Những đế quốc của dân du mục
Các triều đại du mục tại Trung Á theo dòng thời gian Người Hung Nô Hung nô là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ 3 TCN họ đã kiểm soát một đế chế rộng lớn trên thảo nguyên, kéo dài về phía tây tới khu vực ...
Các triều đại du mục tại Trung Á theo dòng thời gian
Người Hung Nô
Hung nô là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ 3 TCN họ đã kiểm soát một đế chế rộng lớn trên thảo nguyên, kéo dài về phía tây tới khu vực Kavkaz (Caucasus). Các hoạt động của họ diễn ra chủ yếu tại các khu vực thuộc miền nam Siberi, miền tây Mãn Châu và các tỉnh, khu tự trị ngày nay của Trung Quốc là Nội Mông Cổ, Cam Túc và Tân Cương. Các tài liệu lịch sử rất cổ của người Trung Quốc (có lẽ là truyền thuyết) cho rằng người Hung Nô là các hậu duệ của con trai của vua Kiệt – vị vua cuối cùng của nhà Hạ . Tuy nhiên, do các khác biệt và xung đột nội bộ nên người Hung Nô đã chạy lên phía bắc và tây bắc.
Quan hệ giữa người Hán và người Hung Nô rất phức tạp và bao gồm các xung đột quân sự, các trao đổi cống phẩm và thương mại, cũng như các thỏa ước về hôn nhân.
Đa số thông tin về người Hung Nô chỉ có được từ các sử liệu Trung Quốc, nên không có cách nào để khôi phục lại các phần quan trọng nhất của tiếng Hung Nô. Chỉ có một ít các tên gọi và tước vị của họ có được từ các bản dịch ra tiếng Trung.
Theo các sử liệu Trung Quốc như Sử ký, Hán thư thì đến thời Đông Hán, người Hung Nô bị phân ra thành hai bộ phận cơ bản là:
Nam Hung Nô: Sau bị Hán hóa.
Bắc Hung Nô: Di dời về phương Tây vào khoảng thế kỷ 4, có lẽ trở thành người Hung (Huns).
Năm 209 TCN, tức là chỉ khoảng 3 năm trước khi nhà Hán ra đời, người Hung Nô đã liên kết lại với nhau thành một liên minh hùng mạnh dưới quyền của một thiền vu mới có tên gọi là thiền vu Mặc Đốn , khoảng 209 TCN-174 TCN). Sự thống nhất về mặt chính trị của người Hung Nô đã làm cho họ trở thành một địch thủ đáng gờm, do họ có khả năng tập trung các lực lượng quân sự lớn và thực hiện tốt hơn việc phối hợp chiến lược. Tuy nhiên, nguyên nhân dẫn đến sự liên minh này vẫn chưa rõ ràng. Người ta cho rằng sự thống nhất Trung Quốc đã thúc đẩy các bộ lạc du cư tập hợp lại xung quanh một trung tâm chính trị nhằm củng cố vị thế của họ.. Một giả thuyết khác là sự tái cơ cấu này là cách thức phản ứng của họ đối với khủng hoảng chính trị đã diễn ra đối với họ khi vào năm 215 TCN, khi quân đội nhà Tần do Mông Điềm chỉ huy đã xua đuổi họ ra khỏi các đồng cỏ bên sông Hoàng Hà.
Sau khi hoàn thành việc thống nhất nội bộ, Mặc Đốn mở rộng đế chế của mình ra các phía. Về phía bắc, ông đã chinh phục hàng loạt các bộ tộc du cư, bao gồm cả người Đinh Linh (Sắc Lặc) ở miền nam Siberia. Ông cũng đè bẹp sự kháng cự của người Đông Hồ ở miền đông Mông Cổ và Mãn Châu, cũng như của người Nguyệt Chi trong hành lang Cam Túc. Ngoài ra, ông cũng đã có khả năng khôi phục lại tất cả các vùng đất đã bị tướng của nhà Tần là Mông Điềm đánh chiếm. Trước khi Mặc Đốn chết vào năm 174 TCN thì người Hung Nô đã xua đuổi hoàn toàn người Nguyệt Chi ra khỏi hành lang Cam Túc và khẳng định sự có mặt của họ tại Tây Vực, thuộc Tân Cương ngày nay.
Dưới thời Mặc Đốn, một hệ thống nhị nguyên của thể chế chính trị đã được hình thành. Các nhánh tả và hữu (tức là tả bộ và hữu bộ) của người Hung Nô được phân chia trên cơ sở lãnh thổ địa phương. Người đứng đầu các bộ này là tả hiền vương và hữu hiền vương. Thiền vu – người trị vì tối cao, tương đương với “Thiên tử” của người Hán, thực hiện uy quyền trực tiếp trên vùng lãnh thổ trung ương. Long Thành , gần Koshu-Tsaidam ở Mông Cổ, đã được thiết lập như là nơi họp mặt hàng năm và là kinh đô trên thực . Ngoài ra còn một bộ phận nữa gọi là Tây Hung Nô, nhưng gần như không có thông tin gì về nhóm này.Khu vực địa lý ban đầu của người Hung Nô nói chung được coi là khu vực Ordos. Theo Tư Mã Thiên trong Sử ký-phần Hung Nô liệt truyện, người Hung Nô là các hậu duệ của Thuần Duy , có thể là con trai của vua Kiệt, vị vua cuối cùng của nhà Hạ. Tuy nhiên, trong khi không có chứng cứ trực tiếp để bác bỏ giả thuyết này thì cũng không có chứng cứ trực tiếp để hỗ trợ nó.
Người ta vẫn không biết ngôn ngữ và chữ viết của người Hung Nô là như thế nào. Nó có thể thuộc nhóm ngôn ngữ gốc Turk, dựa trên vị trí địa lý của họ cũng như các mối liên hệ có thể là có thật nhưng không chứng minh được của họ với người Hung (Huns) (xem dưới đây), mặc dù gần đây người ta đã nêu cả giả thuyết là nó thuộc về nhóm ngôn ngữ của người Nguyệt Chi (Enisei).
Thời nhà Chu, không có nhiều tư liệu viết về họ, ngoài các cụm từ như rợ (nhung) Địch, rợ Hồ đều sống ở vùng sa mạc miền tây bắc Trung Quốc, có lẽ là để chỉ các nhóm người này.
Chiến tranh với nhà Hán
Nhà Hán đã chuẩn bị cho việc đối đầu quân sự từ thời kỳ trị vì của vua Hán Văn Đế (trị vì từ 180 TCN đến 157 TCN). Sự tuyệt giao diễn ra năm 133 TCN, ngay sau khi có một âm mưu bất thành nhằm đánh úp thiền vu Quân Thần tại Mã Ấp. Vào thời điểm này, đế chế Trung Hoa đã trở nên vững chắc về các mặt chính trị, quân sự, tài chính, cũng như phe ủng hộ chiến tranh đang thắng thế tại triều đình. Tuy nhiên, cũng trong năm đó thì Hán Vũ Đế (trị vì từ năm 141 TCN đến năm 87 TCN) đã đảo ngược lệnh mà ông đã đưa ra vào năm trước đó để phục hồi lại thỏa thuận hòa bình.
