24/05/2018, 23:32

Khái niệm hiệu quả tín dụng trung- dài hạn

Tín dụng trung dài hạn đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển trong nền kinh té nước ta, đặc biệt trong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Như đã nói ở phần trên, tín dụng trung dài hạn không chỉ tác động tới nền kinh tế mà ...

Tín dụng trung dài hạn đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển trong nền kinh té nước ta, đặc biệt trong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Như đã nói ở phần trên, tín dụng trung dài hạn không chỉ tác động tới nền kinh tế mà còn tác động tới các DN mà hơn cả là tới NH. Thông qua việc xem xét hiệu quả của hoạt động cho vay trung- dài hạn sẽ giúp cho NH có thể đánh giá lại hoạt động cho vay của mình để từ đó có thể đưa ra những giải pháp thông qua nhằm khắc phục những tồn tại thiếu sót và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cho vay.

Xét trên quan điểm của NH thì hoạt động tín dụng trung- dài hạn được xem là có hiệu quả khi nó đảm bảo được ba yếu tố:

  1. Khả năng sinh lợi cho NH
  2. Khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng hạn
  3. Khả năng thanh khoảnh từ phía nguồn.

Điều này có nghĩa là các NH khi tiến hành cho vay trung- dài hạn thì khoản cho vay đó phải đem lại thu nhập cho NH, đảm bảo trang trải được chi phí trả cho lãi suất huy động hoặc đi vay, chi phí NH và rủi ro của NH. Song không phải các NH cứ cho vay nhiều, mang lại nhiều lợi nhuận là có hiệu quả cao bởi vì nếu cho vay ra mà không thu hồi được vốn cho vay hoặc cho vay không cân xứng với nguồn huy động được thì sớm hay muộn NH cũng dễ rơi vào tình trạng thua lỗ, đổ bể. Chính vì vậy, yếu tố hiệu quả trong kinh doanh là yếu tố quan trọng và cần thiết đầu tiên đối với sự tồn tại và phát triển của NH.

Quy mô cho vay trung- dài hạn:

Quy mô cho vay trung- dài hạn được thể hiện thông qua các chỉ tiêu sau:

  1. Doanh số cho vay: Là chỉ tiêu cơ bản khi đánh giá một cách khái quát và có hệ thống đối với những khoản vay tại một thời điểm. Khi xác định doanh số cho vay, chưa có sự đánh giá cụ thể về chất lượng và phần ròng của những khoản vay trong một thời kỳ nhất định. Nhưng đây là chỉ tiêu cho biết khả năng luân chuyển sử dụng vốn của một NH. Quy mô đầu tư và cấp vốn tín dụng của NH đó với nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ.
  2. Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế: Tổng dư nợ nội tệ và ngoại tệ thể hiện được mối quan hệ tín dụng giữa NH với khách hàng, đồng thời là chỉ tiêu phản ánh phần vốn đầu tư hiện đang còn lại tại một thời điểm của NH mà NH đã cho vay nhưng chưa thu về. Đồng thời chỉ tiêu này cũng phản ánh Mối quan hệ với doanh số cho vay (dư nợ đầu kỳ + doanh số cho vay – doanh số thu nợ = dư nợ cuối kỳ), với khả năng đáp ứng nguồn vốn của các NHTM đối với nhu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế.

Hiệu quả tín dụng trung- dài hạn

Để đánh giá hiệu quả tín dụng trung- dài hạn, người ta có thể dùng nhiều chỉ tiêu khác nhau. Các chỉ tiêu này là các chỉ tiêu chung cho toàn bộ các khoản tín dụng trung- dài hạn tại NH, tức là đánh giá hiệu quả tín dụng trung- dài hạn của một NH.

Xét trên quan điểm NH:

  1. Chỉ tiêu dư nợ:

Chỉ tiêu này cho thấy biến động tỷ trọng dư nợ trung- dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng của một NH qua các thời kỳ khác nhau. Có thể nghiên cứu biến động quy mô, khối lượng tín dụng trung- dài hạn. Nếu chỉ xem xét tử số, tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển ngày càng có uy tín. Vì tín dụng trung- dài hạn có rất nhiều rủi ro tiềm ẩn, thế mà dư nợ lại lớn chứng tỏ mối quan hệ khách hàng- NH là hoàn toàn tin cậy.

