Bộ đề chuẩn bị kì thi trung học phổ thông Quốc Gia môn Văn 2015 số 22
Truyện ngắn này không lôi cuốn người đọc bởi cốt truyện li kì hoặc một vài yếu tố khác, mà trước hết ở các nhân vật được khắc hoạ một cách sống động, sắc nét. Truyện được kết cấu theo mạch hồi tưởng đứt nối của nhân vật Việt trong trạng thái chập chờn khi tỉnh khi mê giữa chiến trường. Qua dòng hồi ...
Truyện ngắn này không lôi cuốn người đọc bởi cốt truyện li kì hoặc một vài yếu tố khác, mà trước hết ở các nhân vật được khắc hoạ một cách sống động, sắc nét. Truyện được kết cấu theo mạch hồi tưởng đứt nối của nhân vật Việt trong trạng thái chập chờn khi tỉnh khi mê giữa chiến trường. Qua dòng hồi tưởng chắp nối đo, những người thân của Việt như má, chú Năm, chị Chiến và cả chính Việt dần dần hiện ra với những nét sâu đậm, đáng nhớ.
Câu 1.
Phân tích các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong hai đoạn thơ sau:
a)
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
Lưng trần phoi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con
(Nguyễn Duy, Tre Việt Nam)
b)
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
(Xuân Quỳnh, Sóng)
Câu 2.
Hãy sử dụng thông minh những thiết bị thông minh.
Viết một bài văn (khoảng 600 từ) thể hiện quan điểm của anh (chị) về vấn đề trên.
Câu 3.
Viết Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi vừa quan tâm thể hiện những nét chung của Chiến và Việt - hai chị em trong một gia đình nông dân Nam Bộ giàu truyền thống cách mạng - lại vừa chú ý khắc hoạ được những nét riêng, cá biệt của từng nhân vật.
Anh (chị) hãy trình bày ý kiến của mình về vấn đề trên.
Hướng dẫn làm bài
Câu 1.
1. a) Ở hai câu đầu của đoạn trích trong bài thơ Tre Việt Nam, Nguyễn Duy sử dụng phép tu từ so sánh. Măng tre vừa nhú khỏi mật đất được tác giả ví như ngọn chông. Hình ảnh so sánh này rất đắt, giàu tính tả thực, tính tạo hình. Chính hình ảnh đó giúp người đọc hình dung rõ nét, chính xác đối tượng được miêu tả. Chưa lên đã nhọn như chông còn khiến ta liên tưởng đến truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta. Từ bao đòi, mũi chông tre đã làm khiếp đảm quân thù.
Hai câu thơ sau, Nguyễn Duy sử dụng phép nhân hoá. Trong con mắt nhà thơ, cây tre lớn lên, trút bỏ vỏ măng là “nhường cho con” “manh áo cộc”. Từ một đặc điểm rất nổi bật của cây tre, tác giả đã giúp người đọc nghĩ đến truyền thống cần cù, chịu thương chịu khó và đức hi sinh, nhường nhịn của người Việt Nam.
b) - Ở hai câu thơ Dữ dội và dịu êm / Ồn ào và lặng lẽ, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã dùng phép đối lập. Nhờ biện pháp tu từ này mà tác giả đã thể hiện rất ấn tượng những trạng thái đối nghịch của sóng. Nhìn những con sóng mơn man, nhẹ nhàng vỗ về bờ cát, có ai ngờ, sẽ có lúc sóng vỗ tung ào ạt, thậm chí là những con sóng thần dữ dội giữa trận cuồng phong. Hai mặt đối lập tưởng loại trừ nhau ấy vẫn là những thuộc tính hiển nhiên, là “khuôn mặt” của sóng.
Bên cạnh đó, sóng còn là một ẩn dụ về khát vọng tình yêu trong trái tim nhân vật trữ tình. Cũng như sóng, tình yêu trong trái tim em có muôn vàn cung bậc. Khi âm thầm, lắng sâu, lúc nồng nàn, cuồng nhiệt, đó mới là “khuôn mặt” muôn thuở của tình yêu.
- Sông không hiểu nổi mình / Sóng tìm ra tận bể là hai câu thơ sử dụng phép nhân hoá. Sóng cũng như em, luôn khát khao vượt thoát khỏi cái chật chội, hạn hẹp, tầm thường để tìm đến với cái khoáng đạt, bao dung, rộng rãi. Chỉ ở giữa biển khơi bao la, sóng mới thật sự được sống đời của sóng; cũng như với một trái tim bao dung, rộng lượng, tình yêu mới đích thực là tình yêu.