Mức độ đầy đủ nhất của chiến tranh đã diễn ra vào mùa thu năm 129 TCN, khi 40.000 kỵ binh Trung Quốc đột ngột tấn công người Hung Nô tại các chợ biên giới. Năm 127 TCN, tướng nhà Hán là Vệ Thanh tái chiếm Ordos. Năm 121 TCN, người Hung Nô lại phải gánh thêm một thất bại nữa khi Hoắc Khứ Bệnh chỉ huy một đội kỵ binh nhẹ tiến về phía tây của Lũng Tây và trong vòng 6 ngày đã mở đường xuyên qua 5 tiểu quốc của Hung Nô. Năm 119 TCN cả Hoắc Khứ Bệnh và Vệ Thanh, mỗi người chỉ huy khoảng 50.000 kỵ binh và 100.000 bộ binh, và tiến quân theo hai hướng tây-đông, đã ép buộc được thiền vu Y Trĩ Tà và toàn bộ triều đình của ông ta chạy về phía bắc của sa mạc Gobi, hữu hiền vương đầu hàng cùng với 40.000 người.. Hoắc Khứ Bệnh tiến quân theo hướng tây, đuổi người Hung Nô tới tận Lang Cư Tư Sơn, còn Vệ Thanh theo hướng đông đánh vào triều đình Hung Nô. Tại phía đông, nhà Hán liên minh với người Ô Hoàn còn tại phía tây vẫn thực hiện chính sách hòa thân.
Năm 73 TCN, nhà Hán cùng người Ô Hoàn đem 200.000 quân tấn công Hung Nô. Năm 57 TCN, triều đình Hung Nô chia rẽ, Chí Chi (?-36 TCN) rút chạy về mạc bắc (tức sa mạc Gobi), năm 51 TCN Hô Hàn Tà (Da?) (58 TCN-31 TCN) về đầu hàng nhà Hán. Sau này Chí Chi đem dân chúng rút lui về khu vực ven biển Aral và hồ Balkhash (ngày nay thuộc về Afghanistan, Uzbekistan và Kazakhstan). Hô Hàn Tà chiếm lại vương triều tại mạc bắc.
Các khó khăn cơ bản đã hạn chế thời gian và sự kéo dài các chiến dịch này là các vấn đề tự nhiên. Theo phân tích của Nghiêm Vưu , các khó khăn này có hai điểm chính. Thứ nhất là vấn đề tiếp tế lương thực, thực phẩm với một khoảng cách lớn. Thứ hai, thời tiết ở các vùng đất miền bắc của người Hung Nô là một rào cản cho các binh sĩ người Hán, những người không bao giờ có đủ sức lực do không hợp thủy thổ.. Theo các báo cáo chính thức, phía Hung Nô mất khoảng từ 80.000 đến 90.000 người, còn trong số 140.000 ngựa mà người Hán đưa tới vùng sa mạc, chỉ còn ít hơn 30.000 quay trở lại tới Trung Quốc.
Kết quả của các trận chiến này là người Hán đã kiểm soát được khu vực chiến lược từ sa mạc Ordos và hành lang Cam Túc tới Lop Nor (La Bố Bạc). Họ đã thành công trong việc chia cắt người Hung Nô ra khỏi người Khương ở phía nam, cũng như có được đường đi trực tiếp tới Tây Vực.
Bắc và nam Hung Nô
Quyền lực mới của người Hung Nô là trùng hợp với chính sách xoa dịu của Hán Quang Vũ Đế (5 TCN-57, cầm quyền từ năm 25 đến năm 57). Khi ở đỉnh cao nhất của quyền lực, Hô Đô Nhi Thi thậm chí còn so sánh mình với ông tổ nổi tiếng là Mặc Đốn. Tuy nhiên, do chủ nghĩa cục bộ địa phương lại gia tăng giữa những người Hung Nô nên Hô Đô Nhi Thi đã không bao giờ có thể thiết lập uy quyền ở mức không bị tranh cãi. Khi ông chỉ định con trai mình làm người kế vị (trái với quy tắc truyền ngôi cho anh em do Hô Hàn Tà đề ra) thì Bỉ, khi ấy là hữu hiền vương, đã từ chối tham dự cuộc họp mặt hàng năm tại cung điện của thiền vu.
Là con trai lớn của thiền vu trước đó, Bỉ có quyền đòi hỏi sự kế vị. Năm 48, hai năm sau khi con trai của Hô Đô Nhi Thi là Bồ Nô lên ngai vàng, tám bộ lạc Hung Nô trong khu vực căn cứ của Bỉ tại miền nam, với lực lượng khoảng 40.000 đến 50.000 người, đã tôn Bỉ làm thiền vu của họ. Trong suốt thời Đông Hán, hai nhóm này được gọi là nam Hung Nô và bắc Hung Nô.
Bị người Hung Nô miền bắc chèn ép mạnh và bị tổn thất bởi thiên tai, Bỉ đã đưa người Hung Nô miền nam trở lại quan hệ triều cống với Trung Quốc của nhà Hán vào năm 50. Hệ thống triều cống đã được thắt chặt đáng kể để giữ người Hung Nô miền nam dưới sự giám sát của nhà Hán. Thiền vu được lệnh phải đặt kinh đô tại huyện Meiji của quận Tây Hà. Người Hung Nô miền nam đã được tái định cư tại 8 quận vùng biên giới. Cùng thời gian đó, một lượng lớn người Hán đã bị ép buộc phải di cư tới các quận này, tại đây các khu định cư hỗn tạp bắt đầu xuất hiện.
Về mặt kinh tế, người Hung Nô miền nam gần như dựa hoàn toàn vào sự hỗ trợ của nhà Hán. Các quan hệ căng thẳng là hiển nhiên giữa những người Hán định cư và những người có cuộc sống du cư. Vì thế, năm 94 thiền vu An Quốc đã hợp nhất các lực lượng với người Hung Nô mới bị nô dịch hóa từ phía bắc để bắt đầu một cuộc nổi dậy lớn chống lại nhà Hán.
Vào cuối thời Đông Hán, người Hung Nô miền nam đã tham gia vào nhiều cuộc nổi dậy khi đó đang gây ra nhiều phiền toái cho nhà Hán. Năm 188, thiền vu Khương Cừ bị một số thần dân của mình ám sát vì đã đồng ý gửi quân đội đến giúp nhà Hán dẹp loạn tại Hà Bắc – nhiều người Hung Nô e ngại rằng điều này có thể trở thành tiền lệ cho sự phục vụ quân đội không có điểm kết thúc cho nhà Hán. Con trai của thiền vu bị sát hại này lên kế vị, nhưng ông này sau đó cũng đã bị những người nổi loạn này lật đổ vào năm 189. Ông ta chạy tới Lạc Dương để tìm kiếm sự trợ giúp của nhà Hán, nhưng vào thời gian đó thì triều đình nhà Hán cũng đang rối loạn do mâu thuẫn giữa các phe cánh của Hà Tiến và các hoạn quan, cũng như sau đó là sự chuyên quyền của Đổng Trác. Thiền vu này tên là Ư Phù La, với tước hiệu là Đặc Chí Thi Trục Hầu, đã không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc cùng những người đi theo ở lại Bình Dương, một thành phố thuộc Sơn Tây, Trung Quốc ngày nay. Năm 195, ông ta chết và người em ông ta tên là Hô Trù Tuyền đã kế nghiệp.
