18/06/2018, 15:35

Lịch sử Triều Tiên

Lịch sử Triều Tiên kéo dài từ thời kỳ đồ đá cũ đến ngày nay. Theo Tam quốc di sự (Samguk Yusa) và một số tư liệu thời trung cổ Triều Tiên, lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Triều Tiên, trãi dài từ bán đảo Triều Tiên đến phần lớn miền Nam Mãn Châu, bắt đầu từ năm 2333 TCN dưới thời Cổ ...

Lịch sử Triều Tiên kéo dài từ thời kỳ đồ đá cũ đến ngày nay. Theo Tam quốc di sự (Samguk Yusa) và một số tư liệu thời trung cổ Triều Tiên, lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Triều Tiên, trãi dài từ bán đảo Triều Tiên đến phần lớn miền Nam Mãn Châu, bắt đầu từ năm 2333 TCN dưới thời Cổ Triều Tiên (2333–108 TCN). Những dấu tích của loài người trên vùng đất này thì có từ sớm hơn nữa, cách đây hơn 70 vạn năm.

Sau sự tan rã của Cổ Triều Tiên, Triều Tiên bước vào thời kỳ phân tranh quyền lực mà đỉnh điểm là thời Tam quốc phân tranh gồm 3 nước Cao Câu Ly (Goguryeo), Bách Tế (Baekje) và Tân La (Silla) kéo dài từ năm 57 TCN đến năm 668 sau công nguyên (SCN). Đến năm 676, Tân La thống nhất hầu hết bán đảo Triều tiên. Trong khi đó, bộ hạ của nhà Cao Câu Ly thành lập vương quốc Bột Hải ở bắc bán đảo Triều Tiên vào năm 698. Năm 926, Bột Hải bị người Khiết Đan thôn tính; Triều Tiên lại rơi vào thời kỳ phân tranh Hậu Tam Quốc (892–935) với 3 nhà nước Hậu Cao Câu Ly, Tân La, Hậu Bách Tế.

Nhà Cao Ly (918-1392) chấm dứt sự phân chia bán đảo Triều Tiên kéo dài gần 1000 năm sau công cuộc giành vương quyền Hậu Cao Câu Ly và thôn tính Tân La, Hậu Bách Tế. Năm 1392, Cao Ly sụp đổ và được thay thế bởi nhà Triều Tiên (1392–1897) và sau đó là Đế quốc Đại Hàn (1897–1910) trước khi bị người Nhật thôn tính vào năm 1910.

Sau Đệ nhị Thế chiến, Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh vào năm 1945, Triều Tiên bị chia cắt làm hai với ranh giới là vĩ tuyến 38: Miền Bắc – CHDCND Triều Tiên theo chính thể cộng sản và Miền Nam – Đại Hàn Dân Quốc theo chính thể tư bản. Hai bên đã đối đầu trực tiếp với nhau trong cuộc chiến Triều Tiên năm 1950 và vẫn duy trì tình trạng chiến tranh đến ngày nay.

Các quốc gia Triều Tiên cổ đại

Three_Kingdoms_of_Korea_Map

1. Go Chosun (Triều Tiên cổ) – quốc gia cổ đại đầu tiên trên bán đảo Hàn

Go Chosun (Triều Tiên cổ) là quốc gia cổ đại đầu tiên của dân tộc Hàn, được hình thành dựa trên nền tảng văn hóa thời kỳ đồ đồng. Triều Tiên cổ trải qua những thay đổi về mặt chính trị và văn hóa từ Dangun Chosun (Đàn Quân Triều Tiên) đến Kija Chosun (Cơ Tử Triều Tiên) và cuối cùng là Wiman Chosun (Vệ Mãn Triều Tiên).

1.1. Dangun Chosun (khoảng từ năm 2333 TCN – năm 1122 TCN)

Dangun (Đàn Quân) thống nhất các bộ tộc ở phía Tây Bắc bán đảo Hàn và vùng Yoryeong Manju (Liêu Ninh Mãn Châu) rồi dựng lên nước Go Chosun (Triều Tiên cổ). Một số sách sử cũng có đề cập tới sự kiện này. Sách Ngụy thư [1] ghi rằng: “2000 năm trước, có Dangun Wangkeom (Đàn Quân Vương Kiệm) lập đô ở A Sa Dal (A Tư Đạt), đặt tên nước là Chosun (Triều Tiên), cùng thời với vua Cao Nghiêu (Trung Quốc). Sách Cổ ký ghi rằng: Dangun Wangkeom (Đàn Quân Vương Kiệm) lên ngôi vua vào năm Canh Dần đời Đường Cao Nghiêu năm thứ 50[2]. Ngài lập kinh đô ở Pyeong Yang (Bình Nhưỡng), đặt tên nước từ đầu là Chosun (Triều Tiên), sau lại dời đô về A Tư Đạt vùng núi Bạch Nhạc. Ngài cai trị đất nước ở Beak Ak San (núi Bạch Nhạc) 1500 năm.

1.2. Kija Chosun (khoảng từ năm 1122 TCN – năm 194 TCN)

Sách Cổ ký ghi rằng: Chu Vũ Vương lên ngôi năm Kỷ Mão và phong đất Triều Tiên cho Kija (Cơ Tử). Đây được coi là thời kỳ Kija Chosun (Cơ Tử Triều Tiên). Tuy nhiên, thời kỳ này được nhận định là khó có thực trong lịch sử nên đa số các học giả thời hiện đại đều loại bỏ thời kỳ Cơ Tử Triều Tiên ra khỏi lịch sử Triều Tiên cổ.

1.3. Wiman Chosun (khoảng từ năm 194 TCN – 108 TCN)

Vào khoảng thế kỷ thứ 2 TCN, Wiman (Vệ Mãn) hình thành thế lực ở vùng phía Tây, đánh đuổi Joon Wang (Chuẩn Vương) rồi trở thành vua của nước Triều Tiên cổ (năm 194 TCN). Sau khi thống nhất các bộ tộc xung quanh rồi nhanh chóng mở rộng thế lực của mình, Triều Tiên cổ trở nên cường thịnh và có ý chống đối nhà Hán. Nhà Hán đưa quân sang tấn công và Triều Tiên cổ bị diệt vong vào năm 108 TCN. Sau khi bình định được Triều Tiên, nhà Hán đặt bốn quận là Chin Beon (Chân Phan), Im Doon (Lâm Đồn), Nak Rang (Lạc Lãng), Hyeon To (Huyền Thố).

2. Các quốc gia mới

Bước vào thời kỳ đồ sắt[3], việc chuyên môn hóa công việc và phân tầng giai cấp trong xã hội trở nên rõ nét hơn. Thời kỳ này, bộ tộc nào giỏi sử dụng đồ sắt thì có khả năng tăng cường thế lực của mình và phát triển thành một quốc gia. Theo đó, ở Mãn Châu và phía Bắc cũng như phía Nam bán đảo Hàn xuất hiện các quốc gia mới.

2.1. Sự xuất hiện của các quốc gia mới

Các quốc gia mới bao gồm: Buyeo (Phù Dư) và Goguryeo (Cao Cú Lệ) ở vùng Mãn Châu; Okjeo (Ốc Thư) và Dongye (Đông Uế) ở bờ biển Đông Hải, phía Bắc bán đảo Hàn và Tam Hàn (gồm Mã Hàn, Thìn Hàn, Biện Hàn) phát triển ở vùng phía Nam bán đảo Hàn. Ma Han (Mã Hàn) gồm 54 nước nhỏ. Hai nước Jinhan (Thìn Hàn) và Byeonhan (Biện Hàn) mỗi nước có 12 thuộc quốc.[4] Sách Thông điển ghi rằng:

“Dân Triều Tiên phân tán, chia thành hơn bảy mươi nước, tất cả các nước này đều có lãnh thổ bốn phương hàng trăm dặm”.