Câu 2.
Đề bài có từ thông minh gắn với hai đối tượng khác nhau, một là người sử dụng và hai là thiết bị được sử dụng. Người viết cần quan tâm trả lời các câu hỏi: Thế nào là “sử dụng thông minh”? Tại sao cần phải thông minh khi sử dụng các thiết bị thông minh? Ý nghĩa của việc sử dụng thông minh các thiết bị thông minh đối với việc xây dựng thái độ chủ động trong cuộc sống, trọng công việc?
Bài viết có thể triển khai các ý chính sau:
- Khoa học công nghệ hiện nay càng ngày càng cho ra đời nhiều hơn những thiết bị thông minh phục vụ đắc lực cho cuộc sống của con người. Chưa bao giờ con người
lại được sống giữa nhiều tiện nghi như vậy, tưởng như muốn gì là có, cần gì là được đáp ứng. Cuộc sống trở nên dễ chịu, dễ dàng. “Chất lượng cuộc sống” trở thành một cụm từ hay được nhắc đến như một “điều kiện cần” để đánh giá mức độ hạnh phúc, mức độ hưởng thụ của con người hiện đại.
- Từ thông minh trong cụm từ “thiết bị thông minh” muốn nói tới những tính năng đặc biệt, tiên tiến của các thiết bị mà con người tạo ra nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của chính mình. Mọi vật dụng mà chúng ta cần đến đều được chế tạo hướng đến sự “thông minh”, có thể làm hộ con người được rất nhiều việc. Chúng ta có nhà thông minh, tấm lợp thông minh, vô vàn thiết bị điện và điện tử thông minh. Chiếc điện thoại quen thuộc cũng là điện thoại thông minh, ngoài các tính năng thông thường còn có những tính năng của một laptop, có thể dùng để thực hiện nhiều công việc, dù ta đang ở nơi nào...
- Sự thông minh của thiết bị thể hiện sự thông minh của con người trong hoạt động khám phá và sáng tạo. Chúng ta đang thực sự tạo ra một môi trường sống mới cho con người, đem đến một sự “bổ sung” quan trọng và cần thiết cho môi trường sống cố hữu, quen thuộc. Tuy nhiên, ở đây không phải không xuất hiện những vấn đề đáng suy nghĩ: là sản phẩm được chúng ta tạo ra, nhưng đến lượt mình, các thiết bị thông minh cũng đang nhào nặn lại chúng ta, bắt chúng ta phải thích ứng với nó, thậm chí lệ thuộc vào nó. Ta đã thấy nhiều người quá ỷ lại vào thiết bị, ít vận động, động não trong hoạt động thực tiễn. Cũng có quá nhiều bạn trẻ mắc chứng nghiện điện thoại, chỉ mải mê “giao tiếp” với điện thoại mà quên giao tiếp thực với cuộc đời xung quanh... Do những điều đó, con người tưởng có thể làm chủ được mọi thứ mà nhiều khi lại trở nên bị động, thụ động, yếu ớt, dễ bị tổn thương hơn bao giờ hết.
- Việc sử dụng thông minh những thiết bị thông minh, vì vậy, đang trở thành một đòi hỏi bức thiết đối với mỗi chúng ta. Sử dụng thông minh không có nghĩa là không sử dụng hay là từ chối các tiện nghi, từ chối những tiện ích của đồ dùng. Trong thời đại ngày nay, tinh thần khắc kỉ khó có thể được đánh giá tích cực. Vậy vấn đề ở đây là phải xây dựng cho được thái độ chủ động trong việc sử dụng những phương tiện, tiện nghi làm việc. Chúng ta là ông chủ chứ không phải là nô lệ của những đồ dùng, thiết bị do chúng ta tạo ra. Nhân cách, trí tuệ, cảm giác của chúng ta cần được xây dựng theo cả những cách cổ điển. Kho cảm giác của chúng ta về cuộc đời, kí ức của chúng ta về lịch sử không thể bị đồng hoá bởi bộ nhớ của thiết bị. Xúc cảm của chúng ta đòi hỏi được bộc lộ trực tiếp trước những đối tác, đối tượng cụ thể ngoài đời chứ không đơn thuần trước những đối tượng ảo trong thế giới ảo, dù sự phân định thật, ảo bây giờ rất tương đối do biên giới của chúng thường xê dịch không ngừng.