Năm 216, Tào Tháo đã cầm giữ Hô Trù Tuyền tại Nghiệp Thành và chia những người đi theo ông ta tới Sơn Tây thành 5 bộ: tả, hữu, nam, bắc và trung. Điều này nhằm ngăn cản những người Hung Nô lưu vong tại Sơn Tây dính líu vào các cuộc nổi loạn, cũng như cho phép Tào Tháo sử dụng người Hung Nô làm các lực lượng bổ trợ cho đội quân kỵ binh của mình. Cuối cùng, tầng lớp quý tộc Hung Nô tại Sơn Tây đã đổi họ của mình từ Loan Thì ) thành Lưu vì các lý do uy tín và thanh thế, khi họ cho rằng mình có quan hệ họ hàng với hoàng tộc nhà Hán, thông qua chính sách liên minh hôn nhân từ thời trước.
Sau thời Hô Trù Tuyền , người Hung Nô bị chia nhỏ thành 5 bộ lạc địa phương. Tình trạng dân tộc phức tạp của các khu định cư hỗn tạp tại khu vực biên giới bắt đầu từ thời Đông Hán đã tạo ra các hậu quả nghiêm trọng, đã không được chính quyền Trung Quốc nắm rõ cho đến tận cuối thế kỷ 3. Vào năm 260, Lưu Khứ Ti đã tổ chức liên minh Thiết Phất ở miền đông bắc và vào năm 290, Lưu Nguyên Hải đã làm thủ lĩnh của một nhóm nhỏ tại miền tây nam. Vào thời gian này, sự náo động của những người không phải là người Hán đã đạt tới quy mô đáng báo động dọc theo toàn biên giới của nhà Tây Tấn.
Đế quốc Hun
Người Hung là từ để chỉ những người dân du cư hay bán du cư trên lưng ngựa trong một liên minh lỏng lẻo ở khu vực Trung Á, có lẽ ban đầu sinh sống trong khu vực từ ven hồ Issyk Kul (ngày nay thuộc Kyrgyzstan) tới Ulan Bator (thủ đô của Mông Cổ ngày nay). Người Hung có lẽ đã đóng vai trò quan trọng trong lịch sử sau này của cả châu Á lẫn châu Âu.
Một số trong số các bộ lạc Á-Âu này đã di chuyển tới châu Âu trong thế kỷ 4 và 5, đáng chú ý nhất là dưới sự trị vì của Attila. Buổi đầu thời kỳ Trung Cổ, người Hung trở thành những Kỵ binh tàn bạo khét tiếng ở châu Âu. Họ khuếch trương mở rộng bờ cõi và đánh bại được người La Mã. Người Hung còn lại ở châu Á được ghi nhận bởi các dân tộc láng giềng về phía nam, đông và tây như là những người đã chiếm khu vực Trung Á trong khoảng thời gian từ thế kỷ 4 tới thế kỷ 6, với một số ít còn sống sót tại khu vực Kavkaz cho tới tận thế kỷ 8. Theo các tác giả của La Mã cổ đại thì người Hung thuộc chủng Mongoloid theo vẻ dáng bề ngoài. Miêu tả còn sót lại duy nhất về sự xuất hiện của Attila là của Priscus: “vóc người thấp, với ngực rộng và đầu to; các mắt nhỏ, râu màu xám và lưa thưa; ông có mũi tẹt và nước da ngăm đen, chỉ ra các chứng cứ về nguồn gốc của ông“.
Các nghiên cứu và tranh luận về nguồn gốc tổ tiên châu Á của người Hung vẫn đang diễn ra, kể từ thế kỷ 18. Ví dụ, các nhà ngữ văn học hiện vẫn còn tranh cãi là tên dân tộc nào từ các nguồn Trung Quốc, Ba Tư hay Armenia là đồng nhất với thuật ngữ Hunni trong tiếng Latinh hay Chounnoi trong tiếng Hy Lạp như là chứng cứ về nhân dạng của người Hung.
Các nghiên cứu di truyền học gần đây chỉ ra rằng các liên minh lớn của các chiến binh thảo nguyên là không đồng nhất về mặt dân tộc, mà bao gồm nhiều bộ tộc du cư gốc Á-Âu rất khác nhau, bao gồm cả nhóm Ural-Altai (bao gồm các bộ lạc gốc Turk, Tungus, Mông Cổ và Phần Lan-Ugra) cũng như nhóm Ấn-Âu (bao gồm các bộ lạc Scythia Iran như Alan và Sarmatia; các bộ lạc người Đức như Gepid, Goth; và Slav). Nhân dạng người Hung xa hơn nữa là một điều phức tạp và khó khăn do sự nổi tiếng của tên gọi này, vì dường như nhiều thị tộc đã tuyên bố mình là hậu duệ của người Hung vì sự kiêu hãnh của tên gọi đó. Tương tự, các nhà chép sử Hy Lạp hay Latinh có thể sử dụng thuật ngữ “người Hung” theo ngữ cảnh chung nhất, để miêu tả các đặc trưng xã hội hay bộ tộc, nguồn gốc xuất xứ được tin tưởng hay sự nổi tiếng.”Tất cả những gì chúng ta có thể nói một cách chắc chắn”, Walter Pohl viết,”là tên gọi người Hung, vào cuối thời kỳ cổ đại, đã miêu tả các nhóm thống trị có danh tiếng của các chiến binh trên thảo nguyên”. Các quan điểm này đến từ ngữ cảnh của thuyết vị chủng và chủ nghĩa dân tộc trong chép sử của các thế hệ trong quá khứ, trong đó người ta thường giả định rằng tính đồng nhất dân tộc phải là nền tảng của những người đồng nhất về mặt chủng tộc về phương diện xã hội và văn hóa.
Các chứng cứ từ các nghiên cứu di truyền học và nguồn gốc dân tộc học mâu thuẫn với các học thuyết truyền thống dựa trên các ghi chép trong sử sách Trung Hoa, khảo cổ học, ngôn ngữ học và các chứng cứ trực tiếp khác. Các học thuyết này chứa đựng các yếu tố khác nhau: rằng tên gọi “Hung” đầu tiên đã miêu tả nhóm cai trị du cư của các chiến binh mà nguồn gốc dân tộc của họ là từ Trung Á, và có thể nhất là khu vực ngày nay thuộc Mông Cổ; rằng rất có thể họ có họ hàng với (hay là một phần của) người Hung Nô (lần đầu tiên được Joseph de Guignes đề xuất vào thế kỷ 18); rằng người Hung Nô đã bị người Hán đánh bại; và rằng tại sao họ rời bỏ Mông Cổ và di chuyển về phía tây, cuối cùng xâm chiếm châu Âu sau đó khoảng 200 năm. Các chứng cứ gián tiếp bao gồm sự chuyển giao của cung hỗn hợp, cái gọi là cung của người Hung, từ Trung Á sang phía tây.
Điều này đã ăn sâu vào trong thuật chép sử phương Tây (và cả phương Đông), nhưng các chứng cứ thông thường lại là gián tiếp hay còn mơ hồ. Trên thực tế, người Hung không để lại một ghi chép nào dưới dạng văn bản. Cũng không có ghi chép nào về điều gì đã xảy ra trong khoảng thời gian họ rời bỏ Trung Quốc cho tới khi họ tiến vào châu Âu (khoảng 150-200 năm sau). Đề cập cuối cùng về người Hung Nô là người Bắc Hung Nô đã bị người Hán đánh bại vào năm 151 tại khu vực hồ Barkol, sau đó họ chạy vào thảo nguyên phía tây tại K’ang-chü (trung tâm ở Turkestan tại Kazakhstan). Các ghi chép trong sử sách Trung Quốc trong giai đoạn từ thế kỷ 3 và thế kỷ 4 gợi ý rằng có một bộ lạc nhỏ, gọi là Yueban, những người còn sót lại của người Bắc Hung Nô, đã sinh sống xung quanh vùng thảo nguyên của Kazakhstan.
Một vài chứng cứ gần đây cho thấy có sự liên hệ về chính trị và văn hóa giữa người Hung và người Hung Nô. Các nguồn sử liệu Trung Á (của Sogdia (Túc Đặc) và Bactria (Đại Hạ)) trong thế kỷ 4 phiên dịch “Hung” như là “Hung Nô” và “Hung Nô” như là “Hung”; ngoài ra, những cái vạc của người Hung Nô và người Hung trên thực tế là đồng nhất, và đã được chôn cất tại các nơi tương tự như nhau (các bờ sông) tại Hungary và Ordos.
Người Hung cũng có thể có nguồn gốc từ người Turk. Trường phái tư tưởng này nổi lên khi Joseph de Guignes trong thế kỷ 18 đồng nhất người Hung với người Hung Nô. Nó được O. Maenchen-Helfen hỗ trợ trên cơ sở các nghiên cứu ngôn ngữ học của ông.] Học giả người Anh là Peter Heather gọi người Hung là “nhóm đầu tiên của người du cư gốc Turk, khi đối chọi với người Iran, đã xâm nhập vào châu Âu”.Nhà nghiên cứu người Thổ Nhĩ Kỳ là Kemal Cemal cũng ủng hộ cho sự khẳng định này bằng cách chỉ ra sự tương đồng trong các từ và tên gọi trong tiếng Turk và tiếng Hung, cũng như sự tương tự trong hệ thống quản lý cai trị của các bộ lạc người Hung và người Turk. Nhà sử học Hungary là Gyula Nemeth cũng ủng hộ quan điểm này. Nhà sử học người Duy Ngô Nhĩ là Turghun Almas (Thổ Nhĩ Hồng A Lực Mã Tư) cũng đề xuất một mối liên hệ giữa người Hung và người Duy Ngô Nhĩ, là những người sử dụng ngôn ngữ gốc Turk hiện còn sống chủ yếu ở Tân Cương, Trung Quốc.
Cái gọi là “người Hung trắng” của Procopius có lẽ không có gì liên quan với người Hung theo nghĩa kinh điển, mà có lẽ có quan hệ với những người gốc Ấn-Âu như người Iran hay người Nguyệt Chi
Lịch sử
Dionysius Periegetes miêu tả những người có thể là người Hung, sống cạnh biển Caspi vào thế kỷ 2. Vào năm 139, nhà địa lý châu Âu là Ptolemy đã viết rằng “Khuni” nằm bên kia sông Dnepr và do người “Suni” cai trị. Ông liệt kê “Chuni” trong số các bộ lạc Hung trắng “Sarmatia” trong thế kỷ 2, mặc dù vẫn không rõ là những người này có phải là người Hung hay không. Nhà sử học người Armenia trong thế kỷ 5 là Moses ở Khorene, trong cuốn “Lịch sử Armenia” của mình đã giới thiệu Hunni gần với người Sarmatia và miêu tả sự chiếm đóng thành phố Balk (“Kush” trong tiếng Armenia) của họ vào thời gian khoảng giữa các năm 194 tới 214, điều này giải thích tại sao người Hy Lạp gọi thành phố này là Hunuk.
Sau thất bại của người Hung Nô trước nhà Hán, lịch sử Hung Nô đã không được nhắc tới trong hàng thế kỷ; sau đó, họ Lưu của thiết phất nam Hung Nô đã cố gắng thành lập một nhà nước ở miền tây Trung Quốc . Người Tây Nhung (Xion) xuất hiện trên vũ đài chính trị tại Transoxiana năm 320 ngay sau khi Cận Chuẩn lật đổ Lưu Sán ( làm cho người Hung Nô rơi vào hỗn loạn. Sau đó Kidara xuất hiện để dẫn dắt người Tây Nhung và gây sức ép đối với người Quý Sương.
Ở phía tây, người Đông Goth đã tiếp xúc với người Hung vào khoảng năm 358. Người Armenia đề cập tới Vund vào khoảng năm 370: thủ lĩnh đầu tiên được ghi chép lại của người Hung tại khu vực Kavkaz. Người La Mã đã mời người Hung ở phía đông Ukraina tới sinh sống tại Pannonia năm 361, và năm 372, dưới sự chỉ huy của vua của mình là Balimir, họ đã tiến về phía tây và đánh bại người Alan. Ở phía đông, vào đầu thế kỷ 5, thiết phất Hạ là triều đại cuối cùng của người Nam Hung Nô ở miền tây Trung Quốc và người Alchon / người Huna đã xuất hiện tại khu vực ngày nay là Afghanistan và Pakistan. Từ thời điểm này việc giải mã lịch sử người Hung đối với các nhà đa ngôn ngữ học trở nên dễ dàng hơn với các sự kiện được ghi chép tương đối rõ ràng hơn trong các nguồn sử liệu Đông La Mã, Armenia, Iran, Ấn Độ và Trung Quốc.
Người Hung châu Âu ( người Hun đen)
Người Hung xuất hiện tại châu Âu vào thế kỷ 4, dường như là từ Trung Á. Họ lần đầu tiên xuất hiện ở phía bắc biển Đen, buộc một lượng lớn người Goth phải tị nạn tại đế quốc La Mã; sau đó người Hung xuất hiện ở phía tây của dãy núi Carpat trong khu vực Pannonia, có lẽ vào khoảng năm 400 – 410, có thể là nguyên nhân gây ra sự di cư hàng loạt của các bộ lạc gốc Đức về phía tây, dọc theo sông Rhein vào tháng 12 năm 406. Đời hai vua Octar và Rugila, người Hung tấn công người Burgundy. Nhưng Octar qua đời trong đêm chinh chiến, quân Hung “rắn mất đầu” nên bị quân Burgundy đánh cho đại bại.
Sự thành lập đế quốc Hung trong thế kỷ 5 đánh dấu trường hợp sớm trong lịch sử của cái gọi là di cư trên lưng ngựa. Dưới sự lãnh đạo của Attila – một Thành Cát Tư Hãn của Âu châu, người Hung đã giành được thắng lợi trước một loạt các kẻ thù được tổ chức tốt bằng cách sử dụng các vũ khí có ưu thế hơn như cung của người Hung và hệ thống thu thuế được tổ chức tốt. Bổ sung cho sự giàu có của người Hung là việc cướp bóc các thành phố giàu có của đế quốc La Mã ở phía nam, nhờ vậy, họ đã duy trì được lòng trung thành của hàng loạt các bộ lạc chư hầu.
