24/05/2018, 23:35

Điều kiện và khả năng đầu tư vào ngành Thuỷ Sản Việt Nam

Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho nhân loại, thuỷ sản cũng đóng góp đáng kể cho sự khởi động và tăng trưởng chung của nhiều nước. Từ năm 1950 trở lại đây lượng thuỷ sản được tiêu dùng cho đầu người trên thế ...

Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho nhân loại, thuỷ sản cũng đóng góp đáng kể cho sự khởi động và tăng trưởng chung của nhiều nước. Từ năm 1950 trở lại đây lượng thuỷ sản được tiêu dùng cho đầu người trên thế giới không ngừng được tăng lên đến nay đã lên tới khoảng 13,6 kg. Năm 1996 khoảng 90 triệu tấn thuỷ sản được nhân loại tiêu dùng, trong đó có 50 triệu tấn hải sản được khai thác, 7 triệu tấn thuỷ sản được khai thác từ nước ngọt và khoảng 30 triêu tấn thuỷ sản được nuôi trồng trong các mặt nước. Trong số thuỷ sản được tiêu dung trên thế giới năm 1995 có 44% được tiêu dùng ở các nước đang phát triển, 56% được tiêu dùng ở các nước phát triển. Một đặc điểm nổi bật từ năm 1980 trở lại đây là việc gia tăng lượng thuỷ sản ở các nước đang phát triển rất mạnh. Nếu những năm của thập kỷ 70 sản lượng thuỷ sản của các nước đang phát triển chỉ chiếm khoảng 50% thì nay nó đã chiếm trên 2/3. Đó là do một mặt có sự giảm sản lượng khai thác (hoặc tăng không đáng kể) của các nước phát triển ở châu Âu, Liên Xô cũ, Bắc Mỹ và Nhật, mặt khác có sự gia tăng chủ yếu về sản lượng thuỷ hải sản ở các nước đang phát triển đặc biệt là các nước châu Á. Khu vực Đông Nam Á và Nam Á là một trong những khu vực có nghề thuỷ sản lớn nhất thế giới, tổng sản lượng ở hai khu vực này năm 1994 là 19,5 triệu tấn chiếm 27,5% tổng sản lượng thuỷ sản toàn cầu.Tại khu vực này có khoảng 10 triệu người tham gia làm nghề cá và mức tiêu thụ cá trên đầu người cũng khá cao, nhất là đối với những nước vùng ven biển Đông Nam Á. Sản phẩm thuỷ sản của các nước Đông Nam Á đã tăng lên một cách nhanh chóng từ 8.576.000 tấn năm 1984 lên 13.357.000 năm 1996 và chiếm khoảng 11% tổng sản lượng trên toàn thế giới, trong đó sản lượng khai thác chiếm khoảng 1.200.000 tấn (1986). Khu vực này cũng là khu vực xuất khẩu thuỷ sản rất mạnh năm 1996 đã đạt 7.703 triệu USD chiếm 14,7% giá trị xuất khẩu thuỷ sản trên toàn thế giới. Bốn nước có sản lượng thuỷ sản lớn nhất khu vực là Inđônêxia, Philipin, Thái lan và Việt Nam.Hiện nay tại Việt Nam ước tính có khoảng 250 bạn hàng có quan hệ thương mại thuỷ sản. Về số lượng, tổng sản phẩm xuất khẩu năm 1990 là 49.332 tấn, năm 1995 lên 127.700 tấn năm 1996 lên 150.500 tấn. Tốc độ tăng bình quân giai đoạn 1990-1995 là 34%, giai đoạn 1996-1997 là 25%. Ngày 30/9/2000, kim nghạch xuất khẩu thuỷ sản tính từ đầu năm 2000 đã vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD. Đặc biệt trong hai năm 1999-2000, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã đạt thành tựu hết sức quan trọng. Tháng 11/1999, Uỷ ban liên minh châu Âu đã công nhận Việt Nam vào danh sách I các nước xuất khẩu thuỷ sản và tháng 4 năm 2000 lại công nhận Việt Nam vào danh sách I các nước xuất khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ vào EU; số doanh nghiệp Việt Nam được xuất khẩu vào thị trường này liên tục tăng lên, đến nay là 40 doanh nghiệp và gần đây là 10 doanh nghiệp nữa đạt tiêu chuẩn đã được Bộ Thuỷ Sản đề nghị EU công nhận. Xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ cũng tăng gấp hơn 2,5 lần trong một năm qua, đưa Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn thứ hai của nước ta, hiện nay Việt Nam là nước dẫn đầu xuất khẩu cá nước ngọt vào thị trường Mỹ.

Như vậy ngành Thuỷ Sản Việt Nam ngày càng có vai trò quan trọng trên trường quốc tế cũng như trong khu vực.

Đối với nền kinh tế Việt Nam ngành Thuỷ Sản là một ngành đóng vị trí hết sức quan trọng. Cá và các sản phẩm thuỷ sản là nguồn thực phẩm không thể thiếu được trong cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam, được chế biến dưới nhiều dạng, cung cấp hơn 30% lượng đạm động vật cho bữa ăn của người dân. Sản phẩm từ cá và hải sản đã góp phần đáng kể chống suy dinh dưỡng. Ở nhiều vùng ven biển nghề nuôi tôm cá và đặc sản quý hiếm đã góp phần giải quyết phần lớn lao động thừa ở nông thôn, cải thiện bộ mặt nông thôn miền biển, làm giàu cho đất nước. Kinh tế xã hội vùng ven biển, hải đảo nói chung và đời sống cư dân ngày càng được cải thiện.

Kim ngạch xuất khẩu năm 1998 chiếm 8,17% toàn quốc, đứng hàng thứ tư trong các mặt hàng thu nhiều ngoại tệ cho đất nước và chiếm 22,6% giá trị xuất khẩu của khối nông lâm ngư nghiệp. Các chỉ tiêu tương ứng năm 2000 dự kiến là 9,2% và 24,5%.

Thuỷ sản chỉ chiếm 12% giá trị gia tăng trong ngành nông lâm ngư nghiệp nhưng là mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao, lại có thị trường tiêu thụ nên đã góp phần đáng kể trong tổng giá trị xuất khẩu toàn quốc.

Những năm qua, ngành thuỷ sản có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 4,6 -5,5% về sản lượng; 22-25% về giá trị xuất khẩu. Xuất khẩu thuỷ sản đã trở thành động lực thúc đẩy đánh bắt nuôi trồng, chế biến và dịch vụ hậu cần của ngành.

Trong 10 năm qua, ngành thuỷ sản đã tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn các ngành khác trong khối nông lâm ngư nghiệp (thuỷ sản 1,95lần; nông nghiệp1,66 lần; lâm nghiệp 1,16 lần) nên đã góp phần đáng kể cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nông lâm ngư nghiệp. Tỷ trọng của thuỷ sản trong nông lâm ngư nghiệp ngày càng tăng, năm 1990 là 10% năm 2000 dự kiến là 14% và ước năm 2010 là 20%. GDP ngành thuỷ sản năm 2000 ước là 3% trong GDP toàn quốc.

Các điều kiện tự nhiên.

Bờ biển Việt Nam dài 3,260 km, với hơn 112 cửa sông lạch, tính trung bình cứ 110km2 diện tích tự nhiên có 1km bờ biển và gần 300km bờ biển có 1 cửa sông lạch. Diện tích vùng biển Việt Nam bao gồm: nội thuỷ, lãnh hải 226.000 km2 và vùng đặc quyền kinh tế khoảng trên 1 triệu km2. Có thể chia vùng biển Việt Nam thành 5 vùng nhỏ: Vịnh Bắc bộ, Vùng biển Trung bộ, Vùng biển Đông Nam bộ, Vùng biển Tây Nam bộ, Vùng giữa biển Đông (vùng biển này có thể khai thác cá ngừ đại dương, mực, cá nhám và các cá rạn san hô).

Các đặc điểm môi trường và tiềm năng nguồn lợi thuỷ sản.

Môi trường nước mặt xa bờ.

Bao gồm vùng nước ngoài khơi thuộc vùng đặc quyền kinh tế: vịnh Bắc bộ, Duyên hải Trung bộ, Đông Nam bộ, Tây Nam bộ và vịnh Thái Lan.

-Nguồn lợi đa loài, nhiều cá tạp không có chất lượng cao.

-Nhìn chung nguồn lợi mang tính phân tán, quần tụ đàn nhỏ nên khó tổ chức khai thác công nghiệp cho hiệu quả kinh tế cao. Thêm vào đó điều kiện khí hậu thuỷ văn của vùng biển lại rất khắc nghiệt, nhiều giông bão làm quá trình khai thác có nhiều rủi ro.

Môi trường nước mặn gần bờ.

Là vùng sinh thái quan trọng nhất đối với các loài thuỷ sinh vật vì nó nguồn thức ăn cao nhất do có các cửa sông lạch đem phù sa và các loại chất vô cơ cũng như hữu cơ làm thức ăn rất tốt cho các loài sinh vật bậc thấp và các loài sinh vật bậc thấp này đến lượt mình lại trở thành thức ăn cho tôm cá. Vì vậy mà vùng này là bãi sinh sản, cư trú của nhiều loài thuỷ sản

Môi trường nước lợ.

Bao gồm vùng nước cửa sông, ven biển, vùng rừng ngập mặn, đầm, phá, nơi đây có sự pha trộn giữa nước ngọt và nước biển. Do được hình thành từ hai nguồn nước nên diện tích vùng nước lợ phụ thuộc vào mùa và thuỷ triều. Đây là vùng giàu chất dinh dưỡng do động thực vật thuỷ sinh có khả năng thích nghi với điều kiện nồng độ muối luôn thay đổi. Là nơi cư trú, sinh sản và sinh trưởng của tôm he, tôm nương, tôm rảo, tôm vàng, cá đối, cá vược, cá tráp, cá trai, cá bớp, cua biển.

Tổng diện tích các mặt nước lợ khoảng 619.000 ha. Đây là môi trường cho nhiều loài thuỷ sản có giá trị như tôm rong câu các loài cua, cá mặn lợ. Đặc biệt là rừng ngập mặn là bộ phận quan trọng của vùng sinh thái nước lợ.

Môi trường nước ngọt.

Nước ta có những thuỷ vực tự nhiên rất rộng lớn thuộc hệ thống sông ngòi, kênh, rạch chằng chịt, hệ thống hồ chứa tự nhiên và hồ chứa nhân tạo, hệ thống ao đầm nhỏ và ruộng trũng. Khí hậu nhiệt đới mưa nhiều luôn bổ sung nguồn nước cho các thuỷ vực. Khí hậu ấm áp làm cho các giống loài sinh vật có thể phát triển quanh năm trong cả nước. Tuy nhiên cho đến nay chỉ có diện tích các ao hồ nhỏ đã phát triển nuôi theo VAC được trên 80%, còn các mặt nước lớn tự nhiên và nhân tạo, các vùng đất ngập nước, ruộng trũng mới được sử dụng rất ít.

Khả năng về vốn, công nghệ, nhân lực và thị trường.

Ngoài khả năng rất ưu đãi về điều kiện tự nhiên, đặc chưng của ngành thuỷ sản thì ngành còn có khả năng về vốn, công nghệ và thị trường. Tuy nhiên những khả năng này thuộc về chủ quan của con người nên có phần hạn chế. Xét về vốn, nhận thấy rõ tiềm lợi của thuỷ sản hàng năm tổng lượng vốn dầu tư vào ngành tương đối lớn, thơid kì 1991-1995 tổng vốn đầu tư là 2.829.340 triệu đồng, thời kỳ 1996-1999 xấp xỉ 6.300.000 triệu đồng và ước 1996-2000 là gần 9 tỷ đồng, trong đó vốn trong nước vẫn chiếm chủ yếu , và một điểm nổi bật là vốn đầu tư của dân chiếm tỷ trọng 18,53% tổng vốn đầu tư.

Xét về công nghệ, nhiều đề tài khoa học cấp Nhà nước và cấp ngành đã thực sự đi vào phục vụ ba chương trình kinh tế của ngành. Hoạt động khoa học công nghệ đã tập trung vào nghiên cứu giải quyết các vấn đề tác động qua lại giữa môi trường với nuôi trồng thuỷ sản...Trong khai thác hải sản đã chuyển giao công nghệ đóng sửa tầu thuyền trọng tải và công suất lớn cho khai thác xa bờ, trong nuôi trồng thuỷ sản đã áp dụng các tién bộ khoa học trong lai tạo, sản xuất giống nhân tạo và sản xuất các loài cá. Trong công nghiệp chế biến thuỷ sản đã tiến hành nâng cấp được 60/200 nhà máy ché biến thuỷ sản đạt tiêu chuẩn xuất khảu thuỷ sản vào các nước EU. Các công nghệ chế biến sản phẩm có giá trị gia tăng đã được áp dụng vào sản xuất ở các xí nghiệp, góp phần đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng thị trường xuất khẩu vào EU...

Về thị trường và hợp tác quốc tế, ngành thuỷ sản Việt Nam đã từng bước chiếm lĩnh được các thị trường lớn như Nhật, Mỹ, EU gần đây là Trung Quốc và một số nước châu Á khác, trong tương lai Nhật và Mỹ vẫn là hai thị trường lớn và có nhu cầu ngày càng tăng. Hoạt động đối ngoại của ngành trong 5 năm qua đã được mở rộng, tập trung voà việc chuẩn bị các điều kiện cần và đủ đẻ hội nhập vào khu vực và quốc tế. Hợp tác được mở rộng với các tổ chức đa phương, song phương các tổ chức phi hính phủ, các hiệp hội quốc tế...

Tóm lại, nằm trong vùng nhiệt đới, Việt Nam có nhiều loài thuỷ sản quý hiếm, có thể nuôi trồng được nhiều loài có giá trị kinh tế cao, hơn nữa với vị trí địa lý nằm gần những thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn, có khả năng giao lưu hàng hoá bằng đường bộ đường thuỷ, đường không đều rất thuận lợi tạo cho ngành kinh tế thuỷ sản Việt Nam, hơn nữa với sự nỗ lực của toàn ngành các điều kiện thuận lợi về vốn, công nghệ và thị trường ngày cang trở thành thế mạnh tạo cho ngành Thuỷ sản Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển nhanh và bền vững.

0