18/06/2018, 15:35

Cuộc tấn công phá hủy Baghdad của Hulagu và Tamerlane

quân mông cổ cướp phá thành Badadgh Tai họa của Chúa trời Một so sánh tổng thể vai trò của Hulagu và Tamerlane đối với lịch sử thành Baghdad tranh Ba tư thế kỷ 14 mô tả Mông cổ tấn công Baghdad vào năm 1258 Micheal Hancook Hà Khánh dịch Hai sự kiện hủy diệt ...

MONGOL SACK OF BAGHDAD

quân mông cổ cướp phá thành Badadgh

Tai họa của Chúa trời 

Một so sánh tổng thể vai trò của Hulagu và Tamerlane đối với lịch sử thành Baghdad

sack of baghdad

tranh Ba tư thế kỷ 14 mô tả Mông cổ tấn công Baghdad vào năm 1258

Micheal Hancook

Hà Khánh dịch

Hai sự kiện hủy diệt cùng xuất hiện trong lịch sử, nhưng mối liên kết giữa chúng với nhau trong thực tế là rất mong manh, đặc biệt là trong thời kỳ tiền hiện đại. Mỗi xã hội có thể xác định chính nó ít nhất một phần bằng cách đặt tên cho các lực lượng hủy diệt mà nó đối lập. Bài viết này sẽ tìm cách so sánh hai yếu tố như vậy, kết nối bởi các sự kiện hủy diệt to lớn, xảy ra tại cùng một địa điểm nhưng cách nhau hơn một thế kỷ, sự cướp phá thành Baghdad bởi Hãn Hulagu vào năm 1258 AD và Tamerlane trong năm 1401 AD (1). Bài viết dẫn ra một loạt các nguồn hiện đại còn tồn tại, cũng như những dữ kiện lịch sử xảy ra tiếp theo và các bình luận về các nguồn ấy cùng nhiều cách diễn giải hiện đại. Sự diễn giải của các nguồn dữ liệu cho thấy tinh thần quốc gia Ả Rập (2) và phái  Sunni luôn đấu tranh chống lại phái Shiah, và trào lưu này có thể đã đóng một số vai trò quan trọng trong sự hình thành lịch sử, cụ thể là bởi vì cuộc tấn công của Hulagu đã được định nghĩa lại như là một sự phá hủy nền văn hóa Ả Rập và thậm chí là một hành động “trả thù”chống lại đế chế Ả Rập hùng mạnh (3), trong khi hành động dữ dội tương tự của Tamerlane hiếm khi được sự quan tâm đúng mực.

Sự kiện cướp phá Baghdad mang lại cho cả Hulagu và  Tamerlane danh hiệu “Tai họa của Thiên Chúa (4), mặc dù lịch sử cho thấy rằng  danh tiếng của Hulagu đã bị ghi dấu nhiều hơn, đóng vai trò như vật tế thần cho thất bại sau này của đế chế Hồi giáo. (5) Danh tiếng của  Tamerlane dao động theo thời gian trong từng miền địa phương khác nhau, vừa bị khinh miệt bởi các nước láng giềng cùng thời với ông và rồi lại được ca ngợi ở châu Âu như là một vị cứu tinh có thể xuất hiện, thậm chí được bất tử hóa trong văn xuôi, các bài hát, và trên sân khấu (6). Tamerlane, không giống như Hulagu, gần đây đã được tái tạo trong các hình thức của một anh hùng của quốc gia Uzbek (7 ) để sử dụng bởi các tầng lớp cầm quyền của nước Uzbekistan mới độc lập. Bài viết này sẽ khám phá chân dung của cả hai kẻ chinh phục, lần lượt theo thứ tự thời gian.

Những tên gọi và các danh hiệu đã xuất hiện trong suốt lịch sử phải được gắn kết lại với các dân tộc và thể chế khác nhau. Một trong những danh hiệu như vậy là “tai họa của Thiên Chúa.” Thuật ngữ nổi tiếng này lần đầu tiên được áp dụng bởi những người La Mã (flagellum dei) để đặt tên cho một thủ lãnh của dân du mục xâm lược đến từ các thảo nguyên của đại lục Á-Âu, Attila người Hun. Do bản chất của chiến tranh thảo nguyên và sự tương đồng trong văn hóa du mục theo thời gian, chúng ta nên xem xét sơ qua về người Hun trước khi xét đến người Mông Cổ hoặc Timurid. Người Hun, giống như người Mông Cổ và Timurid sau này, đều có niềm đam mê đặc biệt đối với ngựa, và theo các nguồn lịch sử như Howarth đề cập rằng “trẻ em Hun học cưỡi ngựa hầu như ngay khi chúng biết đi” (8). Người Huns là dân tộc thực hành chiến thuật kỵ binh để chống lại những đội quân bộ binh và sự phòng thủ tĩnh, tập trung vào đánh phá cướp bóc để trả lương quân đội và thưởng cho các sĩ quan trung thành. Cũng tương tự như trường hợp của người Mông Cổ và Timurid, cuộc xâm lược của họ được  xem như là một sự trừng phạt đối với  nhà cầm quyền yếu kém. Một “tai họa của Thiên Chúa (9)” là công cụ trừng phạt của Thiên Chúa để nhận lấy sự chuộc lỗi. Có thể rằng chính  Temujin (Thành Cát Tư Hãn) về sau cũng tự tuyên bố danh hiệu trên cho mình khi ông ta phá hủy thành Bukhara, dựa theo truyền thuyết còn lưu lại trong người dân Uzbekistan (10).