Người Hung của Attila đã hợp nhất các nhóm người từ các bộ lạc không có quan hệ họ hàng gì. Tại châu Âu, người Alan, người Gepid, người Scirii, người Rugia, người Sarmatia, người Slav và người Goth tất cả đều hợp nhất dưới sự chỉ huy quân sự của người Hung. Khởi phát từ kinh đô của ông ở Hungary, Attila đã gầy dựng Đế quốc Hung trải dài từ biển Baltic cho đến vùng Balkan, và từ sông Rhine cho tới Hắc Hải. Thời đó, Attila – “Ngọn roi da của Thượng đế” – cùng những chiến binh của ông là nỗi sợ hãi của người châu Âu, gây cho người La Mã phải kinh hoàng. Kể từ năm 441, quân Hung đánh các tỉnh miền Tây Balkan của Đế quốc Đông La Mã, chiếm lĩnh được Viminacium. Vào năm sau tức là năm 442, họ tiếp tục gây chiến với người La Mã. Quân Đông La Mã do đại tướng Aspar thống lĩnh liên tiếp bại trận. Quân Hung cướp được Margus, sau đó đánh thọc sâu vào phía Nam và chiếm lấy Naissus.Vào năm 447, quân Hung tấn công miền Thrace của Đế quốc Đông La Mã nhưng phải rút lui trong một dịch bệnh.Tuy nhiên, vào năm 450, trong trận đại chiến tại Châlons, liên quân Hung – Đông Goth do Attila thân chinh thống suất bị liên quân Tây La Mã – Tây Goth do đại tướng Flavius Aetius chỉ huy đánh cho thảm bại. Đại bại tại Châlons đã giết tươi huyền thoại về một Attila bất khả chiến bại. Đồng thời, quân Hung cũng không thể chiếm được thành La Mã ở Đế quốc Tây La Mã và kinh thành Constantinopolis của Đế quốc Đông La Mã. Sau khi Attila chết, một số trong số những người Hung của ông đã định cư tại Pannonia, nhưng đế chế đã tan rã sau khi các con trai của ông bị liên minh Ardaric đánh bại tại trận Nedao năm 454, tại khu vực ngày nay là Nedava.
Ký ức về sự xâm chiếm của người Hung được truyền miệng giữa những người gốc Đức và là một phần quan trọng trong Völsunga saga và Hervarar saga của người Na Uy cổ đại, cũng như trong Nibelungenlied của tiếng Đức trung cao địa, tất cả chúng đều miêu tả sinh động các sự kiện trong thời kỳ di cư đã diễn ra trước khi chúng được viết ra cỡ một thiên niên kỷ. Vị vua kiệt xuất nhất của người Hung là Attila cũng trở nên trứ danh trong nền văn học dân gian nước Đức. Trong Hervarar saga, người Goth đã có sự tiếp xúc đầu tiên với những người Hung sử dụng cung và gặp họ trong trận chiến mang tính thiên sử thi trên vùng đồng bằng ven sông Danube. Trong Völsunga saga và trong Nibelungenlied, Attila (Atli trong tiếng Na Uy cổ và Etzel trong tiếng Đức) đã đánh bại vua của người Frank là Sigebert I (Sigurðr hay Siegfried) và vua của người Burgundi là Guntram (Gunnar hay Gunther), nhưng sau này bị hoàng hậu Fredegund (Gudrun hay Kriemhild) ám sát, bà này là chị/em của người sau và là vợ của người trước.
Nhiều dân tộc đã cố gắng khẳng định mình như là người kế tục các truyền thống văn hóa và dân tộc của người Hung. Ví dụ, Tên gọi của các hãn Bulgar có thể chỉ ra rằng những người này tin tưởng rằng họ chính là hậu duệ của Attila. Người Bulgar có lẽ đã là một phần của liên minh bộ lạc người Hung trong một thời gian nào đó, và một số học giả trong quá khứ đã đặt giả thuyết rằng tiếng Chuvash (được coi là xuất phát từ tiếng Bulgar) là họ hàng còn sót lại gần gũi nhất với tiếng Hung.
Người Magyar (người Hungary) cũng tuyên bố mình là người thừa kế các di sản của người Hung. Do những người Hung đã xâm chiếm châu Âu có lẽ là một liên minh lỏng lẻo của các tộc người khác nhau nên hoàn toàn có thể cho rằng người Magyar là một phần của người Hung. Cho tới đầu thế kỷ 20, nhiều nhà sử học Hungary tin tưởng rằng người Székely (tiếng Hungary “dân tộc anh em”) – những người sống tại khu vực Transylvania – là các hậu duệ của người Hung.
Trong khi một điều rõ ràng là người Hung để lại hậu duệ trên toàn khu vực Đông Âu thì sự tan rã của đế quốc Hung nghĩa là họ không bao giờ có lại được danh tiếng đã mất. Một trong số các lý do là người Hung chưa bao giờ có cơ chế được thiết lập hoàn chỉnh như một chính thể nhà nước, chẳng hạn như hệ thống quan lại và thuế, không giống như của người Magyar hay của Kim Trướng Hãn Quốc sau này. Một khi đã là vô tổ chức thì người Hung rất dễ dàng bị các chính thể có tổ chức tốt hơn lôi cuốn và làm cho tổ chức của người Hung tan rã.
Đế quốc Nguyệt Chi (yueh Chi)
Nguyệt Chi hay Đại Nguyệt Chi , là tên gọi trong tiếng Trung để chỉ những người Trung Á cổ đại. Người ta cho rằng họ chính là (hoặc có quan hệ họ hàng gần gũi với ) người Tochari theo cách gọi của người Hy Lạp cổ. Ban đầu họ định cư trong các vùng đồng cỏ khô cằn thuộc miền đông khu vực lòng chảo Tarim, ngày này có lẽ thuộc Tân Cương, Cam Túc và có thể là cả Kỳ Liên Sơn ở Trung Quốc, trước khi họ di cư tới Transoxiana, Bactria (Đại Hạ) và sau đó là miền bắc Ấn Độ, là nơi mà họ lập ra Vương triều Quý Sương.
Nguồn gốc
Những ghi chép đầu tiên về người Nguyệt Chi có từ năm 645 TCN trong Quản tử của tác giả Trung Quốc Quản Trọng. Ông miêu tả người Ngu Chi hay Ngưu Chi là những người từ miền tây bắc đã cung cấp ngọc bích cho người Hán từ những dãy núi gần đó của nước Ngu Chi tại Cam Túc. Việc cung cấp ngọc bích từ lòng chảo Tarim trong thời cổ đại đã dược chứng minh khá rõ ràng bằng các tài liệu khảo cổ học: “Một điều rất rõ ràng là các vị vua Trung Quốc cổ đại rất thích ngọc bích. Tất cả các đồ bằng ngọc bích khai quật được tại khu lăng mộ của Phụ Hảo nhà Thương, chứa trên 750 miếng, tất cả đều từ Hòa Điền (Khotan) thuộc Tân Cương ngày nay. Từ rất sớm, khoảng giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên thì người Nguyệt Chi đã tham gia vào việc buôn bán ngọc bích, trong đó những người tiêu dùng chủ yếu là các vị vua của nước Trung Hoa nông nghiệp”.
Người Nguyệt Chi cũng được đề cập chi tiết trong các sử sách Trung Hoa, cụ thể là trong “Sử Ký” (thế kỷ 2-1 TCN) của Tư Mã Thiên. Theo các tài liệu này, “người Nguyệt Chi ban đầu sống trong khu vực giữa Kỳ Liên Sơn (hoặc Thiên Sơn) và Đôn Hoàng” (Sử Ký, 123), tương ứng với nửa phía đông của lòng chảo Tarim và phần phía bắc của Cam Túc.
Người Nguyệt Chi có thể là những người thuộc đại chủng Kavkaz, như được chỉ ra bởi các chân dung của các vị vua trên các đồng tiền họ đã đúc ra sau khi di cư tới Transoxiana (thế kỷ 2-thế kỷ 1 TCN), và đặc biệt là các đồng tiền họ đúc tại Ấn Độ khi cai trị vương triều Quý Sương (thế kỷ 1-thế kỷ 3). Tuy nhiên, không có các ghi chép trực tiếp nào về tên gọi của các vị vua Nguyệt Chi, và các chân dung trên những đồng tiền đầu tiên của họ có thể không chính xác.