Chỉ tiêu này cũng có thể dùng so sánh giữa các NH khác nhau để thấy được thế mạnh của NH này so với thế mạnh của NH khác trong hoạt động tín dụng trung- dài hạn. Tuy nhiên, có thể coi đây như một chỉ tiêu định lượng để có thể thấy rõ bản chất của tín dụng trung- dài hạn của một NH.

  1. Chỉ tiêu sử dụng vốn:

NH có thể sử dụng nguồn vốn trung- dài hạn và một phần nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung- dài hạn. Có thể hiểu đây là chỉ tiêu hệ quả phán ánh hiệu quả tín dụng. Chỉ tiêu sử dụng vốn cho phép đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động tín dụng của một NH. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ NH đã sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn huy động được.

  1. Chỉ tiêu nợ quá hạn:

NH sẽ chuyển các khoản vay không trả được nợ khi đến hạn thành các khoản nợ quá hạn. Nợ quá hạn có thể do các nguyên nhân chủ quan của phía DN, do các nguyên nhân khách quan hoặc do xác định không hợp lý thời hạn vay, phương thức hoàn trả hay một số yếu tố khác của hợp đồng. Nợ quá hạn là điều không mong muốn của NH. Nó làm giảm hiệu quả tín dụng của NH và các NH luôn cố gắng làm giảm tỷ lệ này.

Chỉ tiêu này cho thấy trong 100% dư nợ tín dụng trung- dài hạn thì có bao nhiêu % là nợ quá hạn.

Thể hiện tỷ lệ nợ không thanh toán đúng hạn trên tổng dư nợ. Các NH có chỉ số này thấp chứng tỏ hiệu quả tín dụng cao. ở các nước có nền tài chính phát triển, người ta quy định các NH có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ < 5% thì được coi là có chất lượng tín dụng tốt, ngược lại nếu vượt quá 5% thì có dấu hiệu xấu, hoạt động của NH đó không an toàn, nguy cơ rủi ro cao.

  1. Chỉ tiêu nợ khó đòi :

Rõ ràng tỷ lệ này càng cao, thì tín dụng có hiệu quả càng thấp. Nợ khó đòi có nguy cơ làm giảm lợi nhuận của NH và nếu có quá nhiều nợ khó đòi sẽ có thể làm cho NH phá sản. Các NH đang cố gắng giảm đến mức tối đa các khoản nợ khó đòi để làm tăng hiệu quả tín dụng trung- dài hạn.

  1. Chỉ tiêu lợi nhuận:

Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả các khoản tín dụng trung- dài hạn bởi xét cho cùng mục đích của NHTM là lợi nhuận, hay ít nhất cũng thu đủ để bù đắp chi phí bỏ ra.

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung- dài hạn, nó nêu lên số lãi thu được từ 1 đồng dư nợ trung- dài hạn. Nên trong điều kiện thị trường và rủi ro như nhau thì chỉ tiêu này càng lớn càng có lợi cho NH. Đặc biệt với những NH chưa phát triển các dịch vụ NH thì thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu. Có nghĩa là hiệu quả tín dụng tốt phải bao gồm cả cái mà khoản tín dụng đó mang lại cho NH.

Hay ta xét đến chỉ tiêu:

Chỉ tiêu này cho phép thấy rõ hơn vị trí của tín dụng trung- dài hạn trong hoạt động của NH. Thu từ khoản tín dụng có hiệu quả cao sẽ đóng góp lớn vào thu nhập NH. Nếu khoản tín dụng có hiệu quả không tốt thì thu không được nợ gốc và lãi mà còn làm tăng chi phí của NH, nên sẽ kéo theo lợi nhuận giảm tương ứng.

Tuy nhiên, đối với một số dự án trung- dài hạn theo kế hoạch Nhà nước thì chỉ tiêu này đôi khi tỏ ra không đầy đủ để phản ánh hiệu quả tín dụng.