Hulagu Khan

Hãn Hulagu 

Hulagu là con trai của hãn Tolui, con trai trẻ nhất của Temujin. Mẹ của Hulagu là người vợ theo Ki tô giáo nhánh Nestorian của Hãn Tolui tên là Sorghaghtani Beki (11).Vợ yêu của Hulagu cũng là  một Kitô hữu, mặc dù Tôn giáo của ông vẫn đang được tranh luận giữa các nguồn Armenia, Ba Tư, và Mông Cổ. Các chính sách bao dung đối với nhiều tôn giáo khác nhau thuộc Mông Cổ cai trị có thể được truy nguồn từ những thành kiến tôn giáo hỗn tạp và đức tin của chính Hulagu. Anh trai Hulagu  bao gồm Mongke và Hốt Tất Liệt, hai Khả hãn vĩ đại thứ tư và thứ năm của phương Đông. Chính Mongke là người đã ra lệnh cho Hulagu thực hiện mong muốn của  Temujin thiết lập đế quốc ở Trung Đông. Yêu cầu đó được miêu tả cụ thể trong sách của Rashid ad-Din “tiêu diệt pháo đài của phái Ismaili (phái Assassin), khuất phục Caliph dưới sự thống trị của người Mông Cổ và luôn hỏi ý Doquz Khatun (vợ ông ta) để được tư vấn (12)”.

Hulagu xuất phát từ Karakorum vào năm 1253 với người vợ của mình và lính hộ vệ cá nhân, quân đội của ông đã được chuẩn bị từ năm 1252. Kích thước đội quân của Hulagu đã được thảo luận từ nhiều nguồn khác nhau, Hulagu được cho rằng đã huy động một phần năm  đàn ông Mông Cổ vào quân đội của ông. Dẫu đó có là lực lượng lớn nhất mà Mông Cổ từng triệu tập hay không thì nó cũng xuất hiện như là đạo quân lớn nhất trong lịch sử Ả Rập. Đương nhiên, con số thực tế của đạo quân này chỉ mang tính ước lượng. Nhiều đơn vị được gia nhập vào đội quân của Hulagu trên đường hành quân từ Mông Cổ đến Baghdad và có những thương vong phát sinh sau khi chạm trán với phái Ismaili, binh lính cũng đã được ép bổ sung từ các khu vực mới được chinh phục. Người Mông Cổ sắp xếp lực lượng của họ theo hệ thập phân, và Amitai-Preiss chỉ ra con số tổng cộng vào khoảng từ “15-17 tumen” (1 tumen là 10.000 lính, tương đương 150-170,000 quân Mông Cổ và Thổ cùng một số nhỏ hơn một chút lính phụ trợ địa phương được thêm vào, tổng cộng khoảng 300.000 quân … (13)”. Hulagu hành quân tiến tới Baghdad theo kế hoạch cẩn thận và không vội vã. Nhờ sự vượt trội về quân số và thiết bị bao vây, thủ phủ của phái Assassin là pháo đài Alamut thất thủ vào năm 1256 với mất mát tối thiểu về phía quân Mông Cổ.

Nhiều sử liệu hiện đại của các nước Ả Rập không đề cập hay thậm chí lướt qua về bối cảnh nền tảng cuộc xâm lược Baghdad của Hulahu và âm mưu diễn ra sau thất bại của phái Ismaili. Hulagu, với  hỗ trợ của cố vấn Ba Tư Juvayni của mình, ý thức rằng các Caliph ở Baghdad cũng xem phái Ismailis Shiite là một kẻ thù nguy hiểm, và Hulagu đã gửi sứ giả yêu cầu các Caliph phải phục tòng và liên minh, các Caliph cũng biết về nhà lãnh đạo Mông Cổ Mongke phát âm thành khutba. Vị Caliph từ chối, thay vào đó nhắc nhở Hulagu rằng Baghdad chưa từng rơi vào tay quân đội ngoại đạo nào. Thái độ này còn hơn sự tò mò, thông qua những phái đoàn từng đi lại trong quá khứ giữa hai quốc gia, bắt đầu từ 1246, để đối phó với lời lẽ đe dọa đầy khoa trương của vị Khan. (14)