Các nguồn tư liệu của người Trung Hoa cổ đại đã miêu tả sự tồn tại của “người da trắng với tóc dài” (Người Bạch trong Sơn Hải Kinh) bên ngoài biên giới phía tây bắc của họ, và các xác ướp Tarim được bảo quản khá tốt với các đặc trưng của người Kavkaz, thường với tóc hung vàng hoặc nâu đỏ, hiện nay được trưng bày tại viện bảo tàng Ürümqi (Ô Lỗ Mộc Tề) và có niên đại khoảng thế kỷ 3 TCN, đã được tìm thấy trong cùng một khu vực của lòng chảo Tarim.
Các ngôn ngữ Tochari Ấn-Âu cũng đã được chứng thực trong cùng một khu vực địa lý. Mặc dù chứng cứ chữ khắc đầu tiên hiện đã biết chỉ có niên đại vào khoảng thế kỷ 6, nhưng mức độ phân hóa giữa tiếng Tochari A và Tochari B cũng như sự thiếu vắng các dấu tích của tiếng Tochari bên ngoài khu vực này đều có xu hướng chỉ ra rằng tiếng Tochari chung đã từng tồn tại trong cùng khu vực định cư của người Nguyệt Chi trong nửa sau của thiên niên kỷ 1 TCN.
Theo một giả thuyết, người Nguyệt Chi có lẽ là một phần của nhóm lớn những người di cư nói các thứ tiếng thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, đã từng định cư ở miền đông khu vực Trung Á (có thể xa tới tận Cam Túc) vào thời gian đó. Một ví dụ khác là các xác ướp của người Kavkaz tại Pazyryk, có lẽ có nguồn gốc là người Scythia, nằm cách khu vực của người Nguyệt Chi khoảng 1.500 km về phía tây bắc và có niên đại khoảng thế kỷ 3 TCN.
Theo các tài liệu thời nhà Hán, người Nguyệt Chi “đã rất phồn thịnh” trong thời gian trị vì của vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tần, nhưng họ thường xuyên có mâu thuẫn với bộ lạc láng giềng là người Hung Nô ở phía đông bắc.
Di cư của người Nguyệt Chi
Người Nguyệt Chi đôi khi cũng thực hiện việc trao đổi con tin với người Hung Nô, và từng có thời cầm giữ Mặc Đốn, con trai của vị thủ lĩnh Hung Nô. Mặc Đốn đã lấy trộm một con ngựa và bỏ trốn khi người Nguyệt Chi định giết ông để trả đũa cho cuộc tấn công của cha ông này. Mặc Đốn sau này trở thành vua Hung Nô sau khi giết cha mình.
Vào khoảng năm 177 TCN, được một thủ lĩnh một bộ lạc của Mặc Đốn chỉ huy thì người Hung Nô đã đánh vào lãnh thổ của người Nguyệt Chi tại khu vực Cam Túc và đã giành được một thắng lợi quan trọng. Mặc Đốn khoe khoang trong một bức thư gửi cho hoàng đế nhà Hán rằng, do “sự tuyệt vời của các chiến binh, và sức mạnh của bầy ngựa của mình, ông đã giành thắng lợi trong việc tiêu diệt người Nguyệt Chi, tàn sát hoặc ép phục tùng toàn bộ bộ lạc này”. Con trai của Mặc Đốn, Kê Chúc, sau đó đã sát hại vua của người Nguyệt Chi và theo truyền thống của những bộ lạc du cư, “đã làm chiếc cốc uống từ đầu lâu ông này”.
Theo các sử liệu Trung Quốc, một phần lớn người Nguyệt Chi vì thế đã nằm dưới sự thống trị của nguời Hung Nô, và họ có thể là tổ tiên của những người nói tiếng Tochari đã được chứng thực vào thế kỷ 6. Một nhóm rất nhỏ người Nguyệt Chi chạy về phía nam tới lãnh thổ của người Khương, và được người Trung Quốc biết đến như là “Tiểu Nguyệt Chi”. Theo Hán thư, họ chỉ có khoảng 150 gia đình.
Cuối cùng, một nhóm lớn người Nguyệt Chi đã chạy khỏi khu vực lòng chảo Tarim/ Cam Túc về phía tây bắc, đầu tiên định cư tại thung lũng Ili, ngay phía bắc dãy núi Thiên Sơn, tại đó họ phải đương đầu và đánh bại người Sai (Sakas hay người Scythia): “Người Nguyệt Chi tấn công vua của người Sai, người đã di chuyển một khoảng cách đáng kể về phía nam và người Nguyệt Chi sau đó đã chiếm đất của ông ta” (Hán Thư 61 4B). Người Sai cũng phải di cư, và họ đã tới Kashmir, sau khi vượt qua “chỗ vượt lơ lửng” (có lẽ là đèo Khunjerab giữa Tân Cương và miền bắc Pakistan ngày nay). Người Sakas cuối cùng đã thành lập ra vương quốc Ấn Độ-Scythia ở miền bắc Ấn Độ ngày nay.
Sau năm 155 TCN, người Ô Tôn, liên kết với người Hung Nô và để trả thù cho các mâu thuẫn trước đây, đã xua đuổi người Nguyệt Chi và ép họ phải chạy về phía nam. Người Nguyệt Chi đã vượt qua khu vực văn minh đô thị láng giềng là Đại Uyên tại Ferghana, và định cư trên bờ phía bắc của sông Oxus, trong khu vực của Transoxiana, ngày nay thuộc Tajikistan và Uzbekistan, chỉ ngay phía bắc của Vương quốc Hy Lạp-Bactria. Thành phố Alexandria trên sông Oxus của người Hy Lạp dường như đã bị người Nguyệt Chi đốt cháy hoàn toàn vào khoảng năm 145 TCN.
Định cư tại Transoxiana
Một phái bộ Trung Quốc, do Trương Khiên chỉ huy đã đến nơi ở của người Nguyệt Chi vào năm 126 TCN, với mục đích tìm kiếm một liên minh với người Nguyệt Chi để chống lại mối đe dọa từ người Hung Nô ở phía bắc. Mặc dù đề nghị lập liên minh đã bị con trai của vị vua Nguyệt Chi (bị giết trước kia) từ chối, ông này mong muốn duy trì hòa bình tại Transoxiana hơn là trả thù, nhưng Trương Khiên đã lập được bản báo cáo chi tiết (được ghi nhận trong Sử Ký), tạo điều kiện cho người ta hiểu rõ hơn tình hình ở Trung Á vào thời gian đó.
Trương Khiên, người đã lưu lại Nguyệt Chi và Đại Hạ trong một năm, thuật lại rằng “Đại Nguyệt Chi sống cách Đại Uyên (Fergana) khoảng 2.000 hoặc 3.000 lí (1.000-1.500 km) về phía tây, về phía bắc của sông Gui (Oxus). Họ có biên giới phía nam với Đại Hạ (Bactria), về phía tây với An Tức (Parthia), và về phía bắc với Khang Cư (Hazrat-e Turkestan – thuộc trung Jaxartes). Họ là các bộ lạc du cư, đi từ nơi này tới nơi khác thành đoàn, và tập quán của họ là tương tự như của người Hung Nô. Họ có khoảng 100.000 hay 200.000 cung thủ”.