Sách Hậu Hán thư[5] chép: “Tây Hán lúc đầu chia Triều Tiên ra làm 4 quận, sau đó đặt hai phủ. Luật pháp ngày càng phức tạp, chia thành bảy mươi tám nước, mỗi nước một vạn hộ. Mã Hàn ở phía Tây, có khoảng 54 ấp nhỏ và mỗi ấp được gọi là một nước. Thìn Hàn ở phía Đông, có 12 ấp nhỏ, cũng gọi là nước. Còn Biện Hàn ở phía Nam, có 12 ấp nhỏ, mỗi ấp đều gọi là nước”.

Sách Tiền Hán thư chép: “Năm thứ 5 niên hiệu Thủy Nguyên đời vua Chiêu Đế, tức năm Kỷ Hợi (năm thứ 82 trước Công nguyên) đặt hai ngoại phủ là đất Triều Tiên xưa”. Cụ thể là Pyung Na (Bình Na) và Huyền Thố thuộc về Bình châu đô úy phủ, Lâm Đồn và Lạc Lãng thì thuộc về quận thứ hai gọi là Đông bộ đô úy phủ. Trong Triều Tiên truyện có ghi 4 quận là Chân Phin, Huyền Thố, Lâm Đồn, Lạc Lãng, còn ở đây thì ghi Bình Na mà không có Chân Phiên nên có thể là một địa danh có hai tên”.

2.2. Cơ cấu chính trị của các quốc gia mới

Theo quá trình phát triển, mỗi nước có cơ cấu tổ chức chính trị đặc thù của riêng mình. Phù Dư và Cao Cú Lệ là liên minh vương quốc, gồm tập hợp của nhiều bộ tộc. Ở Phù Dư, dưới vua có các chức quan, như: Maka (Mã gia), Wooka (Ngưu gia), Jeoka (Trư gia), Guka (Cẩu gia)…

Cao Cú Lệ được hình thành bởi liên minh 5 bộ tộc, theo đó, ở giai đoạn đầu, sức mạnh tập trung trong tay các tộc trưởng nên quyền lực nhà vua không lớn. Ở Ốc Thư và Đông Uế, người cầm quyền không sử dụng danh xưng là “wang” (vương) mà được gọi là Eupgun (Ấp quân) hay Samno (Tam lão).

Ở Tam Hàn, mỗi một nước nhỏ đều có người đứng đầu điều hành chính sự, gọi là Eupcha (Ấp tá). Ngoài người lãnh đạo về chính trị còn có chủ tế  là người chuyên cai quản các nghi thức tế lễ.

2.3. Pháp luật và phong tục của các quốc gia mới

Mỗi nước đều có tập quán xã hội, tín ngưỡng tôn giáo và pháp luật riêng. Để duy trì xã hội, các nước đều có những điều luật cơ bản liên quan đến tội sát nhân, trộm cắp, … giống luật của Triều Tiên cổ. Ở Phù Dư, có phong tục tuẫn táng hoặc chôn theo đồ tùy táng. Người Cao Cú Lệ rất coi trọng võ nghệ nên thường giỏi việc bắn cung, cưỡi ngựa; trong nước thường tổ chức những cuộc thi săn bắn hoặc đấu vật để rèn luyện thân thể.

Ngoài ra, ở Cao Cú Lệ còn có tục ở rể hay tục chôn vàng, bạc trong quan tài. Ngôn ngữ và phong tục của Ốc Thư và Đông Uế tương đối giống Cao Cú Lệ. Ở Ốc Thư, đất đai màu mỡ, nghề nông phát triển nên thường phải cống nạp những đặc sản như vải gai, muối, hải sản… cho Cao Cú Lệ.

Ở đây còn có tập tục đón con dâu từ khi còn nhỏ tuổi và tục chôn hài cốt của những người trong cùng một gia đình vào chung một nơi. Người Đông Uế rất coi trọng núi non, sông suối nên mỗi bộ tộc đều sở hữu những ngọn núi hoặc dòng suối riêng, nghiêm cấm người của bộ tộc khác ra vào. Nếu ai vi phạm thì phải bồi thường bằng trâu, bò, ngựa. Ở Đông Uế có luật lệ cấm những người trong cùng thị tộc kết hôn với nhau. Ở Tam Hàn, nghề nông rất phát triển, đặc biệt là trồng lúa. Ở Biện Hàn, việc sản xuất đồ sắt rất phát triển, họ thường bán sang Mã Hàn, các quận huyện của nhà Hán và Nhật Bản. 

Lương Hồng Hạnh

Tham khảo:

http://ko.wikipedia.org/wiki/ http://www.gnedu.net/

Theo sách Tam quốc di sự, nhà sư Nhất Nhiên.

Theo Lịch sử Hàn Quốc, Bộ giáo trình Hàn Quốc học số 1 SNU – VNU, Đại học Quốc gia Seoul/ Đại học Quốc gia

Chú thích:

[1] Sách Ngụy thư do Ngụy Thu thời Bắc Tề (550-577) soạn.

[2] Đường Cao Nghiêu lên ngôi năm Mậu Thìn nguyên niên thì năm thứ 50 là năm Đinh Tỵ, không phải là năm Canh Dần, nghi là không đúng sự thực.

[3] Đồ sắt bắt đầu phổ biến trên bán đảo Hàn vào khoảng thế kỷ thứ 5 TCN. Mới đầu, đồ sắt được sử dụng xen kẽ với đồ đồng rồi đến khoảng thế kỷ thứ 1 TCN, đồ sắt ngày càng trở nên phổ biến hơn.

[4] Choi Ji Won (Thôi Chí Viễn) nói rằng: “Mã Hàn là Cao Cú Lệ, Thìn Hàn là nước Tân La”. 

[5] Sách do Phạm Hoa thời Nam Tống viết về lịch sử 196 năm của 12 hoàng đế Hậu Hán.

Nhà nước Silla và Balhea

Vào giữa thế kỷ thứ 6, vương quốc Silla đã xâm chiếm và cai quản vương quốc Gaya láng giềng, một vương quốc gồm các thành quốc mạnh phát triển ở khu vực đông nam bán đảo từ giữa thế kỷ thứ nhất đến giữa thế kỷ thứ 6. Vương quốc Silla cũng đã liên minh quân sự với nhà Đường của Trung Quốc nhằm chinh phục các vương quốc Goguryeo và Baekje.

Nhưng sau đó, Silla đã chiến đấu chống lại nhà Đường khi nhà Đường để lộ tham vọng sáp nhập lãnh thổ Goguryeo và Baekje.  Silla đã đẩy lùi Trung Quốc vào năm 676. Sau đó vào năm 698, những người dân trước đây của vương quốc Goguryeo sống tại khu vực trung nam Mãn Châu lý đã lập nên vương quốc Balhae. Balhae bao gồm không chỉ những người dân của vương quốc Goguryeo mà còn một số lớn dân vùng Malgal. 

Balhae đã thiết lập một hệ thống chính phủ với trung tâm là năm thủ phủ địa phương, đây là mô hình dựa trên cơ cấu hành chính của vương quốc Goguryeo. Vương quốc Balhae đạt đến đỉnh cao của thịnh vượng trong nửa đầu thế kỷ 9 với việc xâm chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn từ sông Amur ở miền Bắc, sông Kaiyuan ở trung nam Mãn Châu lý cho tới phía tây. Quốc gia này cũng thiết lập quan hệ ngoại giao với Thổ Nhĩ Kỳ và Nhật Bản.