Baghdad vào thời điểm của cuộc chinh phục Mông Cổ là một cái bóng nhợt nhạt của vinh quang cũ của nó ở đỉnh cao của thời đại các Caliphate nhà Abbasid. Nạn cướp bóc và bạo loạn xảy ra phổ biến trên đường phố, được làm trầm trọng thêm bởi bạo lực sắc tộc giữa người Sunni và Shiah, người Do Thái và Kitô giáo, trong khi chính phủ suy yếu phải vật lộn để duy trì trật tự. Duri mô tả thậm chí năm mươi năm trước cuộc bao vây Baghdad rằng “Ibn Jubayr … vào năm 1185 … nhận thấy sự suy thoái toàn diện và đã chỉ trích sự kiêu ngạo của người dân thành phố (15)”. Trong những năm cuối của thời kì Caliphate, Baghdad là một thành phố với cơ sở hạ tầng bị bỏ quên, nông nghiệp phá sản, và hầu như không có khả năng  bảo vệ chính nó (16). Ngày 29 Tháng 1 năm 1258, lực lượng Mông Cổ dưới quyền Hulagu  bao vây thành phố và bắt đầu tấn công. Ngày 04 tháng 2, các bức tường bên ngoài bị phá vỡ, và ngày 10 tháng 2 vận mạng thành phố phụ thuộc hoàn toàn vào lòng nhân từ của Hulagu. Theo nguồn sử liệu Ả Rập, Hulagu đã không có lòng thương xót.(17) Theo Bách khoa toàn thư Hồi giáo, “Ước tính số lượng bị giết dao động khác nhau từ 800.000 đến 2.000.000, ước tính thay đổi theo thời gian (18)”. Tuy nhiên, theo nguồn sử liệu Mông Cổ, vốn có lịch sử nhấn mạnh đến tổn thất sinh mạng trong chiến tranh nhằm phục cho mục đích tuyên truyền riêng của họ, nói rằng chỉ vài chục ngàn người bị giết.

MONGOL SACK OF BAGHDAD

quân mông cổ cướp phá thành Baghdad

Sự khác biệt tiếp tục, như Rashid ad-Din chỉ ra  rằng, sau khi lấy thành phố, Hulagu tuyên bố rằng “… hứa sẽ tha cho các học giả uyên bác của Thiên Chúa, các tu sĩ, những hậu duệ của Ali, các thương gia, và tất cả những người đã không cầm vũ khí chống lại ông (20)”. Những thương gia đã được đối xử đặc biệt theo Bách khoa toàn thư Iran “đối với các thương nhân những người đã từng du hành đến Khorasan và có các quan hệ với các nhà lãnh đạo Mông Cổ … Sau khi thành phố thất thủ, những thương gia này trình diện trước các chỉ huy Mông cổ, khẩn nài họ chỉ định lính để bảo vệ ngôi nhà của họ … và cả những người đã chạy tị nạn đến chỗ của họ (21)”. Le Strange cho rằng đó bởi vì sự phản bội của những người Shiah tại các khu vực khác nhau của thành phố đã hỗ trợ người Mông Cổ chiếm được thành phố (22), nhưng lại bỏ qua về cuộc thảm sát người Shiah trong những năm trước cuộc xâm lược. Rõ ràng, người Mông Cổ đã tấn công một thành phố đã bị phân rẽ sâu sắc, và một số người Shiaah đã tìm đến người Mông Cổ như là một sự giải thoát, cũng như dưới sự cai trị của các Hãn sau đó cho thấy thấy sự suy giảm ảnh hưởng của văn hóa Ả Rập và sự gia tăng của ảnh hưởng Ba Tư. Baghdad chịu tổn thất trong cuộc chinh phục Mông Cổ, và mặc dù các giáo đường Sunni đã bị phá hủy, các nhà thờ Cơ đốc đã được tha và một Giáo đường mới được lệnh xây dựng, và ủy ban Ulama của thành phố đã ban hành một sắc lệnh Fatwa nói rằng”một kafir công bằng là tốt hơn so với một lãnh tụ Hồi giáo bất công (23).”  Hulagu rời Baghdad ngay sau đó nhưng trước khi rời đi đã ra lệnh phục hồi nhiều trung tâm công cộng đổ nát dưới triều Abbasid và mở cửa trở lại vài Ribat cho phái Sufi và các trường học bên ngoài thành phố.

timur lane

tranh vẽ Tamerlane

Nguồn gốc của Tamerlane là có lẽ gây bối rối nhất trong số những kẻ chinh phục vĩ đại đến từ  thảo nguyên. Ông được xem như là người Uzbekistan, Mông Cổ, Tatar, Turk, Turko-Mông Cổ, Uzbek-Mông Cổ (24), và là một thủ lãnh Thổ của triều Chaghatayid. Lí lịch không rõ ràng của ông là điều hiển nhiên. Được biết đến trong lịch sử về sau như là Timur bin Targhay Barlas, theo những gì được biết thì ông là con trai của một thủ lĩnh nhỏ, nói tiếng Chaghatay, một ngôn ngữ Thổ được dùng bởi những hậu duệ của Temujin cai trị vùng  Trung Á. Như vậy, Tamerlane không phải là thành viên của tầng lớp quý tộc Mông Cổ, mà là một người chăn gia súc bán du mục sinh ra ở thành phố Kesh, gần Samarkand. Tương tự như Hulagu, định hướng tôn giáo của ông ta dường như rất cơ hội, và đức tin của ông thường được gán định khác nhau bởi các sử gia về sau. Như Lamb nói, “thông qua những hành động  của mình” Tamerlane không phải là một người Hồi giáo mộ đạo: ông không bao giờ lấy một tên Hồi giáo, thường đối xử với dân Kitô giáo giống như dân Hồi giáo tại các thành phố mà ông chinh phục (25), và luôn cố gắng để đạt tới tầm vóc của những nhà chinh phục vĩ đại trước đó đã từng chinh phục Trung Á như Alexander Đại đế và Temujin (26). Không giống như Hulagu, ông là người tạo ra định mệnh cho chính mình, và lấy Baghdad làm mục tiêu  để thực hiện tham vọng của mình chứ không phải là một bổn phận.

Cũng không giống như Hulagu, Tamerlane đã chiếm giữ Baghdad hai lần. Cuộc chinh phục ban đầu là sự chuyển giao quyền lực không đổ máu. Năm 1393, danh tiếng của Tamerlane khiến  Sultan Ahmad của Baghdad chạy trốn ngay khi nghe những tin tức đầu tiên về sự tiếp cận thành phố của đạo quân của ông. Baghdad giao nộp cho Tamerlane, người tuyên bố đến như là một “sự giải phóng” theo lời mời của các trưởng lão của thành phố, giải cứu thành phố khỏi sự cai trị độc tài của Sultan Ahmad. Tamerlane ăn mừng việc chiếm đóng trong vài tuần, thu thập tiền chuộc từ các công dân đổi lấy sự chuộc mạng. Vị Sultan hầu như chỉ kịp trốn thoát để giữ mạng, chạy trốn qua sa mạc Syria tới Damascus. Trong thời gian tẩu thoát, ông này suýt nữa thì bị bắt bởi quân đội Tamerlane, bỏ lại vợ và con trai bị bắt đưa trở lại nộp cho Tamerlane ở Baghdad. Vợ và con trai của Sultan cùng với  các nghệ nhân và kho tàng của thành phố đã được mang trở lại Samarkand để làm phong phú thêm tài sản vốn có của Tamerlane (27). Hookham mô tả rằn sự tàn phá trước đó của Baghdad đã làm hỏng danh tiếng của thành phố như là một trung tâm của nền văn hóa Ả Rập, nhưng các thương nhân Ba Tư vẫn được hưởng lợi từ vị trí của nó tại ngã tư thương mại giữa Khorasan và phương Tây, cũng như là đầu nối của các tuyến đường hành hương về phía nam (28).  

Các học giả về lịch sử Trung Á khi so sánh chiến dịch của người Mông Cổ và Tamerlane đã chỉ một ví dụ tuyệt vời về điểm khác biệt trong chiến lược của họ. Temujin và những người thừa kế của ông thường hành động nhanh chóng, khiến những thành phố có thể bị chinh phục một cách bất ngờ. Điều này khiến các nhà lãnh đạo trong thành phố thường bị người Mông Cổ bắt giữ hay hành quyết. Tamerlane thì thường không cẩn thận trong các chiến dịch của mình, và nhiều lần buộc phải quay lại những thị trấn mà ông từng chiếm đóng.

Một trường hợp như vậy là với Baghdad. Một năm sau khi Baghdad bị chinh phục bởi Tamerlane, Sultan Ahmad trở lại, được hộ tống bởi đồng minh mới của mình, quân đội Mamluk của Ai Cập. Sultan Ahmad đã được đưa về phục vụ như là một thống đốc khu vực, phục tùng vương triều Ai Cập nhưng độc lập trên danh nghĩa, với một ít  hỗ trợ về quân sự. Có thể nói rằng Tamerlane đã không tấn công Baghdad để chiếm giữ, mà đã bỏ mặc nó với một chính quyền lỏng lẻo và như vậy đánh mất thành phố một thời gian ngắn sau khi đã “giải phóng” thành phố khỏi những công dân và tài sản có giá trị nhất. Tamerlane, tuy nhiên, rốt cuộc sẽ trở lại, và cuộc gặp gỡ thứ hai còn hơn là một thảm họa.

maluk ai cap

tranh vẽ một Mamluk Ai Cập của Georg Moritz Ebers (1878)

Trong tháng ba năm 1401, sau cướp phá Damascus, Tamerlane vượt qua sông Euphrates,  hướng tới Baghdad (29). Chiến dịch này là một phần trong nỗ lực phá vỡ sự liên minh của người Ottoman và Mamluk. Tamerlane đến nơi vào đầu mùa hè chỉ để thấy những cánh cổng của thành Baghdad đóng cửa với mình. Sultan Ahmad đã một lần nữa chạy trốn khỏi Baghdad, xin phụ thuộc vào đế quốc Ottoman dưới sự cai trị của Bayezid, và vị Sultan để lại một mệnh lệnh cho Faraj, chỉ huy phòng vệ của thành phố. Nếu Tamerlane đích thân mang quân đến thì Baghdad nên đầu hàng. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần là một đội quân nhỏ, thành phố phải tổ chức phòng thủ và gửi thư xin quân tiếp viện từ Ottoman để hỗ trợ.