Mặc dù họ vẫn luôn ở phía bắc sông Oxus, nhưng dường như họ đã có được sự phục tùng từ phía Vương quốc Hy Lạp-Bactria ở phía nam sông Oxus. Người Nguyệt Chi tổ chức thành 5 bộ lạc chính, mỗi bộ lạc do một yabgu đứng đầu, và được người Trung Quốc gọi là Hưu Mật ở Tây Wakhān và Zibak, Quý Sương ) ở Badakhshan và các lãnh thổ cận kề ven sông Oxus, Song Mĩ trong khu vực Shughnan, Hật Đốn trong khu vực Balk, và Đô Mật trong khu vực Termez.
Miêu tả về vương quốc Đại Hạ (Hy Lạp-Bactria) của Trương Khiên sau khi vương quốc này bị người Nguyệt Chi xâm chiếm:
“Đại Hạ nằm cách Đại Uyên trên 2.000 lí về phía tây nam, phía nam sông Gui (Oxus). Người dân quốc gia này canh tác đất và có các thành phố và nhà cửa. Tập quán của họ là tương tự như của Đại Uyên. Họ không có người cai trị vĩ đại mà chỉ có các thủ lĩnh nhỏ cai quản các thành phố khác nhau. Người dân là kém cỏi trong việc sử dụng vũ khí và sợ đánh trận, nhưng họ lại thông minh trong buôn bán. Sau khi người Đại Nguyệt Chi chuyển về phía tây và tấn công các vùng đất, thì toàn bộ quốc gia này nằm dưới sự thống trị của họ. Dân số của nước này khá lớn, ước khoảng 1.000.000 hoặc hơn. Kinh đô của họ là thành phố Lanshi (Bactra) và có chợ mà ở đó mọi thứ hàng hóa được mua và bán”. (“Sử Ký”, Tư Mã Thiên, phần về Trương Khiên)
Xâm chiếm Đại Hạ (Bactria)
Năm 124 TCN người Nguyệt Chi dường như đã tham dự vào cuộc chiến chống lại người Parthia, trong đó vua Parthia Artabanus I đã bị thương và chết:
“Trong cuộc chiến chống lại người Tokhari, ông (Artabanus) đã bị thương vào tay và chết ngay lập tức” (Justin, Epitomes, XLII,2,2)
Một thời gian sau năm 124 TCN, có lẽ bị rối loạn bởi sự xâm nhập của các kẻ thù từ phương bắc, và dường như bị vua Parthia, người kế nghiệp của vua Artabanus, Mithridates II đánh bại nên người Nguyệt Chi đã di chuyển xuống phía nam tới Bactria. Bactria đã bị những người Macedonia dưới sự chỉ huy của Alexandros Đại Đế xâm chiếm vào năm 330 TCN và kể từ đó vùng này đã được những người thuộc Vương quốc Seleukos và vương quốc Hy Lạp-Bactria thuộc nền văn minh Hy Lạp định cư trong hai thế kỷ.
Sự kiện này được ghi chép trong các nguồn sử liệu Hy Lạp cổ điển, khi Strabo gọi họ là bộ lạc người Scythia, và giải thích rằng người Tokhari—cùng với người Assianis, Passianis và Sakaraulis—đã cùng nhau phá huỷ vương quốc Hy Lạp-Bactria trong nửa sau của thế kỷ 2 TCN:
“Phần lớn người Scythia, bắt đầu từ biển Caspi, được gọi là Dahae Scythae, và những người sống xa hơn về phía đông là người Massagetae và người Sacae; phần còn lại có tên gọi chung là người Scythia, nhưng mỗi bộ lạc riêng rẽ đều có tên riêng biệt. Tất cả, hoặc phần lớn trong số họ, là những người du cư. Những bộ lạc được biết đến nhiều nhất là những người đã lấy đi Bactria của người Hy Lạp, đó là người Asii, Pasiani, Tochari, và Sacarauli, những người đã đến đây từ quốc gia ở phía bên kia sông Jaxartes, đối diện với Sacae và Sogdian.”(Strabo, 11-8-1)
Vị vua cuối cùng của vương quốc Hy Lạp-Bactria là Heliocles I đã phải rút lui và chuyển kinh đô của mình tới thung lũng Kabul. Phần phía đông của Bactria đã bị người Pashtun xâm chiếm.
Do họ bắt đầu định cư tại Bactria vào khoảng năm 125 TCN, nên người Nguyệt Chi bắt đầu bị Hy Lạp hóa ở một mức độ nào đó, chẳng hạn việc chấp nhận các chữ cái Hy Lạp và việc sử dụng đồng tiền, được đúc theo kiểu của của các vua Hy Lạp-Bactria, với các chữ viết trên đó bằng tiếng Hy Lạp. Khu vực của Bactria mà họ định cư trở thành Tokharistan, do người Nguyệt Chi được người Hy Lạp gọi là “người Tochari”.
Các quan hệ thương mại với Trung Quốc cũng đã rất phồn thịnh, nhiều phái bộ Trung Quốc đã được gửi đi trong suốt thế kỷ 1 TCN: “Lớn nhất trong số các đoàn sứ giả ra ngoại quốc có số lượng lên tới vài trăm người, trong khi thậm chí các nhóm nhỏ hơn cũng có trên 100 thành viên… Trong cả năm từ bất kỳ nơi nào đó cũng có từ 5 tới 6 hay tới trên 10 nhóm đã được gửi đi”. (Sử Ký).
Hậu Hán Thư cũng ghi lại cuộc viếng thăm của phái đoàn người Nguyệt Chi tới kinh đô của Trung Quốc vào năm 2 TCN, những người này đã giảng dạy bằng miệng về các kinh của Phật giáo cho nhiều người Hán, điều này nêu ra giả thuyết là một số người Nguyệt Chi đã theo các niềm tin của Phật giáo từ thế kỷ 1 TCN (Baldev Kumar (1973)).
Bản chú giải của của Zhang Shoujie sau này trong thế kỷ 7, trích dẫn từ Nanzhouzhi (văn bản từ thế kỷ 3, hiện đã mất) miêu tả người Quý Sương như là những người sống trong cùng một khu vực chung ở miền bắc Ấn Độ, trong các thành thị kiểu La Mã-Hy Lạp, và với nghề thủ công tinh xảo. Người Trung Quốc chưa bao giờ chấp nhận thuật ngữ “Quý Sương”, và vẫn tiếp tục gọi họ là “người Nguyệt Chi”:
“Đại Nguyệt Chi nằm ở khoảng 7 ngàn lí (2.500-3.000 km) về phía bắc Ấn Độ. Đất đai của họ nằm ở các cao độ lớn; khí hậu khô; khu vực này hoang vắng. Vua của nước này tự xưng là “con trời”. Tại nước này có nhiều ngựa để cưỡi với số lượng thường là đạt tới vài trăm ngàn. Bề ngoài các thành thị và cung điện là hoàn toàn tương tự như của Đại Tần (tên gọi cổ của người Trung Quốc để chỉ đế chế La Mã và Cận Đông). Da của những người này là trắng hồng. Những người này giỏi bắn cung và cưỡi ngựa. Các sản phẩm địa phương, sản vật hiếm, châu báu, quần áo và màn thảm là rất tốt, và thậm chí cả Ấn Độ cũng không thể so sánh với họ”.
Bành trướng vào Hindu-Kush
Khu vực Hindu-Kush (Paropamisadae) đã được các vị vua người Ấn Độ-Hy Lạp miền tây cai trị cho đến khi có sự trị vì của Hermaeus (trị vì từ khoảng 90 TCN–70 TCN). Sau thời gian này, không còn vị vua người Ấn Độ-Hy Lạp nào được biết đến nữa trong khu vực, có lẽ là do sự chiếm đóng của người Nguyệt Chi láng giềng, những người đã có quan hệ với người Hy Lạp trong một thời gian dài. Theo Bopearachchi, không có dấu vết nào của sự cư ngụ của người Ấn Độ-Scythia (không có các đồng tiền của các vị vua chính của người Ấn Độ-Scythia, chẳng hạn như Maues hoặc Azes I) được tìm thấy trong khu vực Paropamisadae và miền tây Gandhara.
Giống như họ đã làm ở Bactria với việc sao chép các đồng tiền Hy Lạp-Bactria, người Nguyệt Chi cũng đã sao chép các đồng tiền của Hermeaus ở mức độ lớn, tới khoảng năm 40, khi kiểu thiết kế pha trộn thành đồng tiền của vua Quý Sương Kujula Kadphises.
Hoàng thân đầu tiên của người Nguyệt Chi được ghi chép là Sapadbizes (có lẽ là hoàng thân của yabgu trong liên minh Nguyệt Chi), người trị vì khoảng năm 20 TCN, và được đúc hình trên các đồng tiền với các chữ Hy Lạp, cùng một kiểu như các vị vua Ấn -Hy Lạp miền tây.
Thành lập vương triều Quý Sương
Vào cuối thế kỷ 1 TCN, một trong năm bộ lạc của người Nguyệt Chi, người Quý Sương , đã nắm quyền kiểm soát liên minh Nguyệt Chi. Theo một số giả thuyết, người Quý Sương có thể không giống như người Nguyệt Chi, có lẽ là có nguồn gốc từ người Saka. Từ thời điểm này, người Nguyệt Chi mở rộng sự kiểm soát của họ ra các lãnh thổ miền tây bắc của tiểu lục địa Ấn Độ, thành lập ra Đế chế Quý Sương, đã cai trị khu vực này trong vài thế kỷ. Người Nguyệt Chi được các nền văn minh phương Tây biết đến như là người Quý Sương, tuy nhiên, người Trung Quốc vẫn gọi họ là người Nguyệt Chi trong các văn kiện sử sách của họ trong một giai đoạn vài thế kỷ.
Người Nguyệt Chi/ Quý Sương mở rộng về phía đông trong thế kỷ 1, để thành lập đế chế Quý Sương. Vị vua đầu tiên của Quý Sương là Kujula Kadphises đã gắn liền bề ngoài của chính ông với Hermaeus trên các đồng tiền của mình, gợi ý rằng ông là một trong số các hậu duệ của ông này thông qua hôn nhân, hoặc ít nhất là muốn thông báo về quyền hợp pháp của mình.
Sự thống nhất của các bộ lạc Nguyệt Chi và sự lớn mạnh của Quý Sương được ghi chép trong sử sách Trung Quốc như Hậu Hán Thư:
“Hơn một trăm năm sau, hấp hậu của Quý Sương (Badakhshan và các lãnh thổ cận kề ở phía bắc sông Oxus), tên là Khâu Tựu Khước ( Kujula Kadphises) đã tấn công và tiêu diệt bốn hấp hậu khác. Ông tự mình làm vua của vương quốc gọi là Quý Sương (Kushan). Ông xâm chiếm An Tức (Parthia) và chiếm khu vực Cao Phụ (- tức Kabul). Ông cũng đánh bại toàn bộ các vương quốc Puta (Parthuaia, 55) và Kế Tân (Kapisa-Peshawar). Khâu Tựu Khước (Kujula Kadphises) đã ngoài 80 tuổi khi chết.
Con trai ông, Diêm Cao Trân () (Vima Takto), trở thành vua tại cung điện của ông. Ông đã trở lại và đánh bại Thiên Trúc (Tây bắc Ấn Độ) và lập ra chức Tổng trấn để kiểm soát và lãnh đạo nó. Người Nguyệt Chi sau đó trở nên rất giàu. Tất cả các vương quốc gọi [vua của họ] là vua Quý Sương (Kushan), nhưng nhà Hán gọi họ theo tên nguyên thủy của họ là Đại Nguyệt Chi”. (Hậu Hán Thư).
Người Nguyệt Chi/Quý Sương đã kết hợp Phật giáo vào trong các đền thờ của nhiều vị thần, họ trở thành những người khởi xướng chính của Phật giáo Đại thừa, và các ảnh hưởng tương tác của họ với nền văn minh Hy Lạp đã giúp cho nền văn hóa Gandhara và Hy Lạp-Phật giáo thịnh vượng.
Trong thế kỷ 1 và 2, Vương triều Quý Sương đã mở rộng các chiến dịch quân sự về phía bắc và chiếm đóng các phần của lòng chảo Tarim, vùng đất ban đầu của họ, đặt nó vào trung tâm của thương mại Trung Á đang sinh lợi với Đế chế La Mã. Họ có liên quan đến việc liên kết quân sự với người Trung Quốc để chống lại sự xâm nhập của các bộ lạc du cư, cụ thể là khi họ liên kết với tướng Trung Quốc là Ban Siêu để chống lại người Sogdian năm 84, khi những người này cố gắng ủng hộ cuộc nổi dậy của vua Kashgar. Khoảng năm 85, họ cũng hỗ trợ người Trung Quốc trong cuộc tấn công Thổ Phồn, ở miền đông lòng chảo Tarim.
Để đòi hỏi sự ghi nhận việc ủng hộ của mình với người Trung Quốc, người Quý Sương đã đòi hỏi (nhưng bị từ chối) các công chúa người Hán, ngay sau khi họ gửi các tặng phẩm cho triều đình Trung Quốc. Để trả thù, họ đã tấn công Ban Siêu năm 86 bằng một lực lượng tới 70.000 quân, nhưng, bị mệt mỏi do cuộc hành quân, cuối cùng họ đã bị lực lượng Trung Quốc ít người hơn đánh bại. Người Quý Sương phải rút lui và cống nộp cho hoàng đế Trung Hoa trong thời gian trị vì của Hán Hòa Đế (89-106).
Sau này, người Nguyệt Chi/Quý Sương đã thành lập một vương quốc đóng đô ở Kashgar vào khoảng năm 120, giới thiệu văn tự Brahmi, tiếng Prakrit của người Ấn Độ để quản lý, và nghệ thuật Hy Lạp-Phật giáo đã phát triển thành nghệ thuật Serindia.
Thu được lợi từ việc mở rộng lãnh thổ, người Nguyệt Chi/Quý Sương đã nằm trong số những người đầu tiên đưa Phật giáo vào miền bắc và đông bắc châu Á, bằng các cố gắng truyền giáo trực tiếp cũng như việc dịch các kinh sách của Phật giáo sang tiếng Trung. Các nhà truyền giáo và dịch giả lớn như Lokaksema (Chi Lâu Già Sấm) và Dharmaraksa (Trúc Pháp Hộ), là những người đã tới Trung Quốc và lập ra các cụm dịch thuật, bằng cách đó nằm ở trung tâm của Con đường tơ lụa trong chuyển giao của Phật giáo.
Người Trung Quốc giữ việc gọi người Quý Sương như là người Đại Nguyệt Chi trong nhiều thế kỷ. Trong Tam Quốc Chí ( chương 3), người ta ghi chép rằng năm 229 “Vua Đại Nguyệt Chi, Ba Điều ( Vasudeva I), đã gửi phái bộ của mình đến nộp cống phẩm, và Bệ hạ (Hoàng đế Tào Duệ- tức Ngụy Minh Đế) đã ban cho ông ta tước hiệu “Vua Đại Nguyệt