Balhae tồn tại đến năm 926, khi nước này bị người Khitan lật đổ. Sau đó người dân trên bán đảo Hàn đã di chuyển xuống miền Nam sinh sống tại vương triều Goryeo mới được thành lập.  Silla thống nhất bán đảo Hàn vào năm 668 và đạt tới đỉnh cao của quyền lực và sự thịnh vượng vào giữa thế kỷ 8. Vương quốc này đã nỗ lực thiết lập một đất nước Phật giáo. Đền Bulguka được xây dựng trong thời kỳ này.

Tuy nhiên, quốc gia tôn sùng đạo Phật này đã bắt đầu rơi vào tình trạng kém phát triển do giới quý tộc tự cho phép sống cuộc sống quá xa xỉ. Ngoài ra, cũng có những xung đột giữa các nhà lãnh đạo địa phương đòi quyền lực đối với hai quốc gia bị chiếm đóng là Goguryeo và Baekje. Năm 935, vua Silla chính thức quy phục vương triều mới được thành lập là Goguryeo.

Nhóm website CKS -Tổng hợp từ các tài liệu lưu tại TTNCHQ

Nhà nước Gojosun

goguryeo

Nước Gojosun (Triều Tiên cổ) trải qua những thay đổi về mặt chính trị từ Dangun Chosun đến Kija Chosun và cuối cùng là Wiman Chosun. Cùng với sự thay đổi về mặt chính trị là sự thay đổi về mặt văn hóa từ thời kỳ đồ đồng sang thời kỳ đồ sắt.

Do thiếu các sử liệu nên muốn xác định lãnh thổ Triều Tiên cổ, ta cần phải sử dụng các tư liệu khảo cổ học, bao gồm những di vật, di tích tiêu biểu cho văn hóa thời kỳ đồ đồng của Triều Tiên cổ, như: kiếm đồng hình đàn tỳ bà, đồ gốm vùng Misongri, các ngôi mộ đá…

Trong đó, đặc trưng nhất là cây kiếm có lưỡi và cán được đúc theo hình đàn tỳ bà. Loại kiếm này bắt nguồn từ bán đảo Hàn, sau đó, xuất hiện chủ yếu ở Yodong (Liêu Đông) và Yoseo (Liêu Tây). Khu vực phân bố của kiếm đồng hình đàn tỳ bà và các ngôi mộ đá giúp chúng ta phần nào ước đoán được phạm vi thế lực của Triều Tiên cổ.

1. Dangun (Đàn Quân) dựng nước Triều Tiên cổ

Cùng với sự hình thành văn hóa thời kỳ đồ đồng, nhiều bộ tộc đã xuất hiện ở phía Tây Bắc bán đảo Hàn và vùng Yoryeong Manju (Liêu Ninh Mãn Châu), đứng đầu các bộ tộc này là các tộc trưởng. Đàn Quân thống nhất các bộ tộc này rồi dựng lên nước Triều Tiên cổ. Việc dựng nước Triều Tiên cổ của Đàn Quân chứng tỏ bề dày lịch sử rất lâu đời của đất nước Hàn Quốc.

Đồng thời, sự kiện dựng nước của Đàn Quân và quan điểm dựng nước vì lợi ích của toàn dân đã trở thành nguồn động lực khơi gợi niềm tự hào dân tộc mỗi khi dân tộc Hàn lâm nguy. Thông qua câu chuyện lập quốc của Đàn Quân, chúng ta có thể hình dung phần nào về thời kỳ đầu dựng nước của dân tộc Hàn. Việc xuất hiện gấu và hổ trong câu chuyện thần thoại “Dangun dựng nước” phản ánh yếu tố của tín ngưỡng sùng bái động vật đặc trưng (vật tổ, tô-tem) vào thời tiền sử; còn các chức quan Phong bá, Vũ sư, Vân sư (chủ quản mưa, gió, mây) được nhắc đến trong thần thoại này chứng tỏ quốc gia đầu tiên của dân tộc Hàn được thành lập trong bối cảnh xã hội nông nghiệp.

2. Sự phát triển, biến đổi và diệt vong của nước Triều Tiên cổ

Cùng với sự phát triển của văn hóa thời kỳ đồ đồng, Triều Tiên cổ dần đóng vai trò là trung tâm văn hóa – chính trị và khuếch trương thế lực của mình. Vào khoảng thế kỷ thứ 4 trước công nguyên (TCN), Triều Tiên cổ phát triển thành một quốc gia thống trị một vùng đất đai rộng lớn ở phía Bắc bán đảo Hàn và vùng Mãn Châu, lấy trọng tâm là vùng Liêu Ninh. Vào khoảng thế kỷ thứ 2 TCN, Wiman (Vệ Mãn) hình thành thế lực ở vùng phía Tây, đánh đuổi Joon Wang (Chuẩn Vương) rồi trở thành vua của nước Triều Tiên cổ (năm 194 TCN). Vào thời kỳ này, văn hóa đồ sắt cũng bắt đầu lan tỏa.

Dựa vào nền tảng này, Triều Tiên cổ đã thống nhất các bộ tộc ở xung quanh rồi nhanh chóng mở rộng thế lực của mình. Thêm nữa, nhờ vào việc trở thành vùng trung chuyển giao thương giữa nhà Hán của Trung Quốc và các nước ở phía Nam bán đảo Hàn, Triều Tiên cổ nhận được nhiều lợi ích về mặt kinh tế và trở thành một quốc gia giàu mạnh. Khi trở nên cường thịnh, Triều Tiên cổ có ý chống đối nhà Hán. Nhà Hán liền sai quân bao vây, tấn công thành Wang Keom (thành Vương Kiệm) là kinh thành của Triều Tiên cổ.

Cháu trai của Vệ Mãn là Woo Keo Wang (Hữu Cừ Vương) kháng cự quyết liệt quân nhà Hán trong vòng một năm nhưng cuối cùng, thành Vương Kiệm thất thủ, đất nước Triều Tiên cổ diệt vong vào năm 108 TCN.

Lương Hồng Hạnh

Nhà nước Goryeo

goryeo

WangGeon (Vương Kiến) vốn xuất thân từ vùng Songak, ông ủng hộ GungYe và trở thành võ tướng dưới quyền của GungYe. Trong quá trình dựng nên Hu-Goguryeo, Wang Geon lập nhiều công lớn và được thăng tới chức Sijung (Thị trung). Sau khi lên ngôi, GungYe mắc sai lầm nghiêm trọng tự xưng là Phật Di Lặc và nghi kỵ tàn sát các công thần, đánh mất lòng dân. Do đó, triều thần đã phế truất GungYe và đưa Wang Geon lên ngôi vị quốc vương. WangGeon đổi tên nước là Goryeo (Cao Ly), với ý nghĩa kế thừa Goguryeo xưa, lấy niên hiệu là Cheonsu (Thiên Thụ) (năm 918), định đô ở KaeSeong (Khai Thành).

Nhà nước Goryeo kéo dài 475 năm, trải 33 đời vua, mở đầu là WangGoen Taejo (Thái tổ Vương Kiến: 918 – 943), kết thúc là Changwang ( Xương Vương: 1388 – 1392).

(1) Thiết lập trật tự xã hội và thống nhất dân tộc

WangGoen Taejo (Thái tổ Vương Kiến) đã thắt chặt mối quan hệ với các hào tộc địa phương, tạm thời chấp nhận và cho họ quyền cai quản một số điền trang thái ấp ở Goryeo. Ông đã cưới 20 tiểu thư của các gia đình hào tộc, tạo nên mối quan hệ thân thiết, đồng thời, còn ban quốc tính cho một số dòng họ có thế lực khác. Tuy vẫn còn coi trọng Phật giáo, kế thừa di sản của Phật giáo Shilla, Baekje, cho xây dựng nhiều chùa lớn nhưng ông vẫn có ý định mở rộng chính sách, cho phép Nho giáo, Đạo giáo cùng tồn tại, tích cực tiếp thu văn hoá văn minh Trung Hoa trên tinh thần cải biến sao cho cho phù hợp với phong tục tập quán của Goryeo.

Hơn nữa, Taejo còn soạn thảo Những phòng ngừa về chính trị; Mười điều huấn thị; Các quy tắc quan chức để răn dạy con cháu và các quan nhằm đảm bảo cho tương lai của Goryeo. Những chính sách của Taejo đã tạo ra một sự hoà hợp dân tộc, được lòng dân và xã hội Goryeo dần ổn định và phát triển.

Tuy vậy, về lâu dài, chính sách của Taejo để lại một hậu quả là thế lực địa phương, đặc biệt là ngoại thích ngày càng lớn hơn và thay nhau nắm giữ quyền lực trong triều, đe doạ đến vương quyền. Chẳng hạn như dòng họ An San Kim sau này độc quyền trong triều khoảng 50 năm (từ 1009 đến 1060), dòng họ Inju Yi năm giữ khoảng 80 năm (từ 1046 đến 1127). Đến đời vua Jeongjong ( Định Tông: 945 – 949 ), kế tiếp là Gwangjong (Quang Tông: 949 – 975), một số chính sách mới đã được triển khai để ổn định và củng cố vương quyền.

Gwangjong ban bố chính sách giải phóng nô tỳ mà các hào tộc đang chiếm giữ; thi hành chế độ khoa cử để tuyển dụng nhân tài, bổ sung vào cơ quan hành chính, đồng thời, dùng biện pháp vũ lực đánh dẹp những thế lực địa phương chống đối chính sách mới. Đến đời vua Seongjong (Thành Tông: 981 – 997), Goryeo lấy tư tưởng chính trị Nho giáo làm căn bản và xây dựng chế độ chính trị trên cơ sở đó.

Về cơ cấu tổ chức trung ương, Goryeo mặc dù tiếp nhận mô hình tam tỉnh lục bộ của Đường, Tống nhưng chỉ lập ra nhị tỉnh lục bộ, tức chỉ có Trung thư môn hạ tỉnh (hợp nhất Trung thư tỉnh và Môn hạ tỉnh) và Thượng thư tỉnh. Thượng thư tỉnh trực tiếp điều hành lục bộ. Ngoài ra, Goryeo còn đặt ra các cơ quan như Samsa (Tam ty), Eosadae (Ngự sử đài), Jungchuwon (Trung xu viện) và Dobyeongmasa ( Đồ binh mã sứ ). Đồ binh mã sứ tương đương như Cơ mật viện sau này, các quan đầu triều họp bàn những chính sách quan trọng của nhà nước.

Từ đời vua Seongjong (Thành Tông), cả nước được chia thành 12 Mok (mục), dưới mục là châu, huyện và triều đình cử quan lại xuống cai trị; Thủ đô được đặt ở Gaeseong (khai thành) và vùng xung quanh được gọi là khu vực Gyeonggi (kinh kỳ). Pyeongyang (Bình Nhưỡng) được gọi là Tây kinh, Gyengju (Khánh Châu) được gọi là Đông Kinh, hợp với kinh đô gọi là tam kinh. Quân đội được hình thành từ nhị quân, lục vệ của trung ương và quân các châu, huyện. Nhị quân được giao nhiệm vụ canh giữ cung cấm, lục vệ bảo vệ kinh đô và biên giới quốc gia. Quân châu huyện bảo vệ trị an và đảm nhiệm các công việc quân dịch.

(2) Nội loạn và sự thành lập chính quyền võ thần Loạn Yija Gyeom (Lý Tư Khiêm) và Myo Cheong (Diệu Thanh)

Dòng họ YijaGyeom có quan hệ hôn nhân nhiều đời với vương thất và trở thành một dòng họ ngoại thích có thế lực nhất đương thời. Đặc biệt, Yija Gyeom đã gả hai con gái cho Yejong (Duệ Tông) và Injong (Nhân Tông) làm vương phi nên càng lộng hành và lấn át quyền vua. Điều này khiến vua Injong lo ngại và muốn loại bỏ Yija Gyeom. Việc bị bại lộ và Yija Gyeom kéo quân chiếm kinh thành, đốt cung điện (năm 1126).

Vua Injong thoát nạn và sau đó đã dẹp được loạn, giết chết Yija Gyeom. Sau loạn Yija Gyeom, Myocheong (Diệu Thanh), một tăng lữ xuất thân ở Seogyoeng (Tây Kinh) cùng với quan đại thần Jeong Ji Sang (Trịnh Tri Thường) lợi dụng lúc lòng dân bất ổn đã nêu thỉnh cầu vua Iujong xưng đế hiệu và chinh phạt nước Kim. Để thực hiện điều này, họ khẩn thiết đề nghị nhà vua dời đô về Seogyeong(Tây Kinh). Nhà vua nghiêng về kiến nghị trên, cho xây cung điện ở Seogyeong và thường xuyên lui về đó. Nhưng, thế lực chính trị ở kinh đô phản đối việc dời đô.

Do đó, Myeocheong đã cầm đầu những người Seogyeong nổi loạn, đặt tên nước là Daewiguk (Đại vĩ quốc), lấy niên hiệu là Thiên khai. Lập tức, quân triều đình do GimBusik (Kim Phú Thức) làm tư lệnh đã tấn công Seogyeong và khoảng một năm sau, cuộc phản loạn bị dập tắt. Nội loạn đã để lại hậu quả nặng nề, các kinh thành và làng mạc bị đốt phá, tài chính quốc gia suy kiệt, cuộc sống của người dân đói kém, lòng dân bất ổn.

Sự thành lập chính quyền võ thần

Năm thứ 9 đời vua Gwangjong, tức năm 958, nhà vua ra sắc lệnh lập Văn Miếu, Quốc tử giám và mở khoa thi Nho học, lựa chọn nhân tài để bổ nhiệm vào cơ quan hành chính nhà nước. Tới đầu thế kỷ XII thì hàng ngũ quan lại qua khoa cử ở Goryeo đã ổn định theo các cấp bậc từ trung ương đến địa phương. Nho giáo Goryeo không những đã vượt lên trên Phật giáo mà còn được coi trọng quá mức. Trong triều đình, văn ban được đề cao hơn võ ban, phẩm hàm của quan văn được xếp cao hơn quan võ.

Ngoài xã hội, vị trí xã hội và kinh tế của binh lính bị hạ thấp, không được phân chia đất đai như trước đây , chỉ hưởng lương theo cấp bậc mà còn phải thường xuyên bị huy động đi lao dịch trong thời bình. Nội loạn xảy ra, công lao của võ tướng và binh lính trong việc dẹp loạn không phải là nhỏ, nhưng nhà vua và giới quý tộc vẫn xem thường võ tướng.

Vua Ưijong kế nghiệp Injong lại chỉ thích vui chơi, hội hè đình đám và nghe theo đám quan văn nịnh thần, bởi thế, đám quan văn càng khinh rẻ đám võ quan. Do cách đối xử như vậy, sự nổi dậy của các võ quan là điều không thể tránh khỏi. Nhân thời cơ vua Ưijong đi vui chơi ở Phổ hiền viện ở ngoại ô, các võ tướng do Jeong Jung Bu (Trịnh Trọng Phu) cầm đầu đã làm cuộc chính biến (năm 1170). Đám quan võ tàn sát các quan văn, đày vua Ưijong đi biệt xứ, dựng người em sinh đôi với Ưijong lên ngôi và chiếm lấy chính quyền. Thời gian các võ quan nắm quyền kéo dài khoảng 100 năm, trong đó, 60 năm cuối, dòng họ Choe (Thôi) độc chiếm quyền lực.

Thời gian đầu, chính quyền võ quan do Jeong Jung Bu đứng đầu còn phải chống trả vất vả với các cuộc nổi dậy của đám văn quan muốn phục hồi vương vị cho vua Ưijong, sau đó, xã hội mới dần ổn định theo thiết chế quân sự. Kế tiếp Jeong Jung Bu là Gyeong Dae Seung (Khánh Đại Thăng) và Yi Ưi Min (Lý Nghĩa Mẫn). Theo nghiên cứu và công bố mới đây, Lý Nghĩa Mẫn là hậu duệ đời thứ 6 của dòng họ Lý ở Tinh Thiện (Seong Sun), tức dòng họ Lý Dương Côn (Việt Nam) chạy sang Goryeo từ cuối đời vua Càn Đức, tức Lý Thần Tông (1128 – 1138) Lý Nghĩa Mẫn từng có nhiều công lao trong thời kỳ võ quan nắm quyền ở Goryeo, quyền hành gần như Tể tướng, đứng đầu chính quyền Goryeo trong sáu năm (1190 – 1196).

Sau Lý Nghĩa Mẫn, quyền lực trong triều Goryeo rơi vào tay dòng Choe và dòng họ này duy trì được 4 đời, khoảng 60 năm. Xã hội Goryeo thời kỳ này khá ổn định so với thời kỳ đầu và dòng họ Choe (Thôi) đã để lại những dấu ấn lịch sử nhất định, nhất là những cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược.   (3) Kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông Từ năm 1231 đến năm 1259, Goryeo đã phải 6 lần chống trả các cuộc xâm lăng của quân Nguyên Mông. Cuộc kháng chiến lần thứ nhất diễn ra vào năm 1231, quân dân Goryeo đã đồng tâm hiệp sức chống lại quân Mông Cổ.

Đặc biệt, tại thành Gwiju (Quy Châu), dưới sự chỉ huy của Bakseo (Phác Tề), quân dân trong thành đã giữ vững thành trì, bẻ gãy cuộc xâm lược này. Cuộc kháng chiến lần thứ hai xảy ra vào năm 1232 với sự đóng góp to lớn của Lý Long Tường, một Hoàng thân nhà Lý Việt Nam sang Goryeo tỵ nạn vào năm 1226. Những di tích như Thụ hàng môn, Bia kỷ tích còn lại đến ngày nay đã ghi rõ công trạng đó và đã được giới sử học hai nước xác nhận.

Trong thời gian chống quân Nguyên Mông, lợi dụng tâm lý sự biển của quân Mông Cổ, triều đình Goryeo đã rút ra đảo Ganghwa, một hòn đảo ở vùng biển phía Tây Nam bán đảo. Để thu phục lòng dân và hy vọng nhờ sức mạnh của Đức Phật đẩy lùi được quân Mông Cổ, triều đình Goryeo đã cho khắc lại bộ kinh Tam Tạng. Công việc này được hoàn thành sau 16 năm và có lẽ chỉ mang tính chất cổ xuý về tinh thần chống giặc ngoại xâm.

Dẫu sao, hàng ngàn bản khắc gỗ kinh Phật hiện còn lưu giữ ở chùa Haein gần Daegu là một trong những di sản văn hoá rất đáng tự hào của dân tộc Hàn. Bản kinh Phật này hiện nay đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Ở trong đất liền, chính quyền họ Choe (Thôi) đã biết tập hợp lực lượng, vận động toàn dân lợi dụng địa hình núi non và hải đảo để kháng chiến. Trong một trận chiến, Gim Yun Hu (Kim Doãn Hầu) chỉ huy quân đội và dân địa phương đã giết chết Sallita ( Sát Lễ Tháp ), viên tướng chỉ huy quân Mông Cổ, đánh bại một cuộc tấn công nữa của quân giặc.

Sau mấy cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, chính quyền họ Choe (Thôi) đã không quan tâm đến dân chúng bị lầm than trong chiến tranh mà ngược lại còn thực hiện các chính sách sưu cao thuế nặng để duy trì chính quyền và sống xa hoa ở đảo GangHwa dẫn đến làm mất lòng dân.

Bởi thế, người nắm quyền tối cao là Choe Ưi bị sát hại và chính quyền họ Choe sụp đổ. Sau thời kỳ võ quan nắm quyền, triều đại Goryeo đã có sự trở lại của các văn quan và việc giảng hoà với quân Mông Cổ đã được đặt ra. Thái tử của Goryeo được cử đi thương lượng và hai bên đã ký một hiệp ước giảng hoà một cách thuận lợi.

Theo hiệp ước này, tuy nhà Nguyên thừa nhận chế độ và phong tục của Goryeo nhưng Goryeo phải chịu một số ràng buộc nhất định thông qua một cơ quan hành chính của nhà Nguyên đặt tại Goryeo gọi làChinh Đông hành tỉnh và Thái tử Goryeo phải kết hôn với công chúa của nhà Nguyên, vương tử phải được giáo dục ở kinh đô nhà Nguyên. Sự ràng buộc của nhà Nguyên đối với Goryeo kéo dài gần 80 năm. Đến khoảng giữa thế kỷ XIV, khi nhà Nguyên suy thoái, Goryeo mạnh lên thì sự lệ thuộc mới chấm dứt.

(4) Kinh tế và văn hoá Goryeo

Về kinh tế, nông nghiệp là nền tảng của nền kinh tế Goryeo. Bởi thế, việc phân chia đất đai và lực lượng nông dân có tầm quan trọng đặc biệt. Hệ thống ruộng đất có đặc điểm cơ bản là: đất công thuộc sở hữu nhà nước và đất tư thuộc sở hữu tư nhân. Đất công bao gồm đất trả lương cho các quan lại, (binh lính Goryeo thời kỳ đầu cũng được hưởng đất theo chế độ lương bổng, thời kỳ sau chỉ được nhận tiền lương), đất phân cho các cơ quan nhà nước, tu viện, đền chùa… Người nông dân tự do có thể nhận đất công, canh tác và phải nộp 1/4 số thu hoạch.

Đất tư là đất của các dòng họ, gia đình quý tộc, đất được nhà vua ban thưởng và gia đình quý tộc có thể thu tới 1/2 số thu hoạch, bởi người canh tác trên ruộng đất của họ thường là nô tỳ và gia nhân. Tuy vậy, người nông dân ngoài việc nộp tô còn phải đi lao dịch tuỳ theo từng thời kỳ, thời gian từ 3 đến 6 tháng một năm và phải tự lo khẩu phần ăn uống hàng ngày.

Thương mại tuy chưa phải là phần quan trọng trong nền kinh tế Goryeo nhưng việc buôn bán với Trung Quốc đã phát đạt. Ngoài ra, Goryeo cũng đã có quan hệ thương mại với các dân tộc ở vùng Mãn Châu và Sibêrya, Nhật Bản, Ả Rập…

Thương hiệu Korea (chuyển từ tên Goryeo) đã được nhiều nước trong khu vực biết đến. Người Việt Nam biết đến Goryeo qua phiên âm chữ Hán là Cao Ly. Về văn hoá, so với thời Shilla thống nhất thì Goryeo thống nhất đã có sự phát triển vượt bậc trên mọi lĩnh vực về văn hoá như văn học, sử học, nghệ thuật, y học, tôn giáo…

Phật giáo thời kỳ đầu Goryeo phát triển rất mạnh. Vua Taejo tin rằng Đức Phật phù hộ cho ông thành công trong việc dựng nước nên đã ra lệnh xây nhiều chùa lớn và đưa Phật giáo lên vị trí chính yếu.

Các đời vua sau kế tiếp sự nghiệp của cha ông càng tôn sùng Phật giáo và các nghi lễ của Phật giáo không chỉ giới hạn trong nhà chùa mà còn mở rộng ra dân gian. Di sản Phật giáo thời kỳ này còn lưu lại là vô số những ngôi chùa lớn được xây dựng công phu. Thời kỳ sau, tuy Phật giáo phải nhường chỗ cho Nho giáo nhưng bộ kinh Tam Tạng được khắc trong thời kỳ chống giặc Mông Cổ cũng là một di sản quý báu. Năm 958 (Năm thứ 9 đời vua Gwangjong), Văn Miếu – Quốc Tử Giám được lập nên đã chính thức khẳng định chỗ đứng của Nho giáo trên đất Goryeo.

Trải hơn hai thế kỷ hình thành, phát triển, Nho giáo Goryeo đi theo hướng cực đoan và đã phải trả giá đắt cho sự trỗi dậy của lực lượng võ quan. Trong suốt 100 năm võ quan cầm quyền, Nho giáo hầu như vắng bóng trên chính trường, các văn quan và nho sinh bị tàn sát và khoa cử Nho giáo bị đình trệ. Cuối thời kỳ Goryeo, Tân Khổng giáo được du nhập và phát triển nhanh chóng. Tân Khổng giáo từng bước đẩy lùi tầm ảnh hưởng của Phật giáo và đã có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội Goryeo, khoa cử Nho giáo được khôi phục và dần đi vào nề nếp.

Thời Goryeo, những bộ sử lớn đã được biên soạn, tiêu biểu là Tam quốc sử ký do Gim Bu Sik (Kim Phú Thức) soạn, Tam quốc di sự do nhà sư IrYon (Nhất Nhiên) soạn. Tam quốc sử ký là bộ chính sử, ghi chép lịch sử đất nước một cách chính thống, còn Tam quốc di sự là bộ dã sử, không chính thống. BộTam quốc sử ký mang đậm tư tưởng Nho giáo, còn Tam quốc di sự lại mang tư tưởng Phật giáo.

Ngoài ra, còn có Đông Minh vương thiên và Đế vương vận kýĐông Minh vương thiên do YiGoeBo (Lý Khuê Báo) soạn, là bộ sử viết bằng thơ chữ Hán trường thiên, nội dung viết về thần thoại Chu Mông, thần thoại dựng nước Goguryeo. Đế vương vận ký cũng là bộ sử được viết bằng thơ chữ Hán trường thiên do Lý Thừa Hưu viết. Tuy là những bộ sử nhưng trong đó, các giá trị văn học cũng được thừa nhận.

Tính văn học được đề cao đã khiến cho giới văn học Hàn Quốc chú ý và khai thác nhiều, từ đó, khẳng định giá trị văn chương của các bộ sử nói riêng, văn chương thời Goryeo nói chung. Văn học chữ Hán thời kỳ này đã nở rộ, chủ yếu học theo lối văn Tần Hán, thơ Thịnh Đường. Tuy vậy, truyền thống sáng tác hyangca (bài ca dân gian) từ thời Shilla vẫn tồn tại.

Đặc biệt, phê bình văn học đã hình thành và phát triển, thúc đẩy văn học Goryeo ngày một hoàn thiện hơn. Nổi bật là những tác phẩm như Phá nhàn tập của YiInRo (Lý Nhân Lão),Bạch Vân tiểu thuyết của YiGoeBo (Lý Khuê Báo), Bổ nhàn tập của Choesa (Thôi Tư)…

Về mỹ thuật, nổi bật là gốm men màu ngọc bích, được đánh giá rất cao, được xem như đỉnh cao nhất của thành quả nghệ thuật Goryeo…

(5) Loạn giặc Wa (Nhật Bản), giặc khăn đỏ và sự xuất hiện thế lực mới lật đổ vương triều Goryeo

Vào thời vua Gong Min (1351 – 1374), giặc Wa và giặc khăn đỏ thường xuyên quấy rối Goryeo. Giặc Wa là hải tặc có căn cứ ở đảo Tsushima của Nhật. Từ đầu thế kỷ XIV, chúng xâm nhập vùng duyên hải và cướp bóc, thậm chí, có đợt, chúng cướp phá ở đảo GangHwa và uy hiếp cả kinh đô. Giặc khăn đỏ là quân nông dân của tộc người Hán lợi dụng lúc nhà Nguyên suy yếu để tạo phản. Chúng liên tục tấn công Goryeo và có đợt đã tiến vào GaeSeong, vua Gong Min phải đi lánh nạn ở tận vùng Andong, vùng đất thuộc miền Đông Nam bộ. Lúc đó, các tướng lĩnh Choe Yeong (Thôi Doanh), YiSeongGye (Lý Thành Quế) Choe Mu Seon (Thôi Mậu Tuyên) đã đứng ra lãnh đạo binh sĩ đánh trả giặc Wa và lập nhiều công lớn.

Trong quá trình hợp lực đánh đuổi giặc Wa và giặc khăn đỏ, thế lực võ thần do Choe Yeong và Yi Seong Gye cầm đầu đã trưởng thành và lớn mạnh. Thời kỳ này, ở Trung Quốc, nhà Minh đã thay nhà Nguyên. Ban đầu, quan hệ giữa Goryeo và nhà Minh vẫn giữ quan hệ hữu hảo.

Nhưng nhà Minh yêu cầu Goryeo giao lại vùng đất của Goryeo ở phía Bắc mà nhà Minh cho rằng thuộc Trung Quốc xưa. Quan hệ hai nước xấu đi, Goryeo từ chối yêu cầu của nhà Minh, hơn nữa, còn cử Yi seong Gye đem quân tiến đánh muốn giành lại vùng đất Liêu Đông mà nhà Minh đã chiếm giữ.

Yi Seong Gye dẫn 5 vạn quân hướng về phía Liêu Đông nhưng đến WiHwado liền  quay trở lại chiếm Gae Seong, phế truất vua Uwang (1374 – 1388), loại bỏ Choe Yeong, người nêu kế sách gây ra cuộc chiến đòi lại đất Liêu Đông. Lịch sử Hàn Quốc gọi đây là sự kiện hồi quân ở WiHwado. Phái của Yi Seong Gye kết hợp với thế lực tân tiến sĩ đại phu – phái có tư tưởng cấp tiến và tiến hành một cuộc cải cách đất nước.

Họ xác định mục tiêu chính của cuộc cải cách này là cải cách ruộng đất, tiến tới kiểm soát chế độ ruộng đất đang bị rối loạn, nguyên nhân chính tạo ra mâu thuẫn xã hội lúc bấy giờ. Họ đã đưa ra quy định mới về chế độ ruộng đất, tịch thu ruộng đất của quý tộc cũ rồi phân chia cho quan lại cấp tiến. Thế lực võ thần kết hợp với phái cấp tiến đã trở thành thế lực mới và cuối cùng, họ đã lật đổ vương triều Goryeo.  

Nhà nước Joseon (1392-1910)

Với sự kiện hồi quân ở WiHwado, YiSeonggye đã phế bỏ vua Uwang và Choe Yeong, giành lấy thực quyền rồi cùng phái Tân tiến sĩ thực thi chương trình cải cách. Tiếp đó, họ loại bỏ những phần tử thuộc phái bảo thủ và sau cùng, phế truất ngôi vua của Changwang (1388 – 1392), dựng nên vương triều mới vào năm 1392, đặt tên nước là Joseon (Triều Tiên), với ý nghĩa kế thừa nhà nước Gojoseon, chọn HanYang làm kinh đô. Năm 1394, YiSeongGye chính thức dời đô từ GaeSeong về HanYang ( sau đổi là Hanseong: Hán thành, tức Seoul ngày nay ).

(1) Bộ máy chính quyền trung ương và cơ cấu hành chính địa phương

So với thời Goryeo, thể chế trung ương tập quyền của vương triều Joseon được thiết lập chặt chẽ hơn và vững vàng hơn. Ở trung ương, cơ quan quyền lực cao nhất là Ưijeong bu (Nghị chính phủ), dưới là Yukjo (Lục tào hay còn gọi là lục bộ) và nhiều cơ quan khác. Nghị chính phủ quyết định những chính sách quan trọng của đất nước trên cơ sở có sự đồng ý của ba vị quan đầu triều.

Còn Lục tào thì đảm đương các công việc hành chính quốc gia. Bên cạnh đó, các cơ quan như Saganwon (Ty gián viện) có nhiệm vụ can gián, cảnh tỉnh nhà vua, giúp nhà vua thực hiện chính sự một cách đúng đắn. Saheonbu (Ty hiến phủ) giám sát hành vi tiêu cực trong quản lý nhà nước; Hongmungwan (Hoằng văn quán) chuyên tư vấn việc nước và soạn thảo giấy tờ theo lệnh nhà vua; Ba cơ quan này được gọi tên chung là Samsa (Tam ty).

Ngoài ra, còn có Seungjeongwon (Thừa chính viện) làm thư ký riêng cho nhà vua; Ưigeumbu (Nghĩa cấm phủ) xét xử và trừng trị tội phạm; Chunchugwan ( Xuân thu quán ) chuyên ghi chép về lịch sử và Seonggyunwan (Thành Quân quán), trường học cao cấp nhất (đổi tên từ Quốc tử giám).

Ở địa phương, toàn Joseon được chia thành 8 tỉnh (đạo), dưới là quận, huyện, phường, hương, quan cai trị do trung ương cử xuống. Bên cạnh đó, từng địa phương đều có những tổ chức tự quản gọi là Yuhyangso (Lưu hương sở, sau gọi là Hương sảnh) do Yangban địa phương đảm trách. Với cơ cấu như trên, công việc hành chính địa phương được thực hiện trên cơ sở phối hợp giữa các quan chức nhà nước và Yangban địa phương.

(2) Tình hình kinh tế – xã hội

Trong xã hội Joseon, nông nghiệp là cơ sở kinh tế quan trọng nhất. Việc tăng cường sức sản xuất nông nghiệp được chú trọng, nhà nước đặc biệt quan tâm và triển khai việc khai hoang, cải tạo mở rộng đất nông nghiệp, nâng cao kỹ thuật nông nghiệp nhằm nâng cao sản lượng. Từ thế kỷ XV trở đi, nhất là vào thời vua Sejong (Thế Tông) trị vì (1418 – 1450), kỹ thuật canh tác nông nghiệp được nâng cao rõ rệt.

Việc phát hành cuốn sách Nongsajik seol (Nông sự trực thuyết) và sự hướng dẫn mang tính phổ cập rộng rãi đã nâng cao sản lượng rõ rệt. Đặc biệt, kỹ thuật trồng lúa trên ruộng nước cũng đã được áp dụng ở phía Nam Joseon; cách trồng lúa theo phương pháp “di ương pháp”, tức gieo mạ xong rồi đem ra cấy ở ngoài ruộng đã được tiến hành.

Nhờ có kỹ thuật canh tác mới, sản lượng lượng thực tăng đã khiến cho thu nhập của nông dân tăng lên, cuộc sống no đủ. Theo đó, thương nghiệp cũng phát triển. Chợ ở các địa phương do nông dân lập ra và thường họp theo phiên, 5 ngày một phiên. Sản phẩm hàng hoá chủ yếu là tự cung tự cấp như các loại sản phẩm nông nghiệp, thủ công, hải sản, dược liệu, vải bông…

Sau đó, họ tập trung lại và tổ chức thành những phường hội. Cuối năm 1401, tiền giấy đã xuất hiện; năm 1423, tiền xu bằng đồng được lưu hành; năm 1464, tiền sắt cũng được tung ra thị trường. Những loại tiền này chủ yếu phục vụ cho việc thu thuế của nhà nước được thuận lợi. Còn trong xã hội, phương thức mua bán vẫn chủ yếu dùng vải gai làm vật trao đổi.

Sau này, vải bông đã thay thế vải gai, không những có chức năng trao đổi mà còn dùng để may quan phục phục vụ triều đình. Từ thế kỷ XVII, thương mại Joseon phát triển với quy mô lớn hơn, địa bàn hoạt động rộng hơn và quan hệ buôn bán giữa Joseon với Trung Quốc, Nhật Bản bằng đường biển đã nhộn nhịp. Chính vì vậy, công nghiệp đóng tàu thời kỳ này cũng phát triển theo. Cũng từ thế kỷ XVII trở đi, kỹ thuật nông nghiệp ngày càng đạt được những thành tựu đáng kể. Kỹ thuật gieo cấy tăng vụ đã khiến cho năng suất sản lượng ngày càng cao. Công tác thuỷ lợi phục vụ cho tăng vụ cũng được phát triển mạnh. Năm 1662, cơ quan phụ trách đê điều được thành lập.

Năm 1778, một công trình tưới tiêu lớn đã được lập dự án và tới cuối thế kỷ XVIII, 6000 hồ chứa nước phục vụ cho gieo trồng hai vụ đã hoàn thành. Ngoài nghề trồng lúa, các ngành gieo trồng sản phẩm khác cũng được nhà nước khuyến khích phát triển, đặc biệt là nhân sâm, thuốc lá, bông…

Trong xã hội Joseon, nhìn chung, về cơ bản có 4 giai tầng: Yangban, Chungmin, Yangmin và Cheonmin. Yangban là tầng lớp quý tộc, không những giàu có về vật chất mà còn nắm quyền lãnh đạo ở trung ương và địa phương. Ở triều đình, Yangban là những văn quan và võ quan. So với thời Shilla và Goryeo, Yangban Joseon giàu có và có thế lực mạnh hơn, được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi hơn.

Tuy nhiên, Yangban Joseon không phải là tầng lớp duy nhất nắm giữ đặc quyền lãnh đạo mà hệ thống thi cử, tiến cử quan lại mở rộng và đều đặn đã giảm thiểu tính độc quyền của họ.

Dưới Yangban là Chungmin (tầng lớp trung lưu), bao gồm các quan lại cấp dưới ở địa phương, các thày đồ, thày thuốc, phiên dịch… Dưới Chungmin là Yangmin (thường dân), bao gồm nông dân, thợ thủ công, các nhà buôn bán… Dưới cùng là Choenmin (tiện dân), bao gồm nô tỳ và gia nhân…

Trong xã hội Joseon, mọi nghi lễ, nghi thức đều dựa trên nguyên tắc của Tân Khổng giáo. Những quy định ngặt nghèo của Nho giáo càng được đẩy lên cao hơn, thậm chí tới mức cực đoan. Cùng theo tam cương, ngũ luân, nhưng Tân Khổng giáo Joseon nghiêng lệch về vế thứ hai: bề tôi phải tuyệt đối trung thành với nhà vua, con phải thờ cha mẹ chí hiếu, vợ phải nhất nhất phục tùng chồng, em phải luôn tuân theo huynh trưởng, bạn bè phải tuyệt đối giữ chữ tín.

Trong đời người, 4 nghi lễ quan trọng phải thực hiện nghiêm chỉnh, đó là quan, hôn, tang tế (tức nghi lễ đội mũ, hôn nhân, tang ma, thờ cúng tổ tiên).

(3) Chế độ khoa cử và phát triển văn hoá

Quan lại thời Joseon chủ yếu được tuyển chọn thông qua thi cử. Nếu không thuộc tầng lớp tiện dân thì ai cũng được đi học và tham dự các kỳ thi. Tuy vậy, phần lớn đối tượng được học hành và thi cử đều thuộc tầng lớp Yangban và Chungmin. Trường học lớn nhất được xây dựng ở kinh đô, gọi là Seong Gyun gwan (Thành quân quán), đổi tên từ Quốc tử giám; bốn trường lớn ở địa phương thuộc Thành quân quán là Trường Đông, Trường Tây, Trường Nam và Trường Trung. Ở các quận huyện, các trường ở địa phương gọi chung là Hương hiệu.

Đây là các trường do nhà nước thành lập, nhà nước cử thày dạy và cung cấp sách kinh điển Nho gia. Nhà nước còn lập Dưỡng hiền khố để thưởng cho những nho sinh xuất sắc, khuyến khích học tập. Ở các địa phương, trường tư được mở rộng rãi, thậm chí có thời kỳ còn lấn át trường công. Sở dĩ giáo dục ở trường tư thời Joseon phát triển như vậy trước hết là do tinh thần hiếu học của dân tộc Hàn, hơn nữa, đó cũng là con đường tiến thân duy nhất, đồng thời, nhà nước còn khuyến khích, miễn cho thuế và lao dịch.

Nhà nước Joseon cứ đều đặn 3 năm mở một khoa thi. Khoa thi Hương được tổ chức vào những năm tí, ngọ, mão, dậu; khoa thi Hội được tổ chức vào những năm thìn, tuất, sửu mùi, chọn ra 33 tiến sĩ rồi vào điện thí (tức thi trong cung điện của nhà vua), chọn ra 3 người đỗ đầu, gọi là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa giống như Trung Quốc và Việt Nam. Về văn hoá, trên cơ sở ổn định khá dài của tình hình chính trị và sự phát triển về kinh tế, văn hoá Joseon đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng:

Trước hết phải kể đến sự sáng tạo ra chữ Hàn (Hangưl). Năm 1443, vua Sejong (Thế Tông) ra sắc lệnh nghiên cứu và sáng tạo một hệ thống chữ viết của dân tộc để có thể ghi một cách dễ dàng và tiện lợi tiếng Hàn Quốc. Ông đã cùng các văn thần bỏ nhiều công sức trong mấy năm trời, đến năm 1446, chữ Hangưl đã được sáng tạo ra và từng bước làm thay đổi một cách toàn diện đời sống ngôn ngữ của người Hàn Quốc. Chữ Hangưl, đương thời gọi là Huấn dân chính âm (âm chuẩn mực dạy cho dân chúng) mới có 28 chữ cái, trải qua các thời kỳ lịch sử, ngày càng được hoàn thiện và nay trở thành văn tự chính thống trên toàn bán đảo. Hai là biên soạn lịch sử được chú trọng.

Các bộ sử lớn như Cao Ly sử, Triều Tiên vương triều thực lụcđược viết theo lối biên niên đã ra đời. Ba là văn học phát triển đến đỉnh cao. Văn học chữ Hán và văn học chữ Hàn cùng được phát huy đã làm phong phú thêm cho bức tranh toàn cảnh của văn học thời kỳ Joseon. Nếu đánh giá cao văn học chữ Hán trong lĩnh vực thi ca thì văn học chữ Hàn chiếm lĩnh lĩnh vực tiểu thuyết. Hơn nữa, văn học dịch đã hình thành ngay từ khi chữ Hàn (Hangưl) ra đời và phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XVI. Không chỉ văn học chữ Hán của Hàn Quốc mà văn học chữ Hán của Trung Hoa cũng được biên dịch sang tiếng Hàn và phổ biến khá rộng rãi. Bốn là những tác phẩm, công trình nghiên cứu có liên quan đến nông nghiệp đã có giá trị thiết thực đối với đời sống xã hội.

Tác phẩm Nông sự trực thuyết đã nêu ở trên là một ví dụ điển hình. Lại nữa, các ngành như thiên văn, khí tượng, lịch pháp rất phát triển. Chiếc máy đo lượng mưa[1] để xác nhận lượng nước mưa ở từng vùng phục vụ cho nông nghiệp đã ra đời vào năm 1442, sớm hơn tới 200 năm so với chiếc máy có công dụng tương tự ở phương Tây. Một số dụng cụ đo sức gió cũng được phát minh. Một đài thiên văn, đồng hồ mặt trời, đồng hồ nước cũng được sáng chế…

Đặc biệt, kỹ thuật in ấn đã đạt được thành tựu to lớn với việc sáng tạo ra cách in bằng các con chữ rời, không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho việc sắp chữ mà còn có thể in liên tục nhiều bản. Trong lĩnh vực tư tưởng, tôn giáo và tín ngưỡng, Joseon tuy từng bước hạn chế sự phát triển của Phật giáo và Đạo giáo, đưa Nho giáo lên vị trí độc tôn nhưng vẫn thừa nhận và cho phép các tôn giáo khác hoạt động trong phạm vi nhất định.

(4) Sự xâm lược của Nhật Bản năm Nhâm thìn và của người Hồ năm Bính tí

Năm Nhâm thìn (1592), lấy cớ mượn đường sang chinh phục nhà Minh, quân đội Nhật ồ ạt tiến công vào vùng Busan rồi chia làm hai mũi tiến lên phía Bắc. Quân đội Joseon tổ chức phòng ngự nhưng không cản nổi bước tiến của quân Nhật. Nhà vua phải rời bỏ kinh đô đi lánh nạn và kêu gọi toàn dân kháng chiến, đồng thời, cử sứ thần sang nhà Minh xin cứu viện. Khác với tình hình trong đất liền, thuỷ quân Joseon do tướng YiSunSin (Lý Thuấn Thần) chỉ huy đã sử dụng tàu chiến hình con rùa giao chiến với thuỷ quân Nhật Bản và giành được nhiều thắng lợi.

Cùng với thắng lợi của thuỷ quân trên biển, ở đất liền, phong trào nghĩa binh nổi lên và quân chi viện nhà Minh tiến sang đã đẩy lùi quân Nhật đến vùng biển Gyeongsangdo. Quân Nhật đề nghị đình chiến và thương lượng. Sau 3 năm đàm phán không thành công, quân Nhật lại phát động cuộc tấn công. Khác với lần trước, lần này, quân đội Joseon liên kết với quân Minh đã nhanh chóng đánh đuổi quân Nhật ra khỏi bán đảo. Cuộc chiến loạn kéo dài 7 năm mới chấm dứt và lịch sử Hàn Quốc gọi cuộc chiến tranh này là Nhâm thìn Oa loạn.

Sau 7 năm chiến tranh, Joseon đã chịu sự thiệt hại lớn nhất trong lịch sử. Quân Nhật tàn phá không thương tiếc những công trình kinh tế, văn hoá… mà người dân Joseon phải mất hàng trăm năm mới xây dựng được. Đến đầu thế kỷ XVII, nhà Minh và Joseon cùng suy yếu sau cuộc chiến tranh chống Nhật thì ở v

0