Kỷ Dậu năm thứ 2 [1069] Mùa xuân, tháng 2, vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. Trận này vua đánh chiêm thành mãi không được, đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên phi giúp việc nội trị, lòng dân cảm hoá hoà hợp. Trong cõi vững vàng, tôn sùng Phật giáo, dân gọi là bà Quan Âm, vua nói: “nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao?”. Bèn quay lại đánh nữa, thắng được. Mùa hạ tháng 6 đem quân về. Mùa thu tháng 7, vua từ Chiêm thành về đến nơi, dâng tù ở Thái Miếu, đổi niên hiệu là Thần Vũ năm thứ 1”.
* Sách Toàn thư chép nhiều hơn sách Việt sử lược đoạn vua gặp nguyên phi Ỷ Lan và dẫn nguồn rất rõ là tục truyền. Nhưng nguồn thông tin này có thể tin được hay không ? Lại thêm sự kiện vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành năm 1069. Hai sách cũng chép sai khác. Sách Toàn thư chép thêm sự kiện vua đánh không thắng phải đem quân về, đến châu Cư Liên nghe tin nguyên phi Ỷ Lan trị nước tốt đẹp, vua thấy xấu hổ mà dẫn quân đánh lại Chiêm Thành và thắng được.
Sách Cương mục chép:
“Lời phê. Bấy giờ há lại không có đại thần để cho ở lại giữ nước hay sao ? Mà phải đến đàn bà can dự chính sự, để chuốc lấy tiếng khen. Sử chép không đúng sự thực, đại loại như thế đấy”.
* Có lẽ sử gia Ngô Sĩ Liên đã thu lượm những tục truyền tốt đẹp về Nguyên phi Ỷ Lan để chép vào sử. Chứ thực hai chuyện về Ỷ Lan không nên tin.
Sách Việt sử lược chép:
“Năm Ất Tý[1065] Mùađông tháng chạp, rồng vàng hiệnởđiện Diệu Linh, lại hiện ra gác Du Thiền, nơi mà bà Nguyên phi làỶ Lan ở (…) Năm Mậu Thân [1069] Mùa xuân tháng giêng châu Chân Đăng dâng voi trắng hai con. Lạng châu dâng voi trắng một con. Rồng vàng hiệnởđiện Diệu Linh”.
Sách Toàn thư chép:
“Tân Sửu[năm 1061] Mùa xuân tháng 2 chọn con gái dân gian 12 người vào hậu cung (…) Bính Ngọ[năm 1066] Mùa xuân tháng giêng ngày 25 giờ Hợi, hoàng tử Càn Đức sinh (…) Mậu Thân [năm 1068] Mùa xuân tháng 2 hoàng tử là Minh Nhân vương (không rõ tên) sinh, đó là người em cùng mẹ của Nhân Tông. Châu Chân Đăng dâng 2 con voi trắng, nhân đó đổi niên hiệu là Thiên Huống Bảo Tượng năm thứ 1”.
* Tuy rằng sách Việt sử lược không chép trực tiếp, song có chép nhữngđiểm lành, so sánh với sách Toàn thư, chúng ta biết rằng nhữngđiềm lành chép trong sách Việt sử lược như rồng vàng hiện làý chỉ việc Nguyên phi Ỷ Lan sinh Thái tử.
Trong sách Việt sử lược chép rồng vàng đều hiện ở điện Diệu Linh, vậy thì rõ rằng thông tin Minh Nhân vương là em trai cùng mẹ với Nhân Tông chép trong sách Toàn thư là chính xác. Xem sách Toàn thư, chúng ta sẽ rất dễ bị nhầm. Sách Toàn thư chép mục năm 1063 rằng vua xuân thu đã 40 mà chưa có con trai, nên sai Chi hậu nội nhân Nguyễn Bông đi khắp nơi cầu tự, sau đó Ỷ Lan phu nhân có bầu. Rồi ngay sau đó sách Toàn thư dẫn Tục truyền, chép về cuộc gặp gỡ giữa Lý Thành Tông và Nguyên phi Ỷ Lan nên khiến chúng ta nghĩ rằng bàỶ Lan vào cung năm 1063. Nhưng Tục truyềnkhông nên tin!
Mà sách Toàn thư chép rất rõ mục năm 1061 vua chọn con gái trong dân gian 12 ngườiđưa vào hậu cung. E rằng bàỶ Lan được tiến cung trong đợt này. Sử chép là tuyển con gái trong dân gian có chính xác không ?
Câu này không nên hiểu dân gian là tầng lớp lao động được, mà nên hiểu là những vùng đất xa kinh thành. Có thể là con gái của các thủ lĩnh cứ những vùng đất xa xôi. Chúng ta thấy sau khi bà Ỷ Lan sinh hoàng tử Nhân Vương, châu Chân Đăng dâng 2 con voi trắng, nhân đó mà đổi niên hiệu sang Thiên Huống Bảo Tượng.
Tại sao lại là 2 con voi trắng ? Vì nó ứng với 2 vị hoàng tử. Vì sao lại là châu Chân Đăng ? Vì châu Chân Đăng có họ Lê rất có thế lực mà rất trùng hợp bàỶ Lan cũng người họ Lê. Tôi ngờ rằng không phải là trùng hợp, bà Thái phi Ỷ Lan thuộc dòng tộc họ Lê châu Chân Đăng sinh con trai được phong làm Thái tử làsự đại cátđại lộc đối với bà Ỷ Lan nói riêng và đối với họ Lê châu Chân Đăng nói chung.
Có lẽ vì thế mà họ Lê mới tự dưng đem dâng 2 con voi trắng, ấy là để chúc mừng lẫn nhau, ngày nay những chuyện như vậy vẫn còn. Vua Lý Thánh Tông đổi niên hiệu sang Thiên Huống Bảo Tượng nghĩa là Trời cho con voi trắng. Rõ là vua biết châu Chăn Đăng dâng voi trắng, vậy mà cố nói rằng Trời cho. Ý của vua không phải là voi trắng, mà là trời cho con trai, trời cho hoàng tử, mà đúng là trời cho thật. Lý Nhân Tông là vị vua anh minh, đức hạnh.
Sách Việt sử lược chép:
“Năm Tân Hợi [1071] là năm Thần Võ thứ 3. Mùa đông tháng chạp vua không được khoẻ, vua hạ chiếu rằng, quân hữu ty mà đi nhầm vào nhà của chức quan Đô tả hay Đô hữu sẽ bị phạt 18 trượng. Năm Nhâm Tý [1072] là năm Thần Võ thứ 4. Mùa xuân tháng giêng, ngày Canh Dần vua bệnh nặng rồi qua đời ở điện Hội Tiên”.
Sách Toàn thư chép:
“Canh Tuất, Thần Vũ năm thứ 2 [1070] Mùa thu tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây (…) Tân Hợi năm thứ 3 [1071] Mùa đông tháng 12 vua không khoẻ. Xuống chiếu cho hữu ty ai vào lầm hành lang tả hữu quan chức đô thì đánh 80 trượng (…)Nhâm Tý năm thứ 4 [1072] Mùa xuân tháng giêng, ngày Canh Dần vua băng ở điện Hội Tiên”.