Vì mục tiêu kinh tế- xã hội hay chiến lược phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn, những ngành công nghiệp non trẻ, thì đôi khi mục tiêu lợi nhuận không phải là hàng đầu. Lúc này lợi nhuận không phản ánh thực chất của khoản tín dụng. Vì vậy, khi dùng các chỉ tiêu này để phân tích chúng ta phải xem xét tổng hợp các mục tiêu của dự án vay vốn trung- dài hạn.

  • Xét trên quan điểm khách hàng

Khách hàng là người trực tiếp quản lý, sử dụng vốn trung- dài hạn, đối với khách hàng thì chất lượng tín dụng biểu hiện ở một số chỉ tiêu như sau:

- Doanh thu tăng từ dự án

  1. Lợi nhuận tăng từ dự án
  2. Lao động tăng từ dự án

Có thể nói, một khoản tín dụng tốt đối với NH cũng chính là khoản tín dụng tốt đối với DN. Từ nguồn vốn vay NH mà DN thay đổi cơ chế mới, mở rộng hoạt động sản xuất, làm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận của DN. Như vậy, mục tiêu của DN không chỉ là cho vay thu mà còn thông qua nguồn vốn trung- dài hạn để kích thích hoạt động của DN, tạo cơ sở cho sự phát triển nền kinh tế. DN làm ăn coá hiệu quả, có lãi lại tiếp tục đầu tư vào dự án mới, lại xuất hiện nhu cầu tín dụng mới. Có thể thấy sự bước song hành trên lộ trình kinh tế giữa NH và DN dưới sự tác động qua lại có hiệu quả; chỉ tiêu tăng lao động từ dự án đáng quan tâm nhất là trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp tăng gần 7% thì một dự án đầu tư sẽ giải quyết về khó khăn, về công việc làm cho DN và cho xã hội, đó cũng là một khoản tín dụng có hiệu quả.

Như vậy, khi đánh giá hiệu quả tín dụng trung- dài hạn, ta không thể căn cứ vào một chỉ tiêu cụ thể mà phải xem xét một hệ thống các chỉ tiêu ở trên để phân tích cả hai mặt định lượng và định tính, cả về lợi nhuận thuần tuý và lợi ích xã hội, cả trên quan điểm của khách hàng và quan điểm của NH. Có như vậy việc đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng mới thực sự khách quan, chính xác phản ánh đúng thực trạng để từ đó phân tích nguyên nhân, tìm ra giải pháp, tháo gỡ khó khăn một cách hiệu quả.

Hoạt động tín dụng trung- dài hạn của các NHTM được thực hiện dưới hình thức sau:

  • Cho vay theo dự án (Cho vay trực tiếp): Là hình thức cho vay trực tiếp bằng đồng vốn của NH đối với các dự án.
  • Cho vay gián tiếp: Là hình thức cho vay thông qua hoạt động cho thuê máy móc, thiết bị các động sản khác phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh được tổ chức tín dụng mua theo yêu cầu của bên mua.

Mặt khác, đây là một hoạt động tín dụng còn rất mới đối với DN đi thuê. Do vậy, dư nợ tín dụng trung hạn và dài hạn được thực hiện dưới dạng vay theo dự án là phổ biến. Đây là mảng tín dụng lớn mà các NHTM hiện nay đang cung cấp cho các DN. Vì vậy, vấn đề đặt ra là vốn trung- dài hạn cho nền kinh tế là một yêu cầu đang được quan tâm sâu sắc cuả các nhà lãnh đạo nhà nước kể cả nhà quản lý NH đều có quan điểm chung: Nền kinh tế muốn tăng trưởng thì các NHTM tìm cách thay đổi cơ cấu tín dụng, gia tăng tỷ trọng tín dụng trung- dài hạn.

Như vậy, để đạt được một tỷ trọng dư nợ trung- dài hạn bao nhiêu là hợp lý. Điều đó phụ thuộc môi trường và điều kiện cụ thể của mỗi NH, trên cơ sở đó các NHTM xây dựng cho mình một chiến lược tín dụng riêng để đưa ra quy định mức độ nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng trung- dài hạn.

Thẩm định dự án đầu tư:

Khi đến vay vốn trung- dài hạn, NH thường phải mang đến một dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư giúp NH xem xét một cách toàn diện các mặt của dự án để xác định tính khả thi của dự án và đồng thời quyết định cho vay. Cũng từ việc thẩm định NH có thể tư vấn, giúp đỡ cho chủ đầu tư sửa đổi những điểm không hợp lý trong dự án để có thể thực hiện dự án hiêụ quả hơn và NH có thể cho vay được.

Thẩm định là một công việc đòi hỏi nhiều thời gian và kỹ thuật tính toán riêng. Nếu việc thẩm định không được tiến hành chặt chẽ thì khả năng xảy ra rủi ro đối với NH sẽ rất lớn và khoản cho vay chắc chắn sẽ có hiệu quả không cao.

Để tìm được nhiều dự án có hiệu quả cao, các NH phải có đầy đủ thông tin về dự án và các lĩnh vực có liên quan. Khi đã có dự án, NH cũng phải có đầy đủ thông tin để thẩm định tính hiệu quả của dự án vì DN khi mang dự án đến NH chỉ muốn được NH chấp nhận và họ cũng có một số lý do khác nhau để lập một dự án thiếu chính xác. Khi cho vay, NH cũng luôn cần thông tin về tình hình thực hiện dự án, về thị trường và các thông tin khác để có thể phản ứng kịp thời trước những đột biến có thể xảy ra. Như vậy, thông tin tín dụng là một yếu tố hết sức quan trọng. Thông tin càng kịp thời, chính xác thì các rủi ro càng được hạn chế và ngày càng có khả năng nâng cao hiệu quả tín dụng.

Khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng:

Tín dụng trung- dài hạn là một trong những nghiệp vụ phức tạp nhất trong các khâu nghiệp vụ của NH, nó đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải nắm được đặc thù của mỗi ngành sản xuất kinh doanh, am hiểu về pháp luật, nắm bắt được thông tin thị trường và điều quan trọng phải biết thẩm định dự án, có như vậy thì mới có thể làm tốt được nghiệp vụ này. Vì lẽ đó mà NH gặp không ít khó khăn bởi mỗi ngành sản xuất kinh doanh đều có chỉ tiêu định mức kinh tế và những yếu tố tạo nên giá thành sản phẩm khác nhau. Mà thực tế trình độ NH nói riêng và cán bộ tín dụng nói chung vẫn còn thiếu bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng phát triển cao của công việc. Do vậy, dễ dẫn đến tình trạng cấp tín dụng kém hiệu quả, mặc dù các NH đã có những nhân viên có nhiều kinh nghiệm trong cho vay ngắn hạn.

Tín dụng trung- dài hạn được tìm kiếm, thẩm định và quyết định cho vay đều có vai trò quan trọng của cán bộ tín dụng. Dựa vào mối quan hệ và các thông tin có được, cán bộ tín dụngtìm đến dự án, để xác định nhu cầu vay của chủ đầu tư. Để có thể cho vay, cán bộ tín dụng có thể tiếp thẩm định dự án hoặc có thể nhờ phòng thẩm định hỗ trợ. Dù có phòng thẩm định nhưng vai trò và trách nhiệm của cán bộ tín dụng có thể trực tiếp thẩm định là rất quan trọng. Cán bộ tín dụng là người theo sát dự án, phát hiện kịp thời thông tin và là người chịu trách nhiệm chính của khoản vay. Hiện nay, ngoài trình độ và kinh nghiệm, người ta thường hay đề cập đến vấn đề đạo đức của cán bộ tín dụng. Cho vay là một công việc phức tạp liên quan đến tài chính và không phải ai cũng có thể không dao động trước những cám dỗ. Khi đã có những sai phạm của cán bộ tín dụng thì hậu quả thường rất lớn đối với NH và đối với nền kinh tế.

Chính sách tín dụng của NH:

Đối với mỗi NH và trong từng thời kỳ thường có những chính sách khác nhau. Chính sách tín dụng của NH ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng các khoản cho vay, quy mô của từng khoản vay, các khoản đảm bảo và nhiều yếu tố khác. Chính sách tín dụng của NH không những phụ thuộc khá nhiều vào chính sách của Chính Phủ và các cơ quan quản lý. Chính sách tín dụng tạo ra sự quản hướng dẫn cần thiết cho các nhân viên tín dụng và rõ ràng có ảnh hưởng mạnh đến hiệu quả tín dụng.

Chính sách lãi suất:

NHTM là định chế tài chính trung gian thực hiện đi vay để cho vay với lãi suất cao hơn. Nguồn vốn hoạt động của các NHTM chủ yếu bằng vốn huy động, khi huy động vào phải trả lãi suất cho người gửi tiền, và khi cho vay họ sẽ thu được lãi suất cho vay. Trong cơ chế thị trường thì lãi suất luôn biến động, phụ thuộc vào cung- cầu trên thị trường. Do đó, phải có một chính sách lãi suất phù hợp làm cơ sở cho NH nâng cao hiệu quả tín dụng trung- dài hạn tức là phải đảm bảo các điều kiện sau đây:

  1. Bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, ngoài tiền lãi còn có các lợi ích khác như sự an toàn, thanh toán lợi nhuận.
  2. Lãi suất cho vay phải bù đắp được chi phí về huy động vốn chi phí về nghiệp kinh doanh của NH có dự phòng bù đắp rủi ro và bảo đảm mức thu nhập ròng hợp lý cho NH.
  3. Lãi suất phải dược thay đổi theo cung- cầu thị trường nhưng sự biến động của nó luôn trong giới hạn.
  4. Lãi suất cho vay phải phù hợp với đối tượng của tín dụng có nghĩa là lãi suất cho vay dài hơn phải lớn hơn lãi suất ngắn hạn bởi cho vay dài hạn có mức độ rủi ro cao hơn.

Công tác tổ chức cho vay của NH:

Tổ chức cho vay của NH tuỳ thuộc vào nhiều yêú tố như quy mô NH, quy mô các khoản tín dụng hay các loại cho vay. Nhân viên tín dụng thường tiếp súc trực tiếp với người vay, nhận đơn xin vay, phỏng vấn người vay, quyết định xem xét đơn xin vay và thu thập thông tin từ phía khách hàng. Tại các NH nhỏ, các cán bộ tín dụng cho vay trung- dài hạn có thể được sắp xếp kết hợp với các loại cho vay khác hay có thể là với các nhiệm vụ khác. Mỗi nhân viên có những mức phán quyết nhất định. Tại các NH có quy mô vừa, có nhiều uỷ quyền và chuyên môn trong hoạt động cho vay hơn. Có thể có một uỷ ban cho vay để xử lý các yêu cầu xin vay lớn đến một mức độ nhất định. Tổ chức cho vay tại NH lớn thường được chuyên môn hoá thành các bộ phận phụ trách các loại cho vay khác nhau. Công tác thu thập xử lý thông tin cũng được thực hiện một cách có hệ thống và tạo nhiều thuận lợi cho cán bộ tín dụng. Tại các NH chi nhánh, công tác tổ chức cho vay về cơ bản cũng giống như tại các NHTW, nhất là các chi nhánh lớn chỉ khác là có các mức phán quyết dành cho giám đốc chi nhánh và mỗi chi nhánh có thể được chuyên môn hoá theo địa bàn hoặc đối tượng cho vay. Cách tổ chức cho vay tại các chi nhánh cũng có thể phụ thuộc nhiều vào cách tổ chức của NH cấp Trung ương.

Như vậy, có thể thấy công tác tổ chức cho vay có thể hỗ trợ đắc lực cho nhân viên tín dụng và công tác này ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả tín dụng.