- Khó mà có được một chỉ dẫn cụ thể về vấn đề: Thế nào là sử dụng thông minh những thiết bị thông minh? Thiết bị vốn hết sức đa dạng và những trường hợp sử dụng thiết bị cũng hết sức đa dạng. Mỗi người, tuỳ điều kiện và hoàn cảnh cụ thể phải tự rút
ra cho mình những kinh nghiệm riêng, trên cơ sở nhận thức được rằng: phẩm chất thông minh nơi mỗi con người luôn gắn liền với khả năng làm chủ những công việc, những tình huống mà mình đối diện, làm chủ những thiết bị mà mình đang sử dụng nhằm đạt một kết quả tốt đẹp nào đó.
Câu 3.
Với câu hỏi này, người làm bài phải hiểu được mục đích nghệ thuật của Nguyễn Thi: nhà văn muốn thông qua hai chị em trong một gia đình để nêu bật tinh thần cách mạng của đồng bào Nam Bộ những năm chiến tranh chống Mĩ ác liệt. Vì thế, các nhân vật ở đây có những nét tương đồng. Tuy nhiên, là nhà văn tài năng, Nguyễn Thi đã tạo nên những nhân vật có cá tính, với những biểu hiện riêng, độc đáo từ lời ăn tiếng nói đến hành động, nội tâm. Phân tích hai nhân vật trong sự đối sánh là để làm rõ những điều đó.
Bài viết có thể triển khai các ý chính sau:
- Nguyễn Thi là một nhà văn - chiến sĩ, từng sống, gắn bó sâu sắc với mảnh đất miền Nam cả trước và sau Cách mạng, vốn rất hợp với khí chất người dân Nam Bộ, Nguyễn Thi đã dồn tâm huyết của mình tập trung tái hiện cuộc sống khốc liệt của con người trên mảnh đất này trong những năm chiến tranh ác liệt. Sự am hiểu, yêu thương, tin tưởng mà ông dành cho con người miền Nam được gửi gắm vào hai chị em Chiến và Việt - những nhân vật chính trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình (1966) - một trong những truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Thi.
-
- Những nét giống nhau giữa Chiến và Việt:
+ Hai chị em Chiến và Việt là hai đứa trẻ mồ côi, ba bị giặc Pháp chặt đầu trong kháng chiến chín năm, má tần tảo nuôi con rồi cũng bị trúng đạn Mĩ chết trên đường đi đấu tranh về. Trên vai Chiến và Việt nặng hai mối thù. Ý thức đánh giặc trả thù cho ba má trở thành động cơ thôi thúc hai chị em. Trong đêm mít tinh ghi tên thanh niên tòng quân, hai chị em đều giành nhau để được nhập ngũ trước. Việc giành nhau có cái hồn nhiên, ngộ nghĩnh của hai nhân vật, nhưng ẩn sau hành động ấy là một ý chí được hun đúc từ lâu, là một sự thôi thúc thường xuyên, thường trực trong ý nghĩ: phải cầm súng giết giặc để trả thù nhà. Khi chị Chiến phân bì tuổi tác để quyết định việc nhập ngũ trước sau của từng đứa, Việt đã đáp lại bằng cái lí lẽ của mình: "Bộ mình chị biết đi trả thù à?". Câu nói giản dị, tự nhiên, có chút lí sự “trẻ con”, nhưng thực ra nó đánh dấu sự trưởng thành về tình cảm và nhận thức của hai chị em.
+ Nguyễn Thi rất chú ý miêu tả tình cảm của các nhân vật và cách biểu hiện trong từng tình huống cụ thể. Với Chiến, mẹ là hình mẫu, là tấm gương mà cô luôn noi theo. Chú Năm nhận thấy Chiến giống má như đúc. Mỗi cử chỉ, lời nói của Chiến đều khiến Việt thấy in như má. Như vậy, má luôn luôn có mặt trong mỗi công việc mà Chiến làm.
+ Tình cảm của Việt đối với má cũng sâu sắc không kém. Bị thương giữa chiến trường, ngất đi, tỉnh dậy, Việt nghĩ ngay tới má: "Việt tỉnh dậy lần thứ tư, trong đầu còn thoáng qua hình ảnh của người mẹ"... "Ước gì bây giờ lại được gặp má. Phải, ví như lúc má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn...". Kí ức đưa Việt trở lại cái đêm hai chị em chuẩn bị lên đường, với những hình ảnh rõ mồn một: "Cả chị cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt, má cũng phải về dòm ngó coi chị em Việt tính toán việc nhà làm sao chớ?".
