Giống Mít Không Hạt
Mít không hạt có mùi thơm, vị ngon, múi và xơ có màu vàng, múi có độ dày đồng đều, cùi nhỏ, rất ít xơ, điểm đặc biệt là trong múi không có hạt, phần ăn được chiếm tỉ lệ trên 90 %. Giống mít không hạt cho năng suất cao, trọng lượng trung bình một trái vào khoảng 9-10 kg, ...
Mít không hạt có mùi thơm, vị ngon, múi và xơ có màu vàng, múi có độ dày đồng đều, cùi nhỏ, rất ít xơ, điểm đặc biệt là trong múi không có hạt, phần ăn được chiếm tỉ lệ trên 90 %. Giống mít không hạt cho năng suất cao, trọng lượng trung bình một trái vào khoảng 9-10 kg, trái lớn khoảng 13-15 kg. Khi chín vỏ trái mít không hạt có màu vàng xanh, quả cân đối.
Thời gian từ khi trồng cây đến khi cho trái khoảng 14-18 tháng, nếu điều kiện chăm sóc tốt, đầy đủ chất dinh dưỡng và nước tưới, cây sẽ cho trái sau khi trồng từ 10 đến 12 tháng. Cây con phát triển rất mạnh, cành cây mọc dày và phân bố đồng đều quanh thân chính, lá xanh bóng, lá non cuộn tròn giống với lá chè xanh, mép lá khi còn non có hình răng cưa rất rõ. Giống cây mít không hạt cho hiệu quả kinh tế cao nhất so với các giống mít được trồng hiện nay.
Trái mít không hạt có vỏ mỏng, hàm lượng đường trong trái rất cao. Khi trái già vỏ có màu vàng xanh, gai nở đều, các đường chỉ xung quanh gai sẽ chuyển thành màu vàng sậm. Chú ý: nên dùng thang hay dụng cụ hái chuyên dụng để hái trái tránh làm vỏ mít chấn động mạnh hay tổn thương sẽ dễ bị thối.
Múi không hạt có hương vị đặc trưng: vị ngọt lịm, hương rất thơm. Tại hội thi trái ngon - An toàn Nam bộ lần 2 tổ chức tại TP.HCM năm 2010, giống cây mít không hạt đã đạt giải Lạ, hiếm. Chất lượng của trái mít không hạt được các nhà khoa học, các nhà quản lý nông nghiệp và nông dân tham gia đánh giá rất cao.
Kỹ thuật trồng cây giống mít không hạt
I. Chọn đất trồng mít
Đất trồng phải chọn ở nơi khô ráo thoát nước tốt, không bị ngập úng kéo dài và có đủ nước tưới để cây sinh trưởng.
- Ở vùng đồng bằng, vùng trũng chỉ được phép trồng mít ở những chân đất có đê bao vững vàng và phải vun mô cao 0,3m-0,8m tùy mức thủy cấp cao thấp.
- Ở Miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và vùng đồi núi miền Trung đổ ra các tỉnh phía Bắc đều có thể quy hoạch trồng cây Mít nghệ (mít thái) cao sản kết hợp chăn nuôi, thủy sản và công nghệ chế biến.
1. Thời vụ trồng:
Trồng vào đầu mùa mưa tháng 5 đến tháng 7 dương lịch. Nếu chủ động được nguồn nước tưới có thể trồng sớm hơn, thậm chí là có thể trồng quanh năm.
2. Quy hoạch:
- Đo đạt tổng thể, phân lô, xác định hướng trồng, phân tích các chỉ số lý hóa của đất ...
- Xây dựng cơ bản: văn phòng, nhà kho, nhà ở, hệ thống cấp thoát nước, đường đi nội bộ, chuồng trại và hồ ao ... Đây là công việc đòi hỏi phải được tính toán dự liệu trước vì sẽ ảnh hưởng thuận lợi hay khó khăn trong suốt quá trình đầu tư.
- Định vị hốc (hay mô) trồng bằng phương pháp thủ công hoặc máy.
- Tập kết nguyên vật liệu và vật tư, cây giống đủ và thuận lợi cho việc sửa soạn hốc (mô) và trồng sau đó.
3. Mật độ trồng:
- Trồng dầy: Cây cách cây 5m, hàng cách hàng 6m. Một ha trồng khoảng 300 cây (vì phải chừa đường đi nội bộ).
- Trồng thưa: Cây cách cây 6m hàng cách hàng 7m. Một ha trồng khoảng 210 cây.
- Đất cằn cỗi nên trồng dầy, đất tốt nên trồng thưa. Hiện nay, người ta có xu hướng trồng dầy để tăng sản lượng và rút ngắn thời gian hoàn vốn, sau đó áp dụng phương pháp tỉa cành hay đốn tỉa bớt.
4. Tiêu chuẩn cây trồng:
- Cây giống phải được chuẩn bị trước.
- Cây phải đảm bảo đúng giống và phải đủ tiêu chuẩn xuất vườn. Tiêu chuẩn cây Mít có đường kính gốc lớn hơn 0,8cm cao hơn 35cm (kể từ vết ghép. Bộ rễ phát triển mạnh.
- Lá đang giai đoạn già. Vết ghép tiếp hợp tốt. Trước khi đưa đi trồng 2 tuần lễ phải ngừng bón phân, giảm tưới nước và xịt thuốc sâu rầy và phòng chống nấm bệnh thật kỹ lưỡng.
5. Làm đất:
- Đất bằng phẳng phải xẻ mương rãnh sâu ít nhất 30 - 40cm (tùy nước thủy cấp ở từng nơi) để chống úng vào mùa mưa. Làm hốc sâu 40 x 40 x 40cm và đắp mô cao 40 - 70cm.
- Đất có độ dốc khoảng 5%, không cần đắp mô, chỉ cần làm hốc có kích thước 40 x 40 x 40cm.
- Độ dốc cao hơn 7%, làm hốc có kích thước 40 x 40cm và sâu 60cm.
- Mỗi hốc có thể trộn: 0,5kg vôi bột, 0,3kg phân super lân, 10kg phân chuồng hoặc xơ dừa, vỏ đậu, trấu mục...
II. Trồng:
* Đất bằng phẳng trồng trên mô cao từ 40 đến 70cm .
* Đất có độ dốc khoảng 5% thì trồng mặt bầu ngang bằng với mặt đất.
* Đất dốc hơn 7% thì trồng thấp hơn mặt đất từ 20-30cm. Đào lỗ sâu và to hơn bầu cây đôi chút.
* Dùng dao, kéo cắt đáy bầu và cắt bỏ đuôi chuột (rễ cọc) bị xoắn lại.
* Đặt bầu vào lỗ đã móc sẵn và rút nhẹ túi đựng bầu ra bỏ và lấp đất lại.
* Nếu đất khô phải tưới cho cây ngay, dùng rơm, rạ, cỏ rác... đậy xung quanh bầu để giữ ẩm.
* Cây cao, ốm yếu dùng cọc cắm cố định cho cây khỏi ngã đổ. Quy hoạch hợp lý, trồng đúng kỹ thuật là yếu tố căn bản để việc đầu tư trồng cây Mít nghệ-Mít không hạt- Mít thái cao sản thành công.
III. Kỹ thuật chăm sóc.
Để cây chóng ra hoa trái, năng suất cao, lâu bền và phẩm chất ngon, đáp ứng được nhu cầu thị trường. Khâu chăm sóc có phần quan trọng đặc biệt vì không chỉ áp dụng kỹ thuật đơn thuần mà còn phải vận dụng kinh nghiệm và sự nhạy bén trong việc dự báo thị trường.
Kỹ thuật chăm sóc Mít chia ra làm hai thời kỳ.
Thời kỳ xây dựng cơ bản khoảng 3 năm, đó là khoảng thời gian cây được trồng xong đến lúc cho trái ổn định.
Thời kỳ khai thác kinh tế từ năm thứ tư trở về sau. Đây là lúc cần nhiều kinh nghiệm để xử lý cho hoa trái và những dự báo về thị trường vì liên quan đến năng suất, chất lượng và tiêu thụ sản phẩm tươi cũng như đã qua chế biến.
1. Đậy gốc giữ ẩm: Khi trồng xong phải dùng các vật liệu sẵn có, rẻ tiền, để đậy phủ xung quanh gốc để che cỏ dại, chống xói mòn vào mùa mưa và giữ ẩm vào mùa khô.
2. Tưới tiêu nước: Tháng đầu sau khi trồng nếu khô hạn phải tưới thường xuyên 2-3 ngày/lần. Sau đó, có thể tưới 4-5 ngày/lần. Từ năm thứ hai về sau tưới cho cây vào giai đoạn mới bón phân và những tháng quá khô hạn.
- Mít rất sợ úng nên vào mùa mưa lũ, phải kiểm tra kênh mương cống rãnh và có kế hoạch chống úng.
3. Làm cỏ: Định kỳ làm cỏ xung quanh gốc. Cày xới chăm sóc mỗi năm 3 lần. Năm đầu tiên cày cách gốc 0,4m, năm thứ hai cách 0,6m. Ở vùng cao đầu và giữa mùa mưa cày ngang so với triền dốc, để hạn chế nước mưa cuốn trôi đất, cuối mưa nên cày xuôi theo triền dốc để trở đất. Từ năm thứ 3 chỉ làm cỏ xung quanh gốc hay cày chăm sóc theo hàng khi cần thiết. Nên giữ lại cỏ để giúp tạo nên vùng tiểu khí hậu ổn định và che chắn được bề mặt đất.
4. Cắt tỉa, tạo tán: - Giúp cây tăng trưởng cân đối, các cành cấp I (cành ngang) phân bố đều nhau, loại bỏ các cành sâu bệnh, cành già cỗi, mọc không đúng hướng, cành ăn hại. Việc tỉa cành nên tiến hành khi cây cao khoảng 1m trở lên, cây còn nhỏ tỉa cành tạo tán 2-3 lần/năm. Cây lớn mỗi năm một lần khi thu hoạch trái xong.
- Cách tỉa: Cắt bỏ các cành gần sát mặt đất, cành mọc song song theo trục thân chính, giữ lại các cành cấp 1 cách gốc khoảng 40cm trở lên chọn các cành mọc theo các hướng khác nhau, cành trên cách cành dưới khoảng 40-50cm, tạo thành tầng, mỗi tầng không quá 5 cành cấp 1. Tỉa bỏ bớt các cành cấp 2, cấp 3... cho cây vừa đẹp vừa thoáng. Tỉa cành là một trong những biện pháp nhằm tăng năng suất, phòng chống sâu bệnh hiệu quả và mang tính thẩm mỹ.
5. Bón phân:
a. Phân hữu cơ: Gồm các loại phân chuồng, phân xanh, phân rác, bả dừa hay trấu mục ủ hoai... dùng bón cho cây giúp tơi xốp đất, là môi trường tốt cho vi sinh vật có lợi hoạt động phân hủy vật chất hữu cơ tạo thành chất mùn cung cấp cho cây. Liều lượng: Ít nhiều tùy thuộc độ tuổi của cây. Cách bón : Phải đào sâu xung quanh hay một phần tán cây để bón. Chỉ tiêu Thời vụ bón Lượng phân Cách gốc Rãnh bón (sâu x rộng)
- Năm 1 Cuối mùa mưa 8kg 30cm 20cm x 20cm
- Năm 2 Đầu mùa mưa 15kg 80cm 25cm x 20cm
- Năm 3 Đầu mùa mưa 25kg Rìa tán cây 30cm x 25cm
- Năm 4 Thu hoạch xong 35kg Rìa tán cây 30cm x 25cm
- Năm 5 Thu hoạch xong 45kg Rìa tán cây 30cm x 25cm
b. Phân hóa học: Trước khi bón phân hóa học nên phân tích mẫu đất để quyết định lượng và loại phân phù hợp, đáp ứng đủ yêu cầu dinh dưỡng của cây...
Đất có độ phì nhiêu trung bình có thể bón theo tỷ lệ 2.2.1 trong thời gian xây dựng cơ bản. Tỷ lệ 2.3.3 + Lưu huỳnh (S), ở thời kỳ cho trái.
Ở vùng đất phù sa nhiều mùn bả hữu cơ có độ pH thấp phải bón nhiều Lân và Vôi, đất cát xám, đất gò đồi ở miền Đông cần nhiều Kali và Đạm.
- Bón phân NPK 16.16.8 (Tỷ lệ 2.2.1) trong thời kỳ xây dựng cơ bản. Đơn vị tính: Gram Lần bón: Thứ 1 Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4
+ Năm 1: 40 60 80 100
+ Năm 2: 120 140 160 180
- Bón phân tỷ lệ 2.3.3 có thể sử dụng 100Kg NPK 20.20 15.13 S + 60 kg Super lân + 30Kg K2SO4 liều lượng. Đơn vị tính: Gram. Lần bón Trước khi ra hoa/ Đậu trái được 30 ngày/ Đậu trái sau 75 ngày/ Thu hoạch xong:
+ Năm 3: 250 150 150 300
+ Năm 4: 350 200 200 400
+ Năm 5: 450 250 250 500
* Lưu ý: + Bón nhiều Lân và Đạm vào cuối thời kỳ cây nuôi trái.
+ Bón phân hóa học kết hợp với phân chuồng ở những giai đoạn tương ứng.
+ Quan tâm bổ sung cho cây, các loại phân trung lượng, vi lượng, bằng các chế phẩm có bán trên trị trường để giúp cây nhận được đầy đủ chất dinh dưỡng, nên kết hợp với những đợt xịt thuốc sâu rầy để cung cấp phân nuôi cây.
- Bón phân cho cây trước khi ra hoa cần dựa vào kinh nghiệm xử lý ra hoa và các dự báo về thị trường ở thời kỳ thu hoạch.
PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH GÂY HẠI:
A. Bệnh hại:
1. Bệnh thối nhủn: Cây con ở vườn ươm có độ ẩm cao, quá rậm rạp dễ bị bệnh và bệnh lây lan rất nhanh. Bệnh có thể do nấm Rizoctonia solani, Sclerotium, Pythium gây nên.
- Trên thân gốc và bề mặt vật liệu nuôi cây có nhiều hạch nấm tròn to, nhỏ dầy đặc và lây lan nhanh. Bệnh làm teo gốc, thân lá có đoạn tươi xanh và phần non chết gục như bị luộc trong nước nóng.
- Phòng bệnh:
+ Sử dụng phân oai mục.
+ Tạo thông thoáng, khô ráo và thoát nước tốt.
+ Xử lý nguyên vật liệu trong vườn ươm bằng các loại thuốc như Kitazin, Rovral, Ridomyl ...
- Trị bệnh:
+ Viben C 50 BTN, Bonanza 100 DD, Score 250 EC, Tilt 250 ND. 2. BỆNH THỐI GỐC CHẢY NHỰA: Bệnh xảy ra trên các vườn mít quá ẩm ướt và có nhiều loại sâu hại chích hút nhựa cây, gây những vết thương và là cơ hội tốt cho nấm Phytopthora xâm nhập. Bệnh thể hiện ở vùng gốc có nhiều vết loét, nước dịch từ bên trong chảy rỉ ra, vỏ vùng gốc bị thối từng mảng to, bề mặt lớp gỗ ẩm ướt và thâm đen. Lá vàng, rụng và cây chết. Thường khi phát hiện được thì bệnh ở tình trạng nặng, khó chữa trị. Cách phòng hữu hiệu nhất là trồng cây trên đất cao ráo, thoát nước tốt. Bảo vệ các thiên địch để hạn chế mật độ sâu rầy gây hại, khi cần thiết dùng các loại thuốc hóa học có tính chọn lọc để phun xịt như Ridomyl, Aliette.
B. Sâu rầy:
1. Sâu đục thân, đục cành: Có tên Margronia, thành trùng đẻ trứng trên lá non, trái non sau đó đục vào thân cành. Xịt thuốc trừ sâu vào giai đoạn ra lá non, trái non như Cyperan 5 EC, 10 EC, Decis 2,5EC, Bian 40-50 EC, Basudin 50 EC.
2. Ruồi đục trái: Do loài dacus sp, đẻ trứng vào trái già, gây thối nhũn trái. Dùng chất dẫn dụ sinh học để diệt ruồi đực. Bao bọc trái hay xịt thuốc diệt ruồi như trebon 10 Nd, decis 25 ec...
3. Sâu đục trái: Gây hại nặng trên mít làm giảm chất lượng và sản lượng. Thường ở các phần tiếp giáp các trái hay giữa trái tiếp giáp với thân, bị gây hại nặng nhất.Trái có thể bị hư hỏng hay bị rụng sớm. Không nên dùng biện pháp xử lý thuốc hóa học mà dùng biện pháp sinh học để phòng trừ sự gây hại hay bao trái vào cuối giai đoạn trái rụng sinh lý.
4. Ngài đục trái: Có nhiều loài gây hại khác nhau, chúng chích hút vào ban đêm ở giai đoạn trái chín. Cách phòng trị giống như sâu đục trái.
5. Rầy, rệp... Có rất nhiều loài gây hại trên mít, chúng chích hút nhựa lá non, đọt non, trái làm lá quăn queo, cây chậm lớn, trái dị hình và kèm theo là nấm đốm bồ hóng tấn công làm giảm khả năng quang hợp của cây và trái không đẹp. Khi trồng ở nơi cao ráo thường bị rệp sáp tấn công ở phần gốc và rễ. Dùng các loại thuốc hóa học sau đây để trị rầy rệp khi điều tra có mật số cao: Bassan 50 EC, Supracide 40 EC, Basudin 50 ec... Để bảo vệ tốt cây trồng nên áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp IPM+Thiết lập hệ thống canh tác hữu hiệu thường xuyên. Dùng biện pháp sinh học tăng cường thiên dịch, hạn chế dịch hại do sâu bệnh. Sử dụng thuốc hóa học khi cần thiết.
Xây dựng hệ thống dự báo sâu bệnh, thiên dịch, những điều kiện tự nhiên để có thể định hướng phù hợp tình hình sản xuất thực tế. So với các loại cây ăn trái khác Mít nghệ cao sản là cây dễ trồng, chịu hạn rất tốt, ít công chăm sóc, áp dụng quản lý dịch hại bằng phương pháp IPM tốt có thể không cần sử dụng thuốc Bảo vệ thực vật, cho có năng suất cao, chất lượng ngon, thích hợp ăn tươi, chế biến và làm thức căn cung cấp cho ngành chăn nuôi, thủy sản, sau cùng là thu được khối lượng gỗ lớn và quý có giá trị kinh tế cao.
Công nhân chăm sóc trực tiếp không bị tổn hại do nhiễm độc, người tiêu dùng không phải sợ bị ngộ độc do thuốc Bảo vệ thực vật tồn dư trong các sản phẩm. Mít là giống cây ăn trái duy nhất có thể đóng vai trò cây rừng đem lại hiệu quả kinh tế cao và lâu dài.