Khả năng về nguồn vốn trung- dài hạn:

Nguồn vốn cho vay bằng tiền là cơ sở để NH hoạt động tín dụng. Quy mô và cơ cấu vốn quyết định lựa chọn các hình thức đầu tư, nguyên tắc cơ bản mà NH luôn tuân thủ trong khi cho vay là: Chỉ được phép cho vay trung- dài hạn khi có nguồn vốn trung- dài hạn. Vì đầu tư trung- dài hạn là đầu tư cho tương lai, song các NH phải tính toán và chấp nhận rủi ro theo quy mô của từng khoản đầu tư.

Nếu NH lạm dụng một lượng lớn nguồn vốn ngắn hạn quá quy định cho phép để cho vay trung- dài hạn thì có thể xảy ra tình trạng: NH không thanh toán kịp thờicho những khoản huy động ngắn hạn trong khi các khoản vay trung- dài hạn chưa đến hạn và gửi tiền mới thì chưa huy động được.

Thực tế các NHTM trong giai đoạn hiện nay về huy động nguồn vốn này là hết sức nan giải. Chính vì lẽ đó, để thực hiện chiến lược đa dạng hoá, đa phương hoá các phương thức, giải pháp huy động vốn từ mọi nguồn, kể cả nước ngoài, NH phải tạo được cơ cấu hợp lý.

Từ kinh nghiệm và thực tế, NHNN đã cho phép các NHTM được dùng 20% vốn ngắn hạn để đầu tư cho các dự án vay trung- dài hạn. Tất cả vì sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước mà Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra và Chính Phủ đẫ cho phép các NHTM tiếp tục chuyển vốn ngắn hạn cho vay trung- dài hạn theo kế hoạch Nhà nước (Văn bản số 6213/ KTTH ngày 07/12/1996).

  • Các nhân tố từ phía người xin vay

Các DN khi đến vay đều phải tính đến chất lượng hiệu quả sử dụng vốn vay. Nếu họ thực hiện có hiệu quả dự án và có lợi nhuận thì có thể làm tăng hiệu quả của khoản vay. Tuy nhiên, rất có thể trong quá trình quản lý, chủ đầu tư mắc phải những sai sót nhất định, dẫn tới thiệt hại cho bản thân họ và thiệt hại cho NH để kiếm lợi riêng. NH chỉ có thể giảm thiểu những rủi ro này bằng cách thẩm định chặt chẽ dự án, quản lý sát sao việc thực hiện, nắm bắt kịp thời các thông tin để đưa ra những quyết định chính xác.

Các nhân tố khách quan

Cho dù NH thực hiện tốt các yêu cầu khi cấp và chủ đầu tư có đủ khả năng cũng như đạo đức để thực hiện dự án thì khoản cho vay cũng vẫn có thể có hiệu quả thấp. Đó là ảnh hưởng của các yếu tố môi trường.

Môi trường kinh tế- xã hội:

Môi trường kinh tế xã hội là tổng hoà các mối quan hệ về kinh tế và xã hội tác động lên hoạt động của DN.

Môi trường kinh tế phát triển rất có thể tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tín dụng trung- dài hạn. Một khi thị trường đã quen với các khoản tín dụng, các chế độ báo cáo và hạch toán tài chính được sử dụng phổ biến, thì hiệu quả các khoản tín dụng được nâng lên.

Chu kỳ kinh tế cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động tín dụng. Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, sản xuất bị đình trệ, do đó hoạt động tín dụng sẽ gặp khó khăn về mọi mặt. Chẳng hạn khi lạm phát cao, lãi suất thực sẽ giảm xuống và nếu như NH không có cân đối giữa các loại nguồn và sử dụng nguồn nhạy cảm với lãi suất thì có thể khoản cho vay không đem lại hiệu quả mong đợi... Cũng có thể có những biến động về tỷ giá hoặc biến động về thị trường làm cho chủ đầu tư bị bất ngờ, dẫn đến thu không đủ, làm giảm khả năng trả nợ cho NH. Một DN hoạt động trong môi trường kinh tế thì phải chịu tác động của các biến đổi trong môi trường này. Vấn đề là công tác dự báo tình hình và khả năng ứng phó với các tình huống xảy ra của DN cũng như của NH để đảm bảo hiệu quả của các khoản tín dụng.