+ Tình cảm của chị em Chiến, Việt đối với má được thể hiện xúc động qua đoạn miêu tả cảnh hai chị em khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm: "Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về".
+ Cả Chiến và Việt đều luôn nhớ mình là những đứa con trong một gia đình từng chịu nhiều mất mát đau thương nhưng cũng rất vẻ vang. Ngay từ thời niên thiếu, hai chị em đã lập được chiến công: đánh tàu chiến giặc trên sông Định Thuỷ, được chú Năm ghi vào cuốn sổ truyền thống của gia đình. Cuốn sổ gia đình đối với chị em Chiến, Việt là hết sức thiêng liêng. Được ghi vào cuốn sổ ấy là một niềm vui sướng. Bị cuốn hút bởi những gì mà chú Năm ghi trong đó, Chiến có thể quên cả ăn, ngồi đánh vần để đọc suốt từ trưa cho tới chạng vạng. Ý thức tiếp nối truyền thống gia đình của hai chị em thể hiện qua từng hành động. Được nhập ngũ vào chiến trường, họ hăng hái đánh giặc để trả thù cho ba má và làm vẻ vang thêm cho truyền thống gia đình.
- Những nét riêng trong tính cách của Chiến và Việt:
Nhân vật Chiến
Trong gia đình, Chiến là chị. Làm chị của đứa em trong một gia đình ba má bị giặc giết, bao nhiêu lo toan cô phải cáng đáng. Theo lời chú Năm, cô “không khác mẹ một chút nào”. Ngay cả Việt cũng nhận thấy thế. Cô có đức tính kiên trì, chịu khó, chỉ nội một việc bỏ ăn để ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ trưa cho tới lúc trời chạng vạng đã đủ chứng tỏ điều đó. Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính gan góc. Trong ngày tòng quân, cô nói với em: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Ở cô, khả năng vun vén, thu xếp công việc gia đình cũng thể hiện rất rõ. Trước khi cùng em nhập ngũ, mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ, chu đáo, “nói nghe thiệt gọn” khiến cho chú Năm cũng phải có chút sửng sờ, “nhìn hai cháu thiệt lâu” rồi nói: “Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước”. Câu nói của chú Năm thể hiện sự yên tâm của thế hệ trước đối với lớp người sau. Rõ ràng, họ đã trưởng thành, có thể gánh vác được những việc lớn của đất nước.
Nhân vật Việt
+ Khác với chị Chiến đã có dáng dấp của một người lớn thực thụ dù đôi lúc còn tranh giành với em, Việt còn giữ nguyên bản tính của một cậu bé. “Cậu Tư” này trong gia đình có điệu cười “lỏn lẻn” rất dễ thương. Cậu ta thường ngày vẫn hay tranh phần hơn với chị, từ chuyện bắt ếch đến chuyện đòi đi bộ đội trước. Cậu còn vô tâm vô tính, phó mặc chuyện nhà cho chị: “Tôi nói chị tính sao cứ tính mà...”. Trong khi chị bàn những việc phải làm ngày mai, Việt vẫn đùa nghịch “chụp một con đom đóm úp trong lòng tay” và thú vị quan sát điệu bộ, cử chỉ, cách nói năng “in hệt má” của chị.
+ Tính hồn nhiên, có chút trẻ con, nhưng Việt rất giàu tình cảm. Má đã mất, nhưng hình ảnh má luôn hiện hình trong tâm trí Việt, có mặt trong mỗi việc làm của Việt. Dầu thường giành nhau với chị, nhưng Việt rất thương chị. Cùng chị khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm, nghe tiếng chân chị bịch bịch đằng sau, "Việt thấy thương chị lạ". Bị thương giữa chiến trường, tuy không hề sợ hãi, nhưng Việt chỉ muốn thoát khỏi sự vắng lặng, gặp lại anh Tánh, níu chặt lấy anh mà khóc như thằng em út.
+ Tuy còn rất trẻ con như thế, nhưng ở chiến trường Việt chiến đấu rất dũng cảm. Việt đã tiêu diệt được một chiếc xe bọc thép của địch. Bị thương, Việt quyết bò đi tìm đồng đội. Nghe tiếng xe, pháo của giặc, