23/05/2018, 15:00

Đặc điểm lợn rừng Việt Nam

Đặc điểm ngoại hình Đặc điểm chung Khi ra khỏi cơ thể mẹ, lợn con đã có phản xạ đứng dậy ngay. Trong thời gian 2 – 4 phút lợn con tự tìm đến vú mẹ và có phản xạ bú ngay: động tác bú mẹ là vừa bú vừa thúc vú. Trong quá trình tìm vú và tranh bú thường những con có khối lượng lớn (khỏe) sẽ tranh ...

Đặc điểm ngoại hình

Đặc điểm chung

Khi ra khỏi cơ thể mẹ, lợn con đã có phản xạ đứng dậy ngay. Trong thời gian 2 – 4 phút lợn con tự tìm đến vú mẹ và có phản xạ bú ngay: động tác bú mẹ là vừa bú vừa thúc vú. Trong quá trình tìm vú và tranh bú thường những con có khối lượng lớn (khỏe) sẽ tranh bú ở những vú phía trước, còn con nhỏ thường phải bú vú sau cùng. Con sinh ra đầu tiên thường là những con có khối lượng sơ sinh nhỏ nhất trong đàn. Sau khi bú sữa đầu, lợn con thường tìm chỗ kín và ấm để nằm và thường nằm chung, tụm vào một nơi. Về mùa lạnh lợn thường chui vào rác hoặc vật khác miễn là phủ kín mình và nằm thành “đống”. Khi có tiếng động hoặc tiếng khua mạnh thì lợn con phản xạ rất nhanh phát ra tiếng kêu đồng thanh, chạy nhanh về phía mẹ và tập trung thành cụm. Đặc biệt khi thấy con vật lạ thì lợn con thường quay đầu ra phía trước để quan sát và phòng thủ tự vệ “tập thể” Lợn rừng Việt NamLợn rừng Việt Nam

Màu lông

Lợn rừng có màu lông không đồng nhất trên cơ thể, nó được phân chia theo từng vùng khác nhau và thay đổi theo tháng tuổi, đặc biệt giai đoạn nhỏ khác hoàn toàn với giai đoạn trưởng thành. Giai đoạn nhỏ: toàn thân có nhiều màu vàng thâm, đen, bạc, hung như màu lá rụng (lá vàng,đen, khô, thâm).

+ Màu lông sơ sinh

Hai bên mình cách dọc sống lưng 1 – 1,5cm là sọc đầu tiên chạy liên tục từ phía sau mông cho tới sau hốc tai. Mỗi bên bao gồm 6 sọc: 3 sọc đậm thường là màu vàng sọc dưa bở và 3 sọc màu nâu đen. Hai bên đối xứng nhau, riêng 2 sọc đối xứng gần sống lưng là sọc liên tục còn lại là sọc ngắt quãng làm 2 hoặc 4 đoạn có xen kẽ. Phần dưới bụng là màu trắng bạc. Các sọc này đậm nét từ ngày thứ 10 đến ngày thứ 60, từ ngày 61 trở đi bắt đầu chuyển màu nhạt dần cho tới khi được 4 tháng và trở thành màu hung bạc hoặc nâu đen từ tháng thứ 6 – 7. Lợn rừng sơ sinh, trưởng thànhLợn rừng sơ sinh, trưởng thành

+ Màu lông giai đoạn trưởng thành

Hai bên má màu bạc, vùng bụng màu trắng đục, còn lại toàn thân màu nâu hung hoặc đen hung. Lông dựng đứng, chĩa ra và cứng (Trong trường hợp màu nâu hung hoặc màu vàng cháy lông dày, mượt là lợn mọi hoặc lợn Ba Xuyên Việt Nam hoặc lợn mọi của đồng bào dân tộc Mèo), Thái Lan nuôi ở phía Bắc, loại lợn này cũng có lông chụm 3 ở phía lưng, có khác nhau giữa lợn rừng Việt Nam và lợn Rừng Thái Lan. Khi trưởng thành toàn thân lợn được chia làm 3 loại màu đặc trưng đó là loại nâu hung, loại đen và loại xám đen ở cả hai giống Việt và Thái. Lợn rừng trưởng thành

+ Cách bố trí và phân vùng lông

Lông được bố trí thành cụm chụm 3 lông thành cụm hình tam giác đều: Vùng gáy và chạy dọc sống lưng tới nửa lưng là lông cứng, chân lông to và tốt tạo thành dọc lông Bờm. Vùng lông này thường dựng đứng khi có phản xạ tự vệ hoặc khi thực hiện phản xạ giao phối. Còn lại là lông nhỏ và mịn hơn đối với các vùng gần bụng (giao đoạn nhỏ). Càng lớn lên thì lông càng phát triển. Lông bờmLông bờm

+ Mật độ lông

Lợn rừng Việt Nam có bộ lông dài, rậm hơn và cứng, đối với màu sắc thì lợn rừng Việt Nam màu sắc đậm và rõ nét. Khi trưởng thành toàn thân lợn được chia làm 3 loại màu đặc trưng đó là loại nâu hung, loại đen và loại xám đen.

Màu lông loại đen và xám đenMàu lông loại đen và xám đen

Phần đầu

Đầu dài, thon, mõm dài hơn lợn nhà (đối với lợn đưa từ rừng về thường là mõm dài). Má gọn, không phệ. Đặc biệt màu lông phần đầu đều là một màu bạc hoặc màu đen sáng, hai bên má là hoàn toàn màu bạc má (chiếm 86% – 88% trong tổng số lông má). Lợn rừng Việt Nam đầu dài, mõm dài, thon, gọn.

Răng: Hàm răng dưới bố trí 4: 4: 4 (bốn răng cửa, 4 răng nanh và 4 răng hàm). Răng hàm trên: 2: 4: 4 (hai răng cửa, 4 răng nanh và 4 răng hàm) Răng nanh hàm trên phát triển hơn 2 răng nanh hàm dưới và chìa ra ngoài, 4 răng cửa trước dưới và 2 răng cửa trước trên chụm thành hình máng nhọn chìa ra phía trước như hình mũi tên.

Tai: Tai nhỏ, mỏng, đứng, hướng về phía trước, không cụp như lợn nhà, phù hợp với phát hiện tiếng động từ xa. Đối với lợn rừng Việt Nam tai nhỏ đứng.

Mắt: có 2 mắt tròn, màu nâu, hàng mi trên phát triển hơn hàng mi dưới, tuyến lệ phát triển bình thường, phản xạ mắt ban đêm nhanh hơn ban ngày.

Phần mình: Mình thon hình trụ, bụng gọn đặc biệt là lợn đực. Ở con lai hoặc lợn địa phương thì bụng xổ, da dày tích mỡ.

Chân: Lợn rừng 4 chân cao, 2 chân sau dài hơn 2 chân trước tạo thành thế lao người về phía trước, phù hợp với điều kiện phòng vệ bỏ chạy trốn khi nghe, hoặc phát hiện ra một động thái nào cho dù đó là âm thanh hay tiếng động đó là lành hay dữ. Bốn móng bao gồm 2 móng treo trên thường kém phát triển, 2 móng tiếp giáp đất chụm, nhọn, màu đen chắc: Tạo bước đi nhẹ nhàng, tránh tiếng động và tiếp giáp chắc vào mặt đất, màu lông chân đen hung (một số con có móng và lông lang đen đó là con có máu lai với lợn nhà). Đối với lợn rừng Việt Nam: chân nhỏ, móng chụm và đen thẫm.

Vú: Lợn rừng Việt Nam có từ 8-12 vú: trong đó 97% là 10 vú, 2,5 % 12 vú, 0,2% có 8 vú và 0,3 % có từ 1-3 vú kẹ.

Đuôi: Lợn rừng có đuôi nhỏ vót hình đuôi chuột, có chùm lông hình dẻ quạt ở cuối đuôi như lợn nhà và đuôi kém phát triển hơn lợn nhà.

Tập tính và khả năng sản xuất

Tập tính đi lại: Lợn rừng con: từ 1-3 ngày tuổi lợn thích nằm chỗ kín và ấm (dù mùa hè thì lợn vẫn thích chui vào rác hoặc nơi có nhiệt độ cao), hầu hết thời gian dành riêng cho ngủ, ngoài thời gian bú mẹ. Từ ngày thứ 4 trở đi lợn thường chơi đùa ra nơi có ánh nắng, đặc biệt khi thời tiết nóng nực thì chúng thích vầy nơi có nước hoặc bùn. Đối với lợn trưởng thành thích cà người vào thân cây hoặc bờ tường, bờ rào và thích gặm vỏ thân cây (động tác mài răng nanh).  Tìm các vũng nước khi thời tiết nóngTìm các vũng nước khi thời tiết nóng Vầy bùn khi nóngVầy bùn khi nóng

Lợn rừng mẹ: Lợn rừng giống lợn nhà ở chỗ, sau khi ăn no đều nằm nghỉ sau đó mới dành thời gian cho nô đùa. Thời gian đi lại trong ngày nhiều hơn thời gian ngủ nghỉ, đặc biệt là lợn trưởng thành và lợn đực: Thời gian hoạt động nhiều nhất trong ngày vào lúc từ 7giờ30 đến 10giờ30, và từ 14giờ30 đến 17 giờ. Thời gian nghỉ, ngủ thường tập trung vào trưa từ 11giờ30 đến 13giờ30 và vào ban đêm.

Tìm kiếm thức ăn: Lợn rừng thích đào bới, tìm kiếm thức ăn trong lòng đất, thích ăn những thức ăn cứng như hạt, củ, quả, gặm thân các loại cây, đặc biệt là rất thích ăn mía, gốc cỏ voi non, thân cây ngô non, bèo tây, cây cỏ, rau các loại… Chúng thường ăn lai rai cả ngày, không ăn tập trung như lợn nhà và ăn khô không thích ăn nước (ăn riêng, uống riêng).

Tìm kiếm thức ănTìm kiếm thức ăn

Tập tính uống nước: Đối với lợn con chúng thích liếm láp những nơi có nước (chính lý do này mà thời kỳ bú sữa mẹ hay mắc chứng ỉa chảy). Lợn choai và lợn trưởng thành chúng đều thích uống nước tự do, chúng không thích uống nước vòi, nhưng khi đưa vòi vào thì chúng cũng rất nhanh thích nghi vì phù hợp với tính tò mò của chúng.

Tập tính bầy đàn: Đặc điểm chung của lợn con, lợn trưởng thành là chúng rất thích sống theo bầy đàn đông. Đến thời kỳ sinh sản thì tính gia đình được bảo thủ cao. Trong trường hợp nếu một con đẻ trong bầy đàn thì lập tức bị bầy đàn cắn chết ngay. Vì vậy, khi đến ngày sinh con thì lợn mẹ thường tách đàn để đi làm ổ đẻ nơi khác, trong trường hợp đàn đông thì chúng thường tách xa đàn để đi làm ổ đẻ và khi con lớn mới tham gia nhập đàn, nhằm bảo toàn cho con của chúng. Trong trường hợp hai ổ đẻ gần nhau nếu con của con nó sang ổ của con kia lập tức bị mẹ con khác tấn công ngay.

Sở thích: lợn rừng thích đùa nghịch, thích tắm vũng bùn hơn vũng nước, thích ăn những thứ cứng như củ, hạt.

Tập tính tự vệ: Đối với Lợn rừng mới nhập từ rừng hoang dã về thì tính tự vệ rất cao.Trong trường hợp có từ 2 con trở lên sống chung trong chuồng, khi có người vào hoặc đối thủ khác đến gần thì chúng túm tụm lại với nhau và hướng đầu ra phía đối phương để phòng vệ, còn trong trường hợp một mình thì phản xạ đầu tiên là tấn công thẳng vào đối phương để phòng vệ. Đặc biệt khi một con trong đàn nhận được tín hiệu lạ từ bên ngoài thì nó kêu lên và cả đàn khi nhận được tín hiệu đó thì ngay lập tức cả đàn đều kêu và chạy loạn lên vì vậy rất khó cho kẻ thù có thể tấn công được chúng. Trong trường hợp, khi đi kiếm mồi hay kiếm thức ăn, nếu phát hiện người lạ đến thì chúng lập tức chạy trốn và dồn về một nơi.

Tính hoang dã được thể hiện ở chỗ khi đang thực hiện việc giao phối mà con đực khác đến, hoặc người đến làm ảnh đến quá trình giao phối của chúng thì ngay lập tức bị tấn công trở lại. Vì vậy trong quá trình chăn nuôi cần chú ý đến đặc tính này để đảm bảo an toàn trong quá trình lao động.

Tập tính thải phân và nước tiểu: Trong trường hợp nuôi nhốt hay thả rông trong khuôn viên rộng thì chúng đều có phản xạ là thải phân và nước tiểu nơi có nước hoặc một khu vực tương đối ổn định và phải là nơi ẩm ướt nhất khu vực, đặc điểm này giống lợn địa phương.

Tập tính ngủ, nghỉ: Chúng thường ngủ, nghỉ ở nơi ít người hoặc ít gia súc đi lại (nơi yên tĩnh) đặc biệt rất ít thấy lợn ngủ có tiếng gáy. Thời gian ngủ nghỉ thường tập trung vào thời gian trưa từ 11 giờ 30 đến 13 giờ 30 và vào ban đêm.

0