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý viết:
“Chú thích 6. Lý Đạo-Thành làm Thái-sư, tức là tể tướng, từ năm 1054 (VSL). Theo TT, bà Nguyên-phi coi chính quyền. Nguyên-phi tức là Ỷ-Lan. Ỷ-Lan chỉ là phi. Bấy giờ còn có hoàng hậu Thượng-Dương. Vả sau khi Thánh-Tông mất, quyền về tay hoàng hậu. Cho nên có thể nghi rằng trong khi vua vắng mặt, quyền cũng giao cho Dương-hậu. Vua Tự-Đức đã phê và trong sách CM, đại ý cũng như thế. Nhưng bấy giờ Ỷ-Lan mới sinh hoàng tử, được vua rất yêu dấu. Nên có thể được vua giao tạm quyền. Còn sau này, hình như Thánh-Tông chết một cách đột ngột, không kịp dặn dò, cho nên theo lẽ thường, Lý Đạo-Thành đã cử Dương-hậu chấp chính. Xem vậy, sự Thánh-Tông giao quyền cho Ỷ-Lan trong lúc đi đánh Chiêm-thành, không phải là vô lý (…) Khi Thánh-tông vắng mặt ở kinh (1069) Thái phi đã được thay vua cầm quyền. Thái tử còn trẻ; lẽ ra trước khi mất, vua cha phải phó thác cho một đại thần. Nhưng sử không chép vua Thánh-tông ủy quyền phụ chánh cho ai. Ta xem đó, nghi rằng vua mất một cách nhanh chóng, không kịp di chúc điều đó. Cho nên trong cung cấm có chuyện cạnh tranh. TT còn chép rằng: tháng chạp năm trước, vua mệt. Chiếu cho quan hữu ti rằng có ai vào lầm nhà dành cho quan chức đô tả hữu, thì sẽ phạt 80 trượng. Ý chừng là để đề phòng sự cướp quyền”.
* Sách Việt sử lược chép thiếu sự kiện vua Lý Thánh Tông khởi dựng Văn Miếu và cho Thái tử đến học. Nhưng sách Toàn thư chép vua Lý Thánh Tông dựng Văn Miếu vào tháng 8/1072 có chính xác không ?
Sách Thiền uyển tập anh chép:
“Đại sư Mãn Giác [1052-1096] Chùa Giác Nguyên, Cửu Liên. Người Lũng Chiền, làng An Cách, họ Nguyễn tên Trường. Cha là Hoài Tổ làm quan đến chức Trung thư viên ngoại lang. Vua Lý Nhân Tông, lúc còn làm Thái tử [1066-1072] xuống chiếu mời con em các danh gia vào hầu hai bên. Sư nhờ nghe nhiều, nhớ kỹ học thông cả Nho, Thích nên được dự tuyển. Sau những lúc việc quan, thường chú tâm vào thiền học. Đến khi vua lên ngôi [1072] vì rất mến chuộc sư, ban cho sư tên Hoài Tín”.
* Như vậy rằng: sách Toàn thư chép năm 1070 vua Thánh Tông dựng Văn Miếu, Thái tử Càn Đức đến học có lẽ không sai. Sư Mãn Giác nghe nhiều nhớ kỹ, thông cả Nho, Thích vậy rõ là Nho học cũng đã có thời gian truyền bá ở Đại Việt. Năm 1070 khi Thái tử đến tuổi đi học, có lẽ vua Thánh Tông đã tính chuyện xây dựng nền giáo dục cho Thái tử và rộng hơn là các con em danh gia.Tuy rằng sách Toàn thư chép vua cho đặp tượng Khổng Tử, nhưng rất có thể thời gian đầu, Phật giáo vẫn được dạy trong Văn Miếu. Có 1 chi tiết khá thú vị, ấy là sư Mãn Giác vì nghe nhiều nhớ kỹ nên được dự tuyển. Dự tuyển ở đây có lẽ là dự thính, được hầu Thái tử học chứ không phải dự tuyển thi.
* Học giả Hoàng Xuân Hãn cho rằng vua chết đột ngột không kịp di chúc vì không thấy sách sử chép lại. Xem ra không phải như vậy! Tháng 12/1071 vua đã bắt đầu cảm thấy không được khoẻ và đến tháng 1/1072 vua mới băng. Rõ ràng vua không chết đột tử. Vẫn còn thời gian vài ngày để di chúc. Có thể các sử gia không biết việc di chúc mà chép lại ?
Học giả Hoàng Xuân Hãn cho rằng lệnh cấm đi lại trong hành lang tả hữu là bắt nguồn từ việc cấm trong cung tranh giành sau khi chết mà không kịp di chúc. Xem ra sự việc không giống như Giáo sư nhận định. Nếu lệnh cấm đi lại trong hành lang tả hữu không phải do vua Lý Thánh Tông ban hành thì người nằm quyền lúc bấy giờ chính là người ra lệnh. Nhưng người đó có thể là ai ?
Việc ban lệnh ấy đúng là để đề phòng sự tiếm quyền nhưng cả sách Việt sử lược và Toàn thư đều chép thống nhất rằng thời điểm ban lệnh ấy là sau sự kiện vua cảm thấy không được khoẻ vào tháng 12/1071 và trước sự kiện vua băng ở điện Hội Tiên vào tháng 1/1072. Quan trọng hơn cả là sách sử chép rất rõ, lệnh do vua ban.
Nếu bám sát các thông tin sử chúng ta có thể xác định rằng: vào tháng 12/1071 vua Lý Thánh Tông cảm thấy không được khoẻ, vua sợ rằng có biến loạn nên ban lệnh cấm không được đi lại trong hành lang tả hữu, cho tới tháng 1/1072 trước khi Thánh Tôngbăng ở điện Hội Tiên thì vẫn đủ thời gian để di chúc việc phụ chính.
Sách Việt sử lược chép:
“Năm Nhâm Tý [1072] là năm Thần Võ thứ 4. Mùa Xuân tháng giêng ngài [Lý Càn Đức] lên ngôi. Trước linh cữu vua Thánh Tông, vua tôn mẹ là Nguyên phi Ỷ Lan làm Thái phi (…) Để cho Thái hậu Thượng Dương cùng dự việc triều chính. Mùa hạ tháng 4, ngày mùng 8 làm lễ rước nước tắm tượng Phật. Vua ngự ở điện Thiên An để thị triều. Ngày ấy vua dùng quan trong hàng Đại liêu ban là Nguyễn Thường Kiệt làm Kiểm hiệu thái uý, Nguyễn Nhật Thành làm Binh bộ thị lang. Còn các cấp khác trở xuống, mỗi người một chức vị sai biệt nhau. Vua tha cho những người bị cầm tù ở Đô hộ phủ. Quan Lạng châu mục là Dương Cảnh Thông dâng con hươu trắng. Quần thần dâng biểu lên chúc mừng. Vua phong Dương Cảnh Thông làm Thái bảo”.
Sách Toàn thư chép:
“Nhâm Tý năm thứ 4 [1072] Mùa xuân tháng giêng, Hoàng thái tử Càn Đức lên ngôi trước linh cữu, đổi niên hiệu Thái Ninh năm thứ 1. Bấy giờ vua mới 7 tuổi, tôn mẹ đẻ là Ỷ Lan nguyên phi làm Hoàng thái phi, tôn mẹ đích là Thượng Dương thái hậu họ Dương làm Hoàng thái hậu, buông rèm cùng nghe chính sự, Thái sư Lý Đạo Thành giúp đỡ công việc. Mùa hạ tháng 4 ngày mồng 8, vua xem lễ tắm Phật”.
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý viết:
“Lý Đạo-Thành là một bậc lão thần. Vua Thánh-tông lúc mới lên ngôi, đã chọn ông làm thái sư (1054, VSL). Ông ở ngôi tể tướng trong 18 năm. Nay vua còn trẻ, chức phụ chánh về ông là phải. Ông lại là một nhà nho học; ông theo lẽ thường, tôn Thượng-Dương thái hậu lên chấp chính. Đó là một cớ xung đột giữa ông và Ỷ-lan thái phi. Là một văn quan, mộ nho, mộ phật, chắc ông chuộng hoà bình, trái với Lý Thường-Kiệt là một vũ tướng đương tuổi còn hăng hái (54 tuổi). Thường-Kiệt vẫn giữ chức thái uý, cầm binh quyền, nhưng đứng sau thái sư Đạo-Thành. Đã có xung đột giữa hai người, thì chẳng bao lâu ắt có cuộc biến.VSL chép rằng: “ngày mồng 8 tháng tư năm ấy (TT chép năm ấy là năm Thái-ninh năm đầu, còn VSL chép năm ấy vẫn để niên hiệu Thần-vũ) sau khi làm lễ tắm tượng Phật, nhân ngày Phật đản, vua Nhân-tông chọn quan đại liêu Nguyễn Thường-Kiệt làm kiểm hiệu thái úy, và Nguyễn Nhật-Thành làm binh bộ thị lang”. Họ Nguyễn đây là họ Lý mà đời Trần kiêng húy (tổ nhà vua là Trần Lý) mà đổi ra. Nhật-Thành chắc là Đạo-Thành. Chữ Đạo hình như vì húy nên đời Trần cũng hay đổi [XV/1. Năm 1077 Lý Thường-Kiệt đã giúp sư Ðạo-dung chữa chùa Hương-nghiêm ở Thanh-hóa. Sách TUTA có chép chuyện vị sư này. Nhưng những bản nay còn đều chép hiệu sư là Pháp-dung. Ấy vì đời Trần, kiêng húy Trần Hưng-Ðạo] Theo đó, bốn tháng sau khi Nhân-tông lên ngôi, phe Thường-Kiệt đắc thắng. Thường-Kiệt được cất lên làm tể chấp, còn Lý Đạo-Thành bị giáng xuống chức thị lang”.
* Như giáo sư Hoàng Xuân Hãn có chỉ ra sự sai khác về niên hiệu trong 2 sách Toàn thư và Việt sử lược, theo đó năm 1072 trong sách Toàn thư là niên hiệu Thái Ninh thứ nhất, trong khi năm 1073 trong sách Việt sử lược mới là năm Thái Ninh thứ nhất. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho rằng Nguyễn Nhật Thành được chép trong sách Việt sử lược là Lý Đạo Thành, do kiêng huý nhà Trần nên đổi Lý thành Nguyễn và Đạo thành Nhật.
Thế nhưng cũng chính sách Việt sử lược chép: “Năm Mậu Thìn [1028] là năm Thuận Thiên thứ 19 (…) Tháng 5 (…) Nhà vua dùng Nguyễn Đạo Kỷ làm khu mật (…) Năm Giáp Ngọ [1054] là năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ 6 (…) Dùng Nguyễn Đạo Thành làm thái sư”.
Nếu là kiêng chữ Đạo nên chép sang chữ Nhật thì sao lại chỉ kiêng mục 1072 mà không kiêng mục 1028 và 1054. Thêm nữa, giáo sư Hoàng Xuân Hãn nhận định Lý Thường Kiệt được cất lên làm tể chấp còn Lý Đạo Thành bị giáng xuống chức thị lang. Nhưng nếu xét theo trình tự của sách Việt sử lược thì tháng 1/1072 vua Lý Nhân Tông lên ngôi, Thái hậu Thượng Dương dự chính, tháng 4/1074 dùng Nguyễn Thường Kiệt làm Kiểm hiệu thái uý, Nguyễn Nhật Thành làm Binh bộ thị lang.
Rõ ràng là tại thời điểm tháng 4/1072 phe Thái hậu Thượng Dương và Lý Đạo Thành đang thắng thế, vậy thì thật khó hiểu cho sự kiện Nguyễn Nhật Thành làm Binh bộ thị lang. Hoặc là Nguyễn Nhật Thành không phải là Lý Đạo Thành hoặc là sách Việt sử lược chép sai chức tước Binh bộ thị lang của Lý Đạo Thành hoặc là sách Việt sử lược chép sai thời điểm ban chức tước cho Lý Đạo Thành. Sách Việt sử lược chép những cái tên rất dễ nhầm lẫn như: mục năm 1028 Nguyễn Đạo Kỷ, mục năm 1054 Nguyễn Đạo Thành, mục năm 1072 Nguyễn Nhật Thành.
* Sách Việt sử lược chép thông tin rất quan trọng. Mùa hạ năm 1072 quan Lạng châu mục Dương Cảnh Thông dâng con hươu trắng. Vua phong Dương Cảnh Thông làm Thái bảo. Biên cảnh phía bắc có họ Thân, họ Hà nhiều đời thông gia với họ Lý nhưng không thấy dâng lễ vật ? Sau khi dâng lễ vật quan Lạng châu mục Dương Cảnh Thông được vua phong Thái bảo.
Sử chép là vua nhưng ngài lúc này mới có 7 tuổi chẳng biết gì nên việc phong này hẳn là do người nắm chính triều. Theo trình tự chép trong Việt sử lược thì sự kiện Dương Cảnh Thông dâng hươu trắng sau sự kiện Lý Thường Kiệt được bổ làm Kiểm hiệu thái uý và sau sự kiện Thái hậu Thượng Dương phụ chính. Sách Toàn thư cho biết bà Thái hậu cung Thượng Dương người họ Dương. Tôi ngờ rằng vị Lạng châu mục Dương Cảnh Thông có quan hệ thân tộc với vị Thái hậu Thượng Dương. Chỉ có 2 thông tin là tôi chưa lý giải được:
Thứ nhất là từ nhiều đời họ Thân ở động Giáp được phong chức châu mục Lạng Châu nhưng sao nay chức ấy lại do người họ Dương nắm giữ ?
Thứ hai là quan Lạng châu mục Dương Cảnh Thông dâng con hươu trắng thì có gì đâu mà các quần thần phải dâng biểu lên chúc mừng ?
Văn khắc trên chuông chùa Sùng Khánh châu Tư Lang như sau:
“Phủ trung bảo tiết, Tá lý công thần, Thứ sử châu Phú Lương kiêm Tiết độ quan sát sứ các châu Quảng Nguyên, Tư Lang, Kim tử Vinh lộc Đại phu – Kiểm hiệu Thái phó kiêm Ngự sử Đại phu, Đồng Trung thư Môn hạ Bình chương (sự) – […] Hoằng Nông quận Khai quốc công, thực ấp một vạn hộ, thực phong năm nghìn hộDương Cảnh Thông đặc biệt bỏ ra đồng tinh hơn bảy ngàn cân, tạo chuông lớn một quả, lưu lại cúng dường (…) Người chủ trương việc đúc chuông là Phò (mã) lang, người sáng lập nước Quắc vậy. Nhà ông thuộc (châu) Thái Bình, vốn dòng quí hiển, tiên tổ có công, rủ lành tích thiện. Hiển (tổ) là Thượng thư Bộ Binh, đạo vượt quần anh, oai kinh tứ chiếng. Cao tổ chức Thái phó, son sắt cẩn mực, tiết tháo sạch trong, sinh ra Định (tổ), húy là Nhật Đăng: thẳng thắn chính trực, mưu tính sâu xa, làm đến Thái bảo. Thái vương phụ húy Khuông, tu tập nhân lành, chức rốt Thái phó. Vương phụ húy Huệ Doanh, văn từ hoa lệ, điển tịch nắm quyền, trước thuật uyên thâm, quét tan a đảng, sinh được ba con. Ông là con út, dáng vẻ kỳ vĩ, dung nghi rạng ngời. Hạnh ngộ tiên vương, tuy có hoàng nữ được yêu chuộng, lễ nên ban gả cho phiên thần, liền triệu ông vào chầu, ngầm hợp lòng trên, gia ơn quyến cố, đáng làm rể quý, chọn lựa ngày lành, làm lễ gả công chúa Thọ Dương, tỏ lòng biệt đãi. (Thế là) xóm làng ca ngợi, họ tộc vẻ vang, lại đội ơn đức kim thượng lễ đãi khác thường, gia phong phẩm trật. Giữ vùng quan ải, mưu lạ chước mầu, muôn việc vẹn toàn, oai rền biên tái. Ngọc quan giữ vững, binh hỏa lặng yên, dân chúng thảnh thơi, công thành trị định, chuộng tu quả phúc, trong thấu lẽ mầu, ngoài tô điện phật, nhớ đền bốn ơn, ngầm phát nguyện lớn (…) Nay kính chúc Đương kim Hoàng đế, cơ đồ bền vững, ngôi báu yên bình, ơn huệ rãi đều, oai quyền nắm mãi. Thứ đến chúc Thánh Thiện Hoàng thái hậu, đạo vượt Ốc Đăng, thọ hơn Phụ Bảo. Những mong công chúa Thọ Dương: trên đài hoa báu, mãi chứng quả bồ đề, trong điện pháp lành, cùng lên hàng vương giác. Kiêm chúc song thân khảo tỉ cùng các quyến thuộc: gội duyên lành này, siêu sinh tịnh độ. Kính cầu cho ngài Thái phó họ Dương chủ xướng việc đúc chuông cho tới lệnh lang nối dõi trở xuống: oan khiên rũ sạch, phúc lộc dồi dào.Chuông đã đúc xong, nên làm bài văn nêu cho mai hậu. Tôi tự xét mình kém cỏi, không rõ thể tài, dám xin làm lời minh (…) Ngày 15 tháng Giêng năm thứ 4 niên hiệu Hội Tường Đại Khánh [1113] chép. Hồng Tán đại sư Thích Diên Thọ chùa Quảng Giáo Viên Minh khắc. Thừa vụ lang hiệu thư sảnh – thần Dương Văn Đĩnh viết. Viên ngoại lang bộ Hộ sung học sĩ viện Tập Hiền – Tứ tử Kim Ngư đại – thần Tào Lương Phụ soạn” [dẫn theo Phạm Lê Huy và Trần Quang Đức]
Sách Toàn thư chép:
“Đinh Dậu [năm 1117] Phò mã lang là Dương Cảnh Thông dâng hươu trắng (…) Giáp Thìn [năm 1124] Thủ lĩnh châu Quảng Nguyên là Dương Tự Hưng dâng hươu trắng (…) Đinh Mùi [năm 1127] Gả công chúa Diên Bình cho thủ lĩnh phủ Phú Lương là Dương Tự Minh”.
* Căn cứ vào văn khắc trên chuông chùa Sùng Khánh chúng ta biết rằng sách Việt sử lược chép nhầm chức tước của Dương Cảnh Thông. Cảnh Thông được ban chức Thái phó chứ không phải Thái bảo. Văn khắc cũng cho biết Dương Cảnh Thông làm Thứ sử châu Phú Lương kiêm Tiết độ sứ quan sát sứ các châu Quảng Nguyên, Tư Lang chức không thấy nhắc đến châu Lạng. Vì chuông chùa Sùng Khánh do chính Dương Cảnh Thông chỉ đạo đúc nên rõ là sách Việt sử lược chép nhầm.
Trong chú thích mục [106] bài viết Khảo cứu về Tư Lang châu Sùng Khánh tự chung minh (1113) của hai tác giả Phạm Lê Huy và Trần Quang Đức có dẫn nguồn Đại Việt sử lược. Quyển Trung. Nhân Tông chép:
“quần thần thượng biểu xưng hạ bái Dương Cảnh Thông vi Thái bảo. Như thế, vào mùa hạ năm 1072 [Thứ sử Phú Lương] Dương Cảnh Thông dâng con hươu trắng, quần thần dâng biểu xin ban cho Cảnh Thông chức Thái [phó] và vua đã đồng ý.
Sử chép rằng vua [Nhân Tông] nhưng kịch bản do Thượng Dương Thái hậu giàn dựng. Sách Toàn thư chép năm 1117 Phò mã lang Dương Cảnh Thông dâng hươu trắng ? Vậy Cảnh Thông lấy công chúa thời điểm nào ? Qua văn khắc trên chuông chúng ta biết rằng công chúa tên là Thọ Dương. Thật khéo trùng hợp chữ Dương với Thái hậu của cung Thượng Dương. Có khi nào sự việc không hẳn là ngẫu nhiên, mà hoàn toàn có tính chủ đích ? Văn khắc có nhắc đến tiên vương, có lẽ là vua Lý Thánh Tông [Chú thích số 85. Hai tác giả dẫn phần chú sách Hán thư của Nhan Sư Cổ rằng: Tiên hậu tức chỉ tiên quân. Vì văn chép là: 先后?]Văn trên chuông Sùng Khánh được khắc năm 1113 có nhắc đến sự kiện đức kim thượng lễ đãi khác thường, gia phong phẩm trật liền sau sự kiện Dương Cảnh Thông được triệu về triều, gả công chúa Thọ Dương. Lại thêm văn khắc nhắc đến việc kính cầu cho ngài Thái phó họ Dương cho tới lệnh lang nối dõi trở xuống.
Từ những thông tin này tôi ngờ rằng: thời điểm Dương Cảnh Thông về triều cưới con gái của vua Lý Thái Tông là công chúa Thọ Dương vào mùa hạ năm 1072. Cuộc hôn nhân giữa Dương Cảnh Thông và Thọ Dương công chúa là kế hoạch của Thái hậu Thượng Dương nhằm củng cố quyền lực, gia thêm vai trò của họ Dương trong chính trường. Rất có thể công chúa Thọ Dương là con gái của Thái hậu cung Thượng Dương. Có khi nào Tiên hậu trong văn khắc trên chuông Sùng Khánh là viết về Thượng Dương Thái hậu ?