Môi trường pháp lý:

Môi trường pháp lý có thể ảnh hưởng tốt hoặc không tốt đến quy mô và hiệu quả các khoản tín dụng trung- dài hạn. Một môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ thống nhất và ổn định sẽ tạo điều kiện cho NH trong việc xét duyệt cho vay. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, pháp luật đã trở thành bộ phận không thể thiếu. Với vai trò hường dẫn và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong xã hội hoạt động theo trật tự, trong khuôn khổ pháp luật, đảm bảo sự công bằng an toàn và hiệu quả đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật đầy đủ đồng bộ. Ngoài ra còn có các quy định chồng chéo có thể gây khó khăn cho NH hoặc các quy định thiêú chặt chẽ có thể tạo ra kẽ hở để các bên trục lợi. Việc thay đổi các chính sách cũng có thể là một nguyên nhân gây khó khăn cho công tác thu hồi nợ của NH.

Môi trường chính trị- xã hội:

Môi trường chính trị- xã hội ổn định sẽ là một nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư và NH cũng có thể mạnh dạn cho vay. Trong tình hình chính trị – xã hội không ổn định như đình công, bãi công sự đấu tranh giữa các Đảng phái, thế lực trong xã hội, chiến tranh biên giới thì không chỉ riêng các DN sản xuất mà bản thân NH cũng khó có thể tập trung vào đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện như vậy duy trì sự phát triển như cũ đã là khó huống gì nói đến việc mở rộng. Vì vậy, hiệu quả tín dụng khó có thể bảo đảm được. Hơn nữa sự bất ổn về chính trị- xã hội sẽ dẫn đến mất lòng tin đầu tư của dân chúng như các chủ DN trong và ngoài nước. NH không huy động thêm vốn, trong khi có thể xu hướng dân chúng rút dần tiền gửi NH về tự bảo quản và như vậy NH sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyyển sang nền kinh tế thị trường, nâng cao tín dụng trung- dài hạn sẽ đưa lại nhiều lợi ích cho DN, cho NH và nền kinh tế. Nếu NH có một nguồn vốn ổn định trong thời gian dài, dùng nguồn vốn này sẽ tạo lợi nhuận cao hơn rất nhiều so với việc dùng nó cho vay ngắn hạn.

Bên cạnh khoản cho lợi nhuận hấp dẫn, tín dụng trung- dài hạn còn là vũ khí cạnh tranh rất có hiệu quả giữa các NH với nhau. Với sản phẩm này, NH sẽ phục vụ tốt hơn cho các DN và ngày càng nhiều khách hàng đến với NH. Khi đã xác định nâng cao hiệu quả cho vay trung- dài hạn, các NH không chỉ nhìn vào lợi ích trước mắt mà mong đợi lợi ích lâu dài hơn đó là: “Nâng cao tín dụng trung – dài hạn để đẩy mạnh cho vay ngắn hạn”. Các DN sau khi được NH cho vay vốn để đầu tư chiều rộng hoặc đầu tư chiều sâu năng lực sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên, từ đó nhu cầu về vốn lưu động lại càng tăng để đáp ứng cho sản xuất. Người đầu tiên mà DN sẽ dễ dàng tìm được sự thông cảm vì đã hiểu nhau qua các hợp đồng tín dụng. Về phía NH cũng muốn quan hệ với các DN để tiện theo dõi tình hình tài chính và các khoản thu chi của DN nhằm nắm vững sâu khách hàng hơn.

DN được vay vốn để đầu tư đổi mới tài sản cố định sẽ đạt được các mục tiêu, tăng số lượng, chất lượng của sản phẩm, giá thành hạ, tăng tiêu thụ dẫn đến tăng lợi nhuận. Đó chính là cơ sở để DN tồn tại và phát triển. Xét trên góc độ tài chính DN, nhạy cảm trong đầu tư sản xuất kinh doanh sẽ hạ thấp được chi phí sản xuất. Đây cũng là biện pháp để chống hao mòn vô hình. Nếu chỉ trông chờ vào nguồn vốn tích luỹ thì phải mất một thời gian dài DN mới đổi mới được tài sản cố định do vậy sẽ bị tụt xa với các DN trường vốn đã trang bị hiện đại. Trong cuộc cạnh tranh đó, không có chỗ cho các sản phẩm lạc hậu. Vì thế, lối thoát duy nhất cho các DN là đi vay để đổi mới. Khi tìm kiếm các nguồn vốn từ bên ngoài, DN mong muốn có được các khoản tín dụng dài hạn từ NH. Có ý kiến cho rằng: Cách tốt nhất để huy động vốn là DN phát hành cổ phiếu trái phiếu để huy động vốn dài hạn. Chúng ta không phủ nhận những mặt tích cực của thị trường chứng khoán trong việc phục vụ nhu cầu bổ sung vốn cho DN, nhưng hình thức này chỉ phát huy ở những nước có hệ thống thị trường chứng khoán và thị trường vốn hoàn hảo.

Các khoản vay trung- dài hạn sẽ được trả dần theo định kỳ dựa trên hiệu quả kinh doanh thực tế của DN. DN được hưởng một khoản thời gian ân hạn, trong thời gian đó, DN không phải trả lãi. Thậm chí một số kỳ hạn của món vay cũng có thể thương lượng với NH để ra hạn khi có sự biến động trong thu nhập của DN.

Một lý do khác làm cho các khoản vay trung dài hạn tại NH ngày một gia tăng là do sự ra đời của các DN có quy mô vừa và nhỏ, cũng tìm đến các nhà tài chính NH để vay vốn trang bị tài sản cố định. Cân đối với một số DN làm ăn kém hiệu quả, NH sẽ thực hiện đúng quy trình và điều khiển vay vốn, thậm chí từ chối cấp tín dụng. Từ đó bản thân DN phải tự đổi mới lại tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả hơn để được vay vốn, hoặc phải sát nhập với DN lớn nếu không muốn phá sản.

Xét trên phương diện toàn nền kinh tế, hoạt động tín dụng trung- dài hạn của các NH nếu có hiệu quả sẽ tác động tốt tới mội lĩnh vực kinh tế- chính trị- xã hội. Phát triển cho vay tín dụng trung- dài hạn sẽ giảm bớt đáng kể các khoản bao cấp từ ngân sách cho đầu tư sản xuất kinh doanh, góp phần giảm bớt thâm hụt ngân sách. Với tư cách là trung gian tín dụng “Đi vay để cho vay” NH sẽ huy động giá trị thặng dư nằm rải rác trong các DN và cá nhân, biến nó thành nguồn lớn để đầu tư cho các dự án có khả thi cao. Tín dụng NH góp phần đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung vốn của nền kinh tế. Mặc dù là một đơn vị kinh doanh nhưng các NH quốc doanh vẫn là bộ phận của Nhà nước. Hoạt động tín dụng trung- dài hạn nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia thông qua các chính sách ưu đãi trong tín dụng. Về nguyên tắc, NH ưu đãi đối với những công trình sản xuất trực tiếp và thực hiện trực tiếp các điều kiện vay vốn cố định với các DN kinh doanh dịch vụ.

Đầu tư tín dụng trung- dài hạn của NH theo trọng điểm của ngành trên cơ sở trong nội bộ từng ngành đã sắp xếp lại các DN giữa các ngành góp phần hình thành cơ cấu hợp lý. Hoạt động đầu tư tín dụng theo chiều rộng, chiều sâu đã tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật vững chắc cho nền kinh tế phát triển lâu dài. Với năng lực sản xuất tăng, tạo ra sản phẩm hàng hoá nhiều hơn đủ tiêu chuẩn để dùng và dư thừa cho suất khẩu, nhiều DN với máy móc hiện đại sản xuất ra sản phẩm thay thế hàng nhập. Những kết quả đó đóng góp phần nào tiết kiệm chi ngoại tệ. Tạo cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh. Ngoài ra tín dụng trung- dài hạn của NH còn đóng góp phần giải quyết nạn thất nghiệp và hạn chế các tệ nạn xã hội khác.

0