Tamerlane xuất hiện trước thành phố và thấy cổng thành đóng im ỉm, và Faraj thông qua một sĩ quan đã từng trông thấy Tamerlane được xác minh rằng kẻ chinh phục đã trở lại Baghdad. Faraj hiểu rằng Tamerlane sẽ không tha mạng cho mình vì đã đóng cửa với ông ta đồng thời Faraj cho rằng nhiệt độ kinh khủng của mùa hè sẽ làm cho đội quân bao vây của Tamerlane khó chịu. Tuy nhiên, Tamerlane dự định chiếm đóng miền châu thổ Tigris và Baghdad là chìa khóa chính và vì thế ông ta thay đổi kế hoạch ban đầu của mình, thay vì chinh phục Ai Cập, cuộc bao vây Baghdad lại bắt đầu. Tamerlane lệnh cho con trai mình ở Tabriz đến Baghdad với mười sư đoàn thiện chiến cùng với các kỹ sư công thành.

Một cây cầu ghép bởi tàu thuyền được xây dựng bắt qua sông và thiết bị bao vây được đặt vào vị trí xung quanh các bức tường thành phố, trong khi lính cảm tử hạ các bức tường bên ngoài của thành phố trong vài ngày. Các tướng của Tamerlane đã yêu cầu một cuộc tổng tấn công vì sức nóng của mùa hè như Faraj đã dự kiến gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với binh lính (30). Theo các biên niên sử khác nhau, cuộc bao vây Baghdad kéo dài từ 10 đến 40 ngày, và đã kết thúc vào buổi trưa một ngày vào cuối tháng Sáu, 1401. Hầu hết quân đội, cũng như lính phòng vệ thành phố, thường ngủ thiếp dưới sức nóng ban ngày, và chỉ có một vài lính canh để lại trên các bức tường. Các bức tường đột nhiên bị tràn ngập bởi thang và cánh cổng bị phá vỡ và cuộc tàn sát xuất hiện sau đó với tỷ lệ khủng khiếp được đề cập đến trong hầu hết các biên niên sử (31). Faraj đã bị giết chết trong khi cố chạy trốn khỏi sự hủy diệt. Mỗi người lính được lệnh phải thu thập một cái đầu của người dân Baghdad (con số này là hai theo rabshah) (32) và hơn một trăm kim tự tháp đầu người đã được dựng bên ngoài thành phố. Nhiều công trình công cộng dưới triều các Caliphate nhà Abbasid đã sống sót khỏi bị tàn phá sau cuộc bao vây của Mông Cổ đã bị thiêu rụi khi Tamerlane ra lệnh đốt cháy thành phố, nhưng vì ảnh hưởng của quân đội Hồi giáo của ông, các nhà thờ Hồi giáo và các công trình tôn giáo khác được bỏ qua. Bách khoa toàn thư Hồi giáo cung cấp một cái nhìn tổng quan về sự nghiệp Tamerlane, và nó đặc biệt hữu ích trong việc mô tả mối quan hệ của ông ta với Baghdad.

Timur đưa ra lựa chọn hoặc quy phục để bảo toàn tính mạng hoặc là sự hủy diệt hoàn toàn, ông cướp đi các nghệ nhân lành nghề và tha cho tầng lớp tôn giáo, đôi khi tự giải trí bằng cách nhóm họp họ trong các cuộc tranh luận hoặc chơi cờ. Từ các thành phố bị chinh phục, ông tống tiền một khoản tiền chuộc khổng lồ. Các chiến dịch của ông cho thấy sự tàn bạo kinh khủng, rất thực dụng và hầu như luôn luôn có chủ ý. Sự tàn phá của quân đội của ông là rất đáng kể, nhưng thường xuyên kéo theo sự phục hồi của sản xuất nông nghiệp. Trong chuyến hành quân đầu tiên của mình đến một khu vực, Timur chỉ đơn giản là chinh phục và thu thập các loại thuế, sau đó quay trở lại để trừng phạt các chư hầu không tuân theo và cài đặt bộ máy cai trị .(33)

Bách khoa toàn thư của Hồi giáo cho rằng đây là đòn quyết định thổi bay Baghdad như là một trung tâm văn hóa và một thị trấn quan trọng quan trọng trong khu vực. Sultan Ahmad, một năm sau cuộc bao Baghdad, quay trở lại và cai trị cho đến cuộc chinh phục của người Thổ Kara Koyunlu. Thành phố không bao giờ phục hồi, ít nhất là bốn mươi năm sau cuộc tàn phá của Tamerlane, Makrizi đã thăm những tàn tích và ghi lại rằng  “Baghdad hoàn toàn bị phá hoại, là không có nhà thờ Hồi giáo hay trung tâm nào còn tồn tại, và không có chợ nhóm họp. Các dòng kênh rạch hầu như khô cạn và nó khó có thể được gọi là một thành phố” (34).

Tamerlane và Hulagu kể từ khi ấy trở thành những nhân vật lịch sử gắn liền với sự hủy diệt, mặc dù vai trò của họ được khai thác để phục vụ các mục đích khác nhau. Hai tác phẩm lịch sử gần đây thể hiện sự chú ý đối với lịch sử “Ả Rập”, tác phẩm của Collomb là Sự hưng thịnh và sụp đổ của đế chế Ả Rập và tác phẩm của Simons Iraq: Từ Sumer đến Saddam, cả hai đều mô tả phóng đại sự hủy diệt của Hulagu trong khi che đậy mức độ phá hủy của Tamerlane, cả hai đều mang nhiều lỗi nghiêm trọng về thời gian, địa điểm, và mức độ hủy diệt. Collomb mở đầu chương viết về Tamerlane với:

“Vào năm 1300, người Ả Rập ở Trung Đông chỉ hầu như quân tâm đến sự sinh tồn. Qua nhiều thế kỷ, họ đã luân phiên bị khai thác, cướp bóc và tàn sát bởi Đế chế Byzantines, bởi các hệ phái trong thời kì Umayyad, trong chiến tranh giữa các cộng đồng, … bởi lính đánh thuê gốc Thổ Nhĩ Kỳ dễ bị mua chuộc, … và bởi người Mông Cổ  hung bạo. … Năm 1393 … Tamerlane (Timur), một người Thổ gốc Uzbek tuyên bố có dòng dõi từ Thành Cát Tư Hãn … xâm chiếm Trung Đông với một đạo quân du mục Mông Cổ-Uzbek. Ông ta vừa hoàn thành một cuộc xâm lược Ấn Độ, nơi ông đã giết chết vô số người Hồi giáo Delhi … 35 “

Tác phẩm của Le Strange tập trung vào triều Abbasid ở Baghdad, nhưng chứa một lời bạt lớn ghi lại lịch sử của Baghdad sau sự trỗi dậy của các Il-Khan. Ông đề cập rằng tầm quan trọng của thành phố đã giảm bớt sau cuộc tàn phá của  Hulagu và sắp xếp tất cả lịch sử tiếp theo của nó trong một vài đoạn văn, điều này là trái ngược trực tiếp các nguồn sử dụng cho bài viết này. Hơn nữa, Le Strange không đề cập đến cuộc bao vây Baghdad lần thứ hai  Tamerlane hoặc sự phá hủy lớn lao gây ra cho thành phố tại thời điểm đó (36)

Được ghi chú vắn tắt, cuộc cướp phá Baghdad của Tamerlane đã được tiết giảm xuống chỉ còn là một chú thích trong sử Trung Đông, không khác gì các thời điểm cực kỳ bạo lực khác trong một thời kì hỗn loạn tiếp theo sau sự sụp đổ của triều đại Ả Rập Abbasid. Điều này bất chấp thực tế là cuộc chinh phục Hulagu trực tiếp chống lại các vương triều Seljuq và Mamluk, bản thân là những con cháu của những người du mục Trung Á bị bắt cóc và bán làm nô lệ cho người Hồi giáo. Danh tiếng của Tamerlane trở nên nổi tiếng tương đối gần đây là sản phẩm của quá trình xét lại lịch sử mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa của người Uzbekistan (37), trong đó mang theo có lý do riêng khi miêu tả vai trò của kẻ chinh phục không quan tâm đến các chính thể lân cận bất kể chủng tộc hay tín ngưỡng. Việc miêu tả hình ảnh của Hulagu như là một kẻ thù của Hồi giáo cho thấy sự thiếu sót khi xét đến những ưu ái mà ông này dành cho ít nhất là người Ba Tư và người Ki tô Nestorian, và cũng phải nói rằng người Mông Cổ đã  tấn công các dân tộc thuộc các tôn giáo khác nhau và kiểm soát một đế chế rộng lớn bao gồm rất nhiều tôn giáo. Tamerlane, mặt khác, mặc dù cai trị thế giới  Hồi giáo, hiếm khi tấn công những quốc gia không theo đạo Hồi ngoại trừ tấn công trả đũa để trừng phạt (38).

Tamerlane the conqueror

Tamerlane

Hulagu và Tamerlane là những nhân vật lịch sử đã trở thành biểu tượng gần như không được xem xét ở các khía cạnh cá nhân và đã biến thành các yếu tố đại diện cho chết chóc và sự trừng phạt đối với người Hồi giáo. Trong khi danh tiếng của Tamerlane đã được dùng như một công cụ bởi các nhà sử học Uzbek thông qua việc xây dụng một hình mẫu thích hợp với chế độ Hồi giáo thế tục độc tài ở nhà nước Uzbekistan độc lập, sự trỗi dậy của chủ nghĩa quốc gia Ả Rập cùng với mong muốn khám phá quá khứ huy hoàng bị mất của người Hồi giáo và văn hóa Ả Rập đã mô tả Hulagu như là một kẻ hủy diệt bừa bãi là không phù hợp thực tế. Hulagu và những Il-Khan kế vị đã sửa chữa nền nông nghiệp của Baghdad và tiến hành xây dựng thành phố hồi phục một phần từ những gì đã bị phá hủy trong thời kì thoái trào của các Caliphate nhà Abbasid, trong khi sự phá hủy dường như mang tính chất trả thù mà Tamerlane gây ra cho thành phố là vô cùng to lớn. Sự khác biệt có thể xuất phát từ quá trình thay đổi trong định hướng tôn giáo của thành phố, từ Hồi giáo Ả Rập Sunni ngả sang hướng hồi giáo Ba Tư Shi’a. Các nguồn dữ liệu rất khác nhau trong việc miêu tả các sự kiện, nhưng có vẻ hiển nhiên rằng chủ nghĩa dân tộc với cách diễn giải lịch sử phục vụ theo mục đích riêng đã  đảo ngược ý nghĩa của hai sự kiện tàn phá Baghdad trong thế kỷ thứ 13 và 15.

Ghi chú của tác giả :

1 Hulagu and Tamerlane are the transliterated forms of the names that the author will use for clarity, though Khüle’ü and Tīmūr bin Taraġay Barlas, respectively, would be more accurate.

2 Osama bin Laden attempted to incite Muslim (mainly Arabs) to violence, saying “Colin Powell and Dick Cheney destroyed Baghdad worse than Hulagu of the Mongols” which has confused American journalists intoseeking Mongolian history from the Arabs they conquered, producing prose like this: “Other Mongol facts: On their treeless steppes, they tended to get hit by lightning a lot. Thunder terrified them.” (Frazier)

3(Collomb), (Simons), (Silvester)

4(Grousset) p. 367

5 Similar studies have been conducted on the real and perceived effects of the so-called “Tatar Yoke” in Russian history, discussing the actual weight of Mongol rule in Golden Horde Russia versus the convenienceof a reason for every imagined failing and slight of luck.

6 See Handel’s opera Tamerlano , Nicolas Pradon’s play Tamerlan, ou La Mort de Bajazet, Christopher Marlowe’s play Tamburlaine the Great , and Edgar A. Poe’s epic poem Tamerlane

7(Duin)

8(Howarth)

9(Gordon)

10(Whitehead)

11(Barthold)

12(Venegoni)

13 (Amitai-Preiss)

14 (Amitai-Preiss) p. 16

15 (Duri)

16 “The government was too weak to keep order. Floods recurred, indicating the weakness of government and the neglect of irrigation. In 1243 floods… ruined some quarters. In 1248 floods surrounded east Baghdad destroyed a part of the wall…It also flooded Rusafa and many of its houses fell. West Baghdad wassubmerged, and most houses fell. Houses on the river collapsed. Floods entered Baghdad in 1253, and againin 1255 when a great number of houses collapsed and cultivation was damaged. The worst flood was in 1256when both sides were surrounded by water and the flood even entered the markets of east Baghdad, Dar al-Hilafa, and the Nizamiyya.” Ibid.

17 “The city itself was given over to slaughter.” (Amitai-Preiss)p. 16 “Hulagu… razed the city and put 200,000of its inhabitants to the sword.” (Collomb) p.125 “The sack of Baghdad which followed lasted forty days, during which time a large proportion of the inhabitants were butchered in cold blood…”(Le Strange) p. 341 “The caliph’s army was instructed to assemble on the plain outside Baghdad, where all were massacred. Thenthe inhabitants of the city were told to assemble, when they too were shot and hacked to death, their corpses piled in heaps. … It is estimated that some eight hundred thousand men, women and children were killedover a period of days… and all the glories of medieval Baghdad were reduced to ruins.”(Simons) p. 134 “Forsix days Hulagu permitted his men to run amok. When the Mongols rode out of Baghdad, 750,000 lay dead inits streets or engulfed in the flames that destroyed the city’s palaces, mosques and libraries. The fear of plague had called an end to the rapine and the plunder-laden train that naked out of Baghdad was over five miles long.”(Silvester)

18 Ibid

19 Ibid.

20 (Venegoni)

21(Kennedy)

22(Le Strange)

23(Duri)

24Perhaps the most erroneous title, found in (Collomb), as Tamerlane spent a large part of his career fightingthe Golden Horde north of the Dasht-i Qipchaq, from whom the Uzbeks and Kazakhs are descended

25(Lamb) p.305

26 Tamerlane later assumed the title “Sahib qiran” or, “Lord of the Auspicious Conjunction, was a titlebestowed upon those lucky few, such as Alexander the Great and Chinggis Khan who, according to tradition,were born during the fortunate conjunction between Jupiter and Venus.”(Sela) p.24

27 (Hookham) p.149 There is an account of the thrilling chase after the fleeing Sultan in (Lamb) p. 179, which lends some credence to the argument that Tamerlane’s second visit to Baghdad was punitive in nature

28 Ibid. p.150

29 (Lamb), (Manz, Tīmūr Lang) , (Hookham)

30 (Iriskulov, Ignatenko and Kim)

31 “The Abode of Peace [had become] the Palace of Havoc and Hell.” (Lamb) p. 217 “Baghdad was no longerthe Abode of Peace… but the city of hell and discord.”
(Hookham) p.241

32 (Hookham) p.242

33 (Manz, Tīmūr Lang)

34 (Duri)

35 Tamerlane’s campaign of 1393 was largely a campaign of collecting tribute. His Indian campaign occurred between the first and second taking of Baghdad, in 1398. The Uzbeks were not yet in existence, so it is uncertain how this could even be the ‘second’ Uzbek-Mongol joint invasion. Tamerlane never claimeddescent from Temujin, and for that reason put a Chingisid puppet Khan on the throne in Samarkand. Tamerlane’s created genealogy suggests instead that he and Temujin share a common ancestor, the son of a
Mongol virgin impregnated by a moonbeam. (Iriskulov, Ignatenko and Kim)

36 (Le Strange)

37 (Duin)

38 “All of the lands that Timur conquered were both Islamic –formally at least — and within territories ruledby Turks or Mongols. Even Turkic rulers outside the Mongolian tradition had accepted some aspects of it.”(Manz, Tamerlane and the Symbolism of Sovreignty)

 Nguồn trích dẫn :

Amitai-Preiss, Reuven. Mongls and Mamluks: the Mamluk:Ilkhanid War, 1260-1281. Cambridge:Cambridge University Press, 1995.

Barthold, V. “Hūlāgū (Hülegü or rather Hüle’ü).” Bearman, et al. Encyclopaedia of Islam, Second Edition.Brill Online, 2009.

Collomb, Rodney. The Rise and Fall of the Arab Empire. Gloucestershire: Spellmount, 2006.

Duin, Julia. “‘Scourge of God’ an Uzbek symbol.” The Washington Times 6 September 2009.

Duri, A.A. “Baghdad.” Bearman, et al. Encyclopaedia of Islam, Second Edition. Brill Online, 2009.

Frazier, Ian. “Invaders: Destroying Baghdad.” The New Yorker 25 April 2005.

Gordon, C. D. The Age of Attila: Fifth-century Byzantium and the Barbarians. Ann Arbor: University of Michigan Press, 1960.

Grousset, René. The Empire of the Steppes: A History of Central Asia. Fredericksburg: Rutgers UniversityPress, 1970.

Hookham, Hilda. Tamburlaine the Conqueror. London: Hodder and Stoughton, 1962.

Howarth, Patrick. Attila, King of the Huns: man and myth. Philadelphia: Trans-Atlantic Publications,1994.

Iriskulov, et al. Amir Temur in World History. Tashkent: Sharq, 1996.

Jackson, Peter. “Mongols.” Encyclopaedia Iranica. Warsaw: Eisenbrauns, 2002.

Kennedy, H. “BAGHDAD, Iranian connection: From the Mongol invasion to the Ottoman occupation.”Encyclopaedia Iranica. Warsaw: Eisenbrauns, 1989.

Lamb, Harold. Tamerlane: The Earth Shaker. Garden City: Garden City Publishing Company, 1928.

Lane, George. “Ala-Al-Din Ata-Malek Jovayni.” Encyclopaedia Iranica. Warsaw: Eisenbrauns, 2009.

Manz, Beatrice. “Tamerlane and the Symbolism of Sovreignty.” Iranian Studies XXI.1-2 (1988): 105-122. The rise and rule of Tamerlane. Cambridge: Cambridge University Press, 1989.

Manz, Beatrice. “Tīmūr Lang.” Bearman, et al. Encyclopaedia of Islam, Second Edition. Brill Online, 2009.

Melville, Charles. “Tarik-e Jahangosha-ye Jovayni.” Encyclopaedia Iranica. Warsaw: Eisenbrauns, 2008.

Sela, Ron. “A Different Reassessment of Timur’s Legacy in Central Asia.” International Symposium onAmir Temur and his Heritage on the 600th Anniversary of his Death. Istanbul: Doghu Kutuphanesi, 2007

Silvester, William. Hulagu Khan Scourge of Islam. 8 August 2008. 11 December 2009 <http://militaryleaders.suite101.com/article.cfm/hulagu_khan_scourge_of_islam&gt;.Simons, Geoff. Iraq: From Sumer to Saddam. New York: St. Martin’s Press, 1994.Strange, G. Le. Baghdad during the Abbasid Caliphate. Oxford: Oxford University Press, 1900.

Venegoni, L. “Hülägü’s Campaign in the West – (1256-1260).” Transoxiana Webfestschrift Series I (2003).Whitehead, Douglas. “The bicycle diaries: Beware the bus to Bukhara.” The Daily Telegraph 25 August2009.

Yezdi, Sharfuddin Ali. Political and Military Institutes of Tamerlane. Trans. Major Davy. Delhi: JayyedPress, 1972

0