Các nguyên tắc cơ bản và những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại
Bình đẳng: Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng, là nền tảng để thiết lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ kinh tế quốc tế của các nước. Mỗi quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có lợi thế so sánh kém hơn so với các quốc gia phát ...
- Bình đẳng: Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng, là nền tảng để thiết lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ kinh tế quốc tế của các nước. Mỗi quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có lợi thế so sánh kém hơn so với các quốc gia phát triển cần tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc này trong tiến trình mở cửa và hội nhập.
- Cùng có lợi: Nguyên tắc này đóng vai trò là nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế , đồng thời là động lực kinh tế để thiết lập và duy trì lâu dài mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia. Nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các điều khoản làm cơ sở để ký kết trong các nghị định thư giữa các chính phủ và trong các hợp đồng kinh tế giữa các tổ chức kinh tế.
- Tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia: Trong quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia với tư cách là quốc gia độc lập có chủ quyền về mặt chính trị, kinh tế, xã hội và địa lý.
- Giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn: Đây là nguyên tắc vừa mang tính chất chung cho tất cả các nước khi thiết lập và thực hiện quan hệ đối ngoại,vừa là nguyên tắc có tính đậc thù đối với các nước XHCN trong đó có nước ta.
Bốn nguyên tắc nói trên có mối quan hệ mật thiết với nhau và đều có ý nghĩa chi phối hoạt động KTĐN, đặ biệt là những nguyên tắc cơ bản trong chiến lược phát triển KTĐN ở nước ta.
Ngoại thương
Ngoại thương, hay thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ (hàng hoá hữu hình, vô hình) giữa các quốc gia thông qua xuất khẩu.
Trong KTĐN, ngoại thương giữ vị trí trung tâm và có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp, tăng tích luỹ của mỗi nước nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh của các quốc gia trong trao đổi quốc tế, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, "điều tiết thừa thiếu" ở mỗi quốc gia, nâng cao trình độ công nghệ và cơ cấu ngành nghề trong nước, tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao đời sống của người lao động nhất là trong các ngành xuất khẩu.
Trong KTĐN, ngoại thương giữ vị trí trung tâm và có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp, tăng tích luỹ của mỗi nước nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh của quốc gia trong trao đổi quốc tế, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, "điều tiết thừa thiếu" ở mỗi quốc gia, nâng cao trình độ công nghệ và cơ cấu ngành nghề trong nước, tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao đời sống của người lao động nhất là trong các ngành xuất khẩu.
Ngoại thương bao gồm các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, thuê nước ngoài gia công tái xuất khẩu, trong đó xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt động KTĐN ở các nước nói chung và nước ta nói riêng.
Ở nước ta, chính sách xuất khẩu trong những năm tới là tiếp tục nâng cao kim ngạch xuất khẩu và mức xuất khẩu bình quân đầu người, tăng tỷ trọng các mặt hàng đã qua chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu thô và các mặt hàng sơ chế.
Chính sách nhập khẩu trong thời gian tới phải tập trung vào nguyên liệu, vật liệu, các loại thiết bị công nghệ đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải theo huớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá phục vụ chiến lược hướng mạnh vào xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng có thể sản xuất có hiệu quả ở trong nước.
Một yêu cầu đặt ra là cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính sách thương mại tự do và chính sách bảo hộ thương mại. Chính sách thương mại tự do có nghĩa là chính phủ không can thiệp bằng biện pháp hành chính đối với ngoại thương, cho phép hàng hoá cạnh tranh tự do trên thị trường trong nước và ngoài nước, không thực hiện đặc quyền ưu đãi đối với hàng hoá xuất nhập khẩu của nước mình, không có sự kỳ thị với hàng hoá xuất khẩu của nước ngoài. Chính sách bảo hộ thương mại có nghĩa là chính phủ thông qua biện pháp thuế quan và phi thuế quan như hạn chế số lượng nhập khẩu, chế độ quản lý ngoại tệ để hạn chế sự xâm nhập của hàng hóa nước ngoài. Trong điều kiện hiện nay, vấn đề đặt ra đối với nước ta là phải xử lý thoả đáng hai xu hướng nói trên bằng cách kết hợp hai xu hướng đó trong chính sách ngoại thương sao cho vừa bảo vệ vừa phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ thị trường trong nước, thúc đẩy tự do thương mại, khai thác có hiệu quả thị trường thế giới.
Trong phát triển ngoại thương, phải hình thành một tỷ giá hối đoái sát với sức mua của đồng tiền Việt Nam. Tỷ giá hối đoái, được hiểu là giá cả ngoại tệ hoặc giá cả trên thị trường ngoại tệ, tỷ giá giữa hai đồng tiền của nước sở tại với đồng tiền của nước ngoài, đóng vai trò một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng trong kinh tế quốc tế. Do vậy, việc xây dựng một tỷ giá hối đoái, thống nhất giá thị trường tiền tệ là rất cần thiết cho mỗi nước.
Hợp tác sản xuất
Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công, xây dựng xí nghiệp chung, chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất quốc tế...
Nhận gia công là hình thức cho phép tận dụng nguồn dự trữ lao động, tạo công ăn việc làm và tận dụng công suất máy móc hiện có.
Xây dựng các xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ từ nước ngoài... là kiểu tổ chức xí nghiệp thương nghiệp, dịch vụ và tổ chức tài chính, tín dụng tồn tại dưới dạng các công ty cổ phần. Các xí nghiệp này được ưu tiên xây dựng ở những ngành kinh tế quốc dân hướng vào xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu và trở thành nguồn thu ngoại tệ chuyển đổi, tạo điều kiện cho nhà nước tiết kiệm ngoại tệ.
Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá. Chuyên môn hoá bao gồm chuyên môn hoá ở các ngành khác nhau và chuyên môn hoá trong cùng một ngành. Hình thức hợp tác này làm cho cơ cấu kinh tế theo ngành của các nước tham gia đan kết vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
Hợp tác khoa học – công nghệ
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra những bước phát triển nhảy vọt trong lực lượng sản xuất xã hội, làm xuất hiện nhiều ngành công nghệ mới như công nghệ năng lượng hạt nhân, công nghệ vật liệu mới, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học... Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, các vấn đề hợp tác quốc tế và chuyển giao công nghệ ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Đặc biệt, công nghệ thông tin chính là một nhân tố làm thay đổi cơ cấu ngành kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh tế dựa trên văn minh công nghiệp sang nền kinh tế dựa trên văn minh hậu công nghiệp – nền kinh tế tri thức.
Hợp tác khoa học công nghệ được biểu hiện dưới nhiều hình thức như: trao đổi tài liệu kỹ thuật và thiết kế, mua bán giấy phép, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hợp tác đào tạo,..
Hợp tác khoa học công nghệ có thể tạo ra cơ hội để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật – công nghệ, giáo dục - đào tạo...
Đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là sự góp vốn của hai hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích đem lại lợi nhuận.
Đầu tư quốc tế có tác dụng hai mặt đối với các nước nhận đầu tư. Một mặt, nó làm tăng nguồn vốn, chuyển giao công nghệ mới, nâng cao trình độ quản lý, tăng thêm việc làm, đào tạo tay nghề, khai thác tài nguyên... Mặt khác, đầu tư quốc tế cũng có thể làm tăng sự phân hoá giai tầng xã hội, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường sinh thái, tăng sự lệ thuộc với bên ngoài.
Có hai hình thức đầu tư là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp (vốn FDI) là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận. Các biểu hiện của đầu tư trực tiếp là: Hợp đồng hợp rác kinh doanh, xí nghiệp liên doanh (hai bên cùng góp vốn theo tỷ lệ nhất định), hợp đồng xây dựng - kinh doanh- chuyển giao.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu tách rời với quyền sử dụng vốn đầu tư. Chủ thể đầu tư gián tiếp có thể là chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ...
Nước ta đang trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất, vì vậy việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài b(cả trực tiếp và gián tiếp) đều có ý nghĩa hết sức quan trọng, muốn vậy chúng ta phải nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư để thu hút các dòng vốn từ nước ngoài.
Dịch vụ thu ngoại tệ – Xuất khẩu tại chỗ
Xu thế của nền kinh tế thế giới ngày nay là tỷ trọng của các ngành dịch vụ ngày càng tăng, vì vậy việc đẩy mạnh các dịch vụ thu ngoại tệ là một yêu cầu cấp thiết trong chiến lược phát triển KTĐN.
Các dịch vụ thu ngoại tệ – xuất khẩu tại chỗ bao gồm:
- Du lịch quốc tế, kể cả lữ hành.
- Du lịch khách sạn, nhà hàng quốc tế
- Dịch vụ giao thông vận tải quốc tế
- Dịch vụ tài chính, ngân hàng quốc tế
- Các dịch vụ thu ngoại tệ khác...