Sách Lý Thường Kiệt:
Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý viết: “Sau khi Lý Thánh-tông mất, Tống đã sai viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây là Khang Vệ sang điếu (tháng 3, N.Tý 1072, TB 231/4a) (…) Tháng 8, có lệnh chung bãi bỏ các viên câu-đương công-sự ở các ti kinh-lược và an-phủ, nhưng trừ tỉnh Quảng-tây; “vì Ôn Cảo bấy giờ giữ chức ấy, vả lại vừa có ý đánh Giao-chỉ” (TB 237/23b). Lệnh đặt bảo-giáp ở các lộ đã ban ra. Tháng giêng năm Q.Su (1073) Hứa Ngạn-Tiên là viên coi việc ấy ở Lưỡng-Quảng tâu: “Đã sai các huyện-lệnh lập bảo-giáp để thay các thứ lính đã đặt từ trước” (TB 242/3b). Tống Thần-tông triệu Tiêu Chú về hỏi tình hình Giao-chỉ và sách-lược chinh phạt (ĐHBL). Chú cho việc ấy khó. Vua ngạc nhiên, nhắc lại câu người ta nói: Giao-chỉ bị thua ở Chiêm-thành, quân không còn nổi một vạn; có thể tính ngày lấy được (VI) (…) Có viên hình-bộ lang-trung là Thẩm Khỉ, nói quả quyết rằng: “Giao-chỉ là đồ hèn mọn, không lý gì không lấy được”. Vì thế vua chọn Khỉ thay Chú coi Quế-châu và kiêm chức Quảng-tây kinh-lược-sứ (tháng 2 năm Q.Su 1073; TB 242/14a). Khỉ liền xin: “Từ nay nếu ở Quảng-tây có biên sự, sẽ theo lệ Thiểm-tây, để ti kinh-lược được xử trí rồi tâu sau”. Vua bằng lòng. Khỉ lại sai người ra ngoài biên giới để lo liệu công việc (…) Thoạt tiên, Khỉ muốn tổ chức tây bắc Quảng-tây, để cho yên đường tiếp tế hạt mình. Cho nên, đặt các doanh trại ở các châu Dung, Nghi. Đem quân đánh trại Vương-khẩu, binh lính bị chết nhiều (ĐHBL 8). Thế mà Khỉ tâu dối về triều rằng các man dân theo mình. Rồi tự xây thành, đắp lũy. Làm dân vùng Nghi, Dung oán. Dân các động nổi lên, chém giết quan quân (theo lời Tống Thần-tông, TB 272/2a). Tháng 4 (Q.Su, 1073), Khỉ xin lấy động-đinh trong năm mươi mốt động thuộc Ung-châu để kết thành bảo giáp và sai quan dạy và kiểm tra. Vua Tống không những bằng lòng, mà còn cấp tiền cho để thi hành (TB 244/8b). Khỉ sai người vào các khê động, kiểm điểm dân đinh, lập thành bảo-ngũ, phát các trận đồ dạy chúng tập. Sau đó lại bắt các thuyền dọc bờ biển, thường dùng chở muối, để tập thủy chiến. Sợ người nước ta biết những hành động ấy, Khỉ ra lệnh cấm ta không được sang buôn bán ở đất Tống (TS 334). Quan Tống hết sức dụ dỗ các tù trưởng. Tháng 4 năm Quí Sửu 1073, Ôn Cảo xin tăng hàm cho tụi Nùng Tôn-Đán (V/8) và Nùng Trí-Hội (VI/7) là tụi đã bỏ Lý theo Tống. Tông Đán được chức đô-giám Quế-châu, Trí-Hội coi châu Quí-hóa; và cả hai được thăng hàm cung-bị-khố phó-sứ (TB 244/3b). Thẩm Khỉ lại sai người dụ Lưu Kỷ ở Quảng-nguyên. Ngày 15 tháng 10 năm Q.Su (1073) Khỉ tâu: “Lưu Kỷ ở Giao-chỉ muốn theo ta. Nếu không nhận, sợ nó làm loạn như Nùng Trí-Cao” (TB 247/22a). Cũng vào khoảng cuối năm ấy (Q.Su 1073), có bọn Nùng Thiện-Mỹ ở châu Ân-tình (vùng châu Cảm-hóa thuộc Bắc-Kạn, giáp châu Thất-khê, còn có làng Ân-tình, chính là đó, xem ĐKĐD) nghe lời Thẩm Khỉ dỗ, đưa bảy trăm bộ hạ vào xin theo Tống (TB 259/13b). Viên đô-tuần-kiểm là Tiết Cử nhận (TB 251/1a) (…) Tháng ba năm G.Dn (1074) viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây tố cáo việc ấy (TB 251/1a). Vua Tống bảo xét và dặn rằng: “Chúng nó đã quy-ninh, thì nên cứu giúp” (TB 259/13b) (…) Thẩm Khỉ tới coi Quế-châu được một năm rồi, mà trong hạt Quảng-tây xẩy nhiều vụ lôi thôi. Triều đình Tống sợ Khỉ gây chuyện với ta không đúng cơ hội. Vua Tống và An-Thạch đã trở nên không thích Khỉ. Nhân bàn chuyện Lưu Kỷ, vua Tống nói: “Việc Giao-chỉ có thể làm xong được. Nhưng sợ Khỉ không làm nổi”. An-Thạch trả lời :”Khỉ tự cho dễ làm xong. Nhưng việc binh rất khó. Sợ Khỉ chưa dễ đã làm xong” (tháng 10, Q.Su 1073, TS 247/22a)”.
* Sự kiện Lý Thánh Tông băng vào tháng 1/1072 thổi bùng lên tham vọng của Tống triều. Rất nhiều các hoạt động chuẩn bị cho cuộc nam chinh diễn ra. Vài thế lực vùng biên giới cũng nhân việc này mà cố thoát ra khỏi sự kiềm toả của Thăng Long. Tháng 3/1072 viên chuyển vận sử Quảng Tây là Khang Vệ sang Thăng Long trước là điếu vua Thánh Tông, sau là thăm dò tình hình Đại Việt.
Sách Việt sử lược chép:
“Năm Nhâm Tý [1072] là năm Thần Võ thứ 4. Mùa thu tháng 7 (…) An táng vua Thánh Tông (…) Quan Cáp núi là Nguỵ Trưng vì tuổi già nên từ chức quan về nghỉ, vua hạ chiếu ban cho cái ghế tựa và cây gậy (…) Lập hoàng hậu 2 người. Năm Quý Sửu [1073] là năm thứ 2. Tháng giêng vua đổi niên hiệu là Thái Ninh năm thứ nhất, tôn Thái phi làm Thái hậu Linh Nhân. Thái hậu Linh Nhân có tính hay ghen ghét, thấy bà đích mẫu được tham dự việc triều chính mới bảo vua rằng: Mẹ già khó nhọc nuôi con để có ngày nay, đến lúc phú quý thì người khác hưởng, ăn ở như thế thì đặt mẹ già này vào chỗ nào ? Nhà vua tuy nhỏ bé nhưng cũng có hiểu biết chút ít, rằng mình không phải là con của Thái hậu Thượng Dương, bèn đem Thái hậu Thượng Dương và 72 thị nữ ở cung Thượng Dương rồi bức bách bắt đem chôn sống theo vua Thánh Tông (…) Tháng 8 (…) Vua Tống Thần Tông phong vua làm Quận vương”.
Sách Toàn thư chép:
“Quý Sửu, Thái Ninh năm thứ 2 [1073] Bấy giờ mưa dầm, rước phật Pháp Vân về kinh để cầu tạnh. Cúng thần núi Tản Viên.Giam Hoàng thái hậu họ Dương, tôn Hoàng thái phi làm Linh Nhân hoàng thái hậu. Linh nhân có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú qúy người khác được hưởng thế thì sẽ để mẹ già vào đâu ? Vua bèn sai đem giam Dương thái hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông [Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhân Tông là người nhân hiếu, Linh Nhân là người sùng Phật, sao lại đến nỗi giết đích thái hậu, hãm hại người vô tội, tàn nhẫn đến thế ư? Vì ghen là thường tình của đàn bà, huống chi lại mẹ đẻ mà không được dự chính sự. Linh Nhân dẫu là người hiền cũng không thể nhẫn nại được, cho nên phải kêu với vua. Bấy giờ vua còn trẻ thơ, chỉ biết chiều lòng mẹ là thích, mà không biết là lỗi to. Thái sư Lý Đạo Thành phải ra trấn bên ngoài, biết đâu chẳng vì can gián việc ấy?] Nhà Tống phong vua làm Giao Chỉ Quận Vương.Thái sư Lý Đạo Thành lấy chức Tả gián nghị đại phu ra coi châu Nghệ An. Đạo Thành lập viện Địa Tạng ở trong miếu Vương Thánh châu ấy, ở giữa viện đặt tượng Phật và vị hiệu của Thánh Tông, sớm hôm thờ phụng [Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đạo Thành là đại thần cùng họ, đương khi để tang Thánh Tông vì có việc ra trấn ở ngoài, lòng cảm nhớ tiên đế là chân tình, nhân mượn cớ thờ Phật để thờ vua, đó chỉ là việc nhất thời mà thôi. Về sau những người trấn thủ châu Nghệ An vẫn lấy nơi ấy làm chỗ phụng thờ Thánh Tông, suốt cả triều Lý không ai chê việc ấy là trái. Phàm vua không được tế ở nhà bề tôi, cha không được tế ở nhà con thứ, huống chi lại thờ chung với người Di. Đó là lỗi của nhà Lý sùng Phật]”.
Văn bia chùa Linh Xứng do sư Hải Chiếu soạn, được khắc vào năm Bính Ngọ niên hiệu Duệ Vũ thứ 7 [1026] viết:
“Giữa khoảng niên hiệu Thần Vũ (1069-1072) được phong chức Thái úy đồng trung thư môn hạ chương sự, giúp đỡ việc chính sự của nước nhà, muôn dân được nhờ ơn rất nhiều vậy. Đầu niên hiệu Thái Ninh (1072-1075) đức kim thượng Minh hiếu hoàng đế lên ngôi, Thái úy lấy tư cách là Y Doãn. Hoắc Quang được nhà vua giáo phó nhiếp chính và gửi gắm công việc xã tắc” [dẫn theo Nguyễn Đức Vân và Đỗ Văn Hỷ]
* Trong khi sách Việt sử lược chép năm Quý Sửu là niên hiệu Thái Ninh năm thứ nhất thì sách Toàn thư lại chép năm Quý Sửu là niên hiệu Thái Ninh năm thứ hai. Vì sao có sự sai khác này ? Cả sách Việt sử lược và Toàn thư đều chép mùa xuân tháng giêng năm Nhâm Tý 1072 Thái tử Càn Đức lên ngôi vua, mà thông thường thì khi thái tử lên ngôi sẽ đổi niên hiệu khác. Văn khắc tại chùa Linh Xứng cho chúng ta biết năm Thái Ninh thứ nhất là năm đức kim thượng Minh hiếu hoàng đế lên ngôi. Vậy có thể sách Toàn thư chép đúng, vào tháng 1/1072 vua Lý Nhân Tông đổi niên hiệu từ Thần Vũ sang Thái Ninh. Viết là có thể vì nếu giả như sách Toàn thư và sách Việt sử lược chép sai, năm 1073 Lý Nhân Tông mới lên ngôi, khi ấy năm Thái Ninh thứ nhất là năm Quý Sửu chứ không phải là Nhâm Tý.
* Thế nhưng có vài chi tiết khác biệt trong 2 bộ sử sớm nhất còn tồn tại, ấy là: những sự kiện xảy ra trong năm 1072 trong sách Toàn thư không được chép nhiều. Thông thường, khi 1 vị thái tử lên ngôi sẽ có rất nhiều việc phải làm như đặt lại chức quan, ân xá miễn thuế, xây chùa ngự xem. Thêm nữa sách Toàn thư cũng không thấy chép về Lý Thường Kiệt ?
Trong khi năm 1072 sách Việt sử lược chép rất nhiều sự kiện mà 3 sự kiện rất đang quan tâm là: ban tước phong cho Lý Thường Kiệt làm Kiểm hiệu thái uý vào tháng liền sau tháng 4, an táng vua Thánh Tông vào khoảng liền sau tháng 7 và lập hoàng hậu hai người. Vua được 6 tuổi đã lập hoàng hậu tới 2 người ?
Rõ ràng việc lập hoàng hậu chỉ nhằm mục đích liên kết các dòng họ mà thôi. Ngoài ra còn có 2 sự kiện khá thú vị, ấy là sự kiện rước phật ở Pháp Vân về Kinh sư để cầu tạnh mưa và sự kiện tế núi Tản Viên.
Xét lời khóc của Thái phi Linh Nhân với vua Nhân Tông và trình tự chép 2 sự kiện rước phật, tế núi chúng ta đoán rằng: sách Toàn thư và sách Việt sử lược chép cùng nguồn tài liệu. Nhưng trong khi, trước sau của sự kiện rước phật và tế núi còn có các sự kiện khác xảy ra năm 1072 được chép trong sách Việt sử lược thì sự kiện rước phật và tế núi là sự kiện được sách Toàn thư chép đầu tiên vào năm 1073.
Thêm nữa sách Toàn thư chép kết thúc năm 1072 vào mùa hạ tháng 4 và bắt đầu năm 1073 mà không có mốc thời gian, chính xác hơn, cả năm 1073 trong sách Toàn thư không hề có mốc thời gian ? Rõ ràng là đoạn chép này của sách Toàn thư đã không còn giống với những đoạn khác!
Chúng ta có thể đoán định rằng: sách Toàn thư đã vừa lược chép lại vừa gom chép. Lược chép ở chỗ, có nhiều sự kiện sách Toàn thư đã bỏ mà không chép và gom chép ở điểm, sự kiện đang lẽ phải xảy ra năm 1072 thì sách Toàn thư đã chép gộp sang năm 1073. Chỉ duy có sự kiện bà Linh Nhân khóc với vua Nhân Tông là cả 2 bộ sách đều chép cùng vào năm 1073 vậy thì rõ là nguồn tài liệu của 2 bộ sử này cũng chép vào năm 1073.
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý viết:
“Tháng ba năm sau (Q.Su 1073) sứ ta là Lý Hoài-Tố tới cống, vua Tống phong vua Lý Nhân-tông tước Giao-chỉ quận-vương”.
* Tháng 3 vua Tống phong cho Lý Nhân Tông tước Giao Chỉ quận vương. Cả sách Toàn thư và Việt sử lược đều chép sự kiện này. Tuy nhiên chúng ta không biết được rằng thời gian chép trong 2 bộ sử là thời gian trong sử phương bắc hay thời gian Lý Hoài Tố về Thăng Long báo tin cho vua Lý Nhân Tông.
Sách Việt sử lược chép thông tin vua Lý được phong tước vương là liền sau tháng 8/1073 trong khi sách Toàn thư không chép thời gian, nhưng liền ngay sau sự kiện phong tước vương năm 1073 là sự kiện Lý Đạo Thành bị biếm làm Tả gián nghị đại phu và phải ra coi châu Nghệ An.
Theo như sách Việt sử lược thì thời gian vua Lý được phong tước vương là thời gian Lý Hoài Tố về tới Thăng Long và thông báo lại việc đi sứ. Và việc thông báo chuyến đi sứ phải xảy ra sau tháng 8, nhưng từ thời gian đó cho đến tháng 12 còn rất nhiều thời gian, đủ để sự kiện Lý Đạo Thành bị biếm coi châu Nghệ An.
Tuy nhiên sự kiện Lý Thường Kiệt tấn công 3 châu Ung Khâm Liêm của nhà Tống thì 2 bộ sự chép khác nhau rõ rệt. Sách Việt sử lược chép vào liền sau tháng 9/1074, sách Toàn thư chép liền trước tháng 8/1075.
Sự khác nhau này có phải do nguyên nhân của sự sai khác trong niên hiệu hay không ? Có lẽ là không vì thấy cả sách Toàn thư và Việt sử lược bên cạnh việc chép theo niên hiệu còn chép theo can chi.
Dù sự khác nhau có thể nào thì qua những sự kiện được cả 2 bộ sử chép như tha tù ở phủ đô hộ, vua ngự ở điện Thiên An coi chầu, chim sẻ trắng đậu ở cấm đình thì chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng 2 bộ sử cùng chép từ 1 nguồn mà ra. Nhưng vì sao có sự sai khác ?
Theo tôi do sách Việt sử lược bị đưa về phương bắc nên gần như được bảo tồn so với nguyên gốc, trong khi bản song sinh với Việt sử lược lưu hành tại phương nam, đã trải qua nhiều lần tu sửa, mà chủ yếu là đối với các sự kiện có thể kiểm chứng được như sự kiện Lý Thường Kiệt đánh Tống chẳng hạn, còn đối với các sự kiện không thể kiểm chứng được như chim sẻ trắng đậu ở cấm đình thì được giữ nguyên so với nguyên gốc. Vậy sự kiện tu sửa bắt đầu từ khi nào ?
Sách An Nam chí lược chép:
“Trần Tấn. Thái vương dùng làm tả lang, thăng chức Hàn trưởng, làm sách Việt chí (…) Lê Hưu. Vừa có tài vừa có hạnh, làm thầy Chiêu Minh vương, đổi làm Kiểm pháp quân, sửa Việt chí”.
* Chúng ta không biết cuốn Việt chí có phải là Đại Việt sử ký hay không nhưng ngờ rằng cuốn Việt chí là nội dung cơ bản của cuốn Đại Việt sử ký. Sách Việt sử lược từ Đại Việt sử ký mà ra hay từ Việt chí, chúng ta sẽ bàn trong bài khác. Còn khó khăn nữa là ngoài những sự kiện khác nhau rõ rệt giữa 2 bộ sử, còn có các sự kiện chỉ sai khác chút xíu về thời gian ? Có lẽ nguyên nhân từ chế độ lịch ở mỗi thời mỗi khác chẳng ?
Cuối cùng chúng ta có thể kết luận gì về 2 bộ sử này ?
Thứ nhất là cả 2 đều được chép từ 1 nguồn tài liệu.
Thứ hai là sách Toàn thư đã được tu sửa theo thời gian qua các sử gia, còn sách Việt sử lược gần như được bảo tồn.
Thứ ba là riêng quãng thời gian từ năm 1072 đến 1075 có vẻ như thông tin sử trong 2 bộ sử trái ngược với tên gọi của sách. Sách Việt sử lược không hề chép lược tí nào và sách Toàn thư lại chép thiếu nhiều sự kiện.
Thứ tư là tuy sách Việt sử lược chép sai về thời gian diễn ra các sự kiện, song sự kiện luôn luôn được gắn với 1 mốc thời gian nào đó (có lẽ chính sự sai khác về mốc thời gian của những sự kiện có thể kiểm chứng đã chứng tỏ rằng sách ấy chép sai ngay từ đầu và không được tu sửa trong suốt thời gian tồn tại, nói cách khác chính là bản sao đúng với bản gốc bị sai) trong khi sách Toàn thư thì các sự kiện rất ít khi gắn với 1 mốc thời gian cụ thể nào đó ? Rất có thể tác giả tu sử sách Toàn thư đã rất lúng túng trước những thông tin có thể kiểm chứng được, chính những thông tin có thể kiểm chứng được trái ngược với thông tin trong bản gốc, khiến người soạn lại không biết sắp xếp các sự kiện sao cho hợp lý với trình tự thời gian, thành ra để an toàn, người soạn đã lược đi các mốc thời gian cụ thể, nên chỉ còn lại các sự kiện.
* Trong đoạn sử từ năm 1072 đến năm 1075 của sách Toàn thư thì năm 1073 là đáng chú ý nhất. Trước hết không thấy ngày tháng mùa xuất hiện trong năm 1073 ? Sách Việt sử lược chép nhiều hơn 3 sự kiện: Chiêm Thành vào cống, tháng 7 rồng vàng hiện ở gác Du Thiền, tháng 8 châu Phong dâng con hươu trắng. Sách Toàn thư chép lời khóc của bà Linh Nhân giống hệt với sách Việt sử lược, lại chép việc vua Tống phong Quận vương cho vua Lý nhưng không thấy chép đến thời gian, trong khi sự kiện này có thể kiểm chứng để viết cụ thể hơn.
Vậy rõ rằng các sự kiện giống nhau trong 2 bộ sách đều được chép đúng từ nguyên bản. Trong khi đó sách Toàn thư lại bỏ đi 3 sự kiện nhưng thú vị lại chép thêm 1 sự kiện, ấy là: Lý Đạo Thành ra coi châu Nghệ An, mang theo vị hiệu của Thánh Tông để thờ phụng. Xét lời bình của Ngô Sĩ Liên về tục thờ Thánh Tông ở viện Địa Tạng và hành động của Đạo Thành mang phảng phất tự ái của Nho gia thì e rằng: sự kiện Lý Đạo Thành bị biếm ra coi châu Nghệ An được thêm vào so với bản gốc.
Thêm nữa vào mùa xuân năm 1074 Lý Đạo Thành lại được cất nhắc làm Thái phó bình chương quân quốc trọng sự. Thời gian thăng giáng quá gần cùng với các sự kiện khác khiến ta nghĩ rằng sự việc diễn ra như sau: Sử gốc chép năm 1072 Nguyễn Nhật Thành được ban chức Binh bộ thị lang.
Trong khi đó sử cũ chép năm 1054 Nguyễn Đạo Thành được ban chức Thái sư, vậy là Lý Đạo Thành bị giáng chức rồi. Người soạn sử ngờ rằng việc bị giáng chức của Đạo Thành là liên quan tới sự kiện tranh giành giữa Thượng Dương thái hậu và Nguyên phi Ỷ Lan.
Vậy thì Lý Đạo Thành phải bị biếm sau sự kiện Thái hậu Thượng Dương bị bức tử, nhưng không biết chính xác mốc thời gian. Và nhân có Tục thờ Thành Tông ở viện Địa Tạng, lại thêm tục ấy gắn với câu chuyện liên quan tới Lý Đạo Thành, nên liên kết 2 sự kiện để chép thành sự kiện: Lý Đạo Thành bị biếm ra coi Nghệ An (việc vua Thánh Tông được thờ ở viện Địa Tạng có lẽ bắt nguồn từ cuộc tấn công Chiêm Thành năm 1069, còn vì sao nó có liên kết với Lý Đạo Thành thì chưa xác định được).
* Có 2 câu hỏi quan trọng:
Thứ nhất Nguyễn Nhật Thành có phải là Lý Đạo Thành hay không ?
Thứ hai có khi nào sự kiện tranh giành giữa Thượng Dương và Linh Nhân là kiến tạo không ?
Tôi ngờ rằng Nguyễn Nhật Thành và Lý Đạo Thành không phải là 1 người. Có lẽ sử gia Ngô Sĩ Liên đã lầm chăng ? Như trên chúng ta có 2 chứng cớ, ấy là: Trong lúc phe Thượng Dương đang thắng thế thì vì sao Nguyễn Nhật Thành bị hạ xuống làm thị lang ? Thêm nữa vì kiêng huý Đạo nên chép thành Nhật vậy sao ở các mục khác không kiêng ? Giờ chúng ta lại có thêm kịch bản khác rằng rất có thể thông tin Lý Đạo Thành bị biếm ra coi châu Nghệ An là đời sau chép thêm vào ?
Và tôi còn chứng cớ nữa nhưng sẽ trình bày trong phần dưới. Về việc có sự tranh giành giữa Thượn Dương Thái hậu và Nguyên phi Ỷ Lan hay không ? Đó chẳng qua chỉ là sự tư duy ngược lại so với lập luận rằng: Lý Đạo Thành bị biếm ra coi Nghệ An là cách mà các sử gia tạo lý lịch cho tục truyền thờ Thánh Tông ở viện Địa Tạng, vậy thì cuộc tranh giành quyền hành có phải là kiến tạo cho việc Lý Đạo Thành bị biếm hay không ?
Sách Lý Thường Kiệt: Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý viết:
“Năm sau (Giáp dần 1074) Chiêm-thành lại bắt đầu quấy biên cảnh (TT) và dọc biên giới miền bắc, Tống cũng sửa soạn việc động binh. Có lẽ, vì thế, Lý Thường-Kiệt lo toan đoàn kết trong nước để kết thúc nhân tâm. Việc đầu tiên là xóa sự hiềm khích gây ra vì chuyện Thượng-dương thái hậu. Năm ấy (Giáp-dần 1074) mời Lý Đạo-Thành từ Nghệ-an trở về, giữ chức Thái-phó, bình-chương quân quốc trọng sự, hiệp tác với Thuờng-Kiệt coi việc dân và quân trong nước, để cho Thường-Kiệt rảnh tay sắp đặt việc chống Tống, và thay ông trong khi phải xuất ngoại cầm quân. Lý Đạo-Thànhlà một bậc lão thành, được sĩ phu ngưỡng vọng. Việc ông bị biếm vào Nghệ-an chắc đã gây mầm chia rẽ lớn ở triều. Bấy giờ, bên triều Tống, cũng có việc hai phái tân cựu cạnh tranh (…) Chắc rằng, ở nước ta cũng chịu ảnh hưởng của cuộc xung đột ấy. Vua còn trẻ, đáng lẽ các lão thần phụ chính. Mà bây giờ, quyền lại vào tay một vũ tướng mới hơn 50, thêm là một hoạn quan. Phái già chắc bất mãn. Muốn lấy lòng phái ấy, Thường-Kiệt tất phải hậu đãi các lão thần. Vì vậy mới có việc mời Lý Đạo-Thành trở về dự chính và việc vua hạ chiếu cho phép những công thần 80 tuổi, mỗi khi vào chầu, được chống gậy và ngồi ghế (TT)”.
* Sách Toàn thư và sách Việt sử lược đều có chép về việc hậu đãi các lão thần, tuy nhiên mỗi sử lại chép khác nhau. Sách Toàn thư chép thì đã được Giáo sư Hoàng Xuân Hãn sử dụng hợp lý sự kiện. Thế nhưng tôi muốn bàn thêm về sự kiện hậu đãi lão thần chép trong sách Việt sử lược “Năm Nhâm Tý [1072] Quan Cáp núi là Nguỵ Trưng vì tuổi già nên từ chức quan về nghỉ, vua hạ chiếu ban cho cái ghế tựa và cây gậy”.
Tuy câu chữ có đôi chút khác với sách Toàn thư song về nội dung thì đều hàm chứa việc hậu đãi của vua đối với các lão thần. Điểm thú vị là trong khi sách Toàn thư chép sự kiện hậu đãi hoàn toàn độc lập và xảy ra sau khi sự kiện bức tử Thượng Dương thái hậu, còn trong sách Việt sử lược thì việc hậu đãi gắn liền với quan Nguỵ Trưng và diễn ra trước sự kiện Thượng Dương thái hậu bị bức tử. Nếu giả như sách Việt sử lược chép đúng thì sự kiện hậu đãi các lão thần không bắt nguồn từ mục đích của Lý Thường Kiệt trong việc làm dịu xích mích với Lý Đạo Thành.Và nếu đúng thì đây cũng là bằng chứng cho thấy không có việc triều đình mời Lý Đạo Thành từ châu Nghệ An về dự triều chính.
* Sự kiện khá thú vị do sách Việt sử lược cung cấp, ấy là “Năm Quý Sửu [1073] Tháng 8 châu Phong dâng con hươu trắng”. Chúng ta đã thấy sự kiện năm năm 1072 Thứ sử châu Phú Lương Dương Cảnh Thông dâng con hươu trắng có ý nghĩa như thế nào ? Câu hỏi tương tự việc dâng hươu trắng của châu Phong có mang ý nghĩa gì không ?
Mộ chí của Phụng Thánh phu nhân họ Lê viết:
“Bà là phu nhân của Thần Tông hoàng đế, họ Lê huý là Lan Xuân, tức là con gái út của Phụ Thiên Thái vương. Mẹ bà là công chúa Thuỵ Thánh, con gái cả của Dự Tông hoàng đế. Bà trưởng là công chúa Thuỵ Thánh, tức là con gái cả của Thánh Tông hoàng đế. Ông nội là Phò ký uý, giữ chức Quan sát sứ ở bảo sở châu Chân Đăng, cháu gọi Ngự Man Thái vương bằng chú, cũng là cháu nội Đại Hành hoàng đế nhà Lê. Phụ Thiên Thái vương có 20 người con, một người là Thái hậu, ba người là phu nhân, bốn người là công chúa, mười hai người là thái tử. Năm Giáp Dần, niên hiệu Thiên Chương Bảo Tự thứ 2 [1134] lúc mới đầu, hoàng đế kén chọn bà Cảm Thánh hoàng thái hậu, con gái cả của Phụ Thiên Thái vương vào cung, về sau thấy phu nhân có nhan sắc, lại kiêm cả tứ giáo, liền đưa lên làm phi (…) Năm Bính Thìn niên hiệu Thiên Chương Bảo Tự thứ 5 [1137] được tiến phong Phụng Thánh phu nhân” [dẫn theo Lâm Giang]
Sách Việt sử lược chép:
“Năm thứ 2 niên hiệu Hưng Thống [991] vua phong cho con của người em làm Ngữ Man vương ở Phong Châu”.
* Họ Lê châu Phong và châu Chân Đăng rất có thế lực. Nguyên phi Ỷ Lan có lẽ không phải là cô gái nhà quê như trong những câu chuyện dân gian thường kể về bà. Tôi ngờ rằng bà xuất thân trong tộc họ Lê danh giá và thế lực. Sự kiện châu Phong dâng hươu trắng năm 1073 biểu hiện họ Lê đang rất thịnh vượng. Có lẽ đây là dấu hiệu cho thấy cuộc tranh quyền giữa Thái hậu Thượng Dương và Nguyên Phi Ỷ Lan đã kết thúc. Thêm nữa, liền trước sự kiện châu Phong dâng hươu trắng, là sự kiện rồng vàng xuất hiệnở gác Du Thiền. Có phải sách sử muốn thông tin rằng bàỶ Lan đã nhiếp chính. Nhưng mọi sự có phải như sách sử chép ?
Sách Mộng khê bút đàm [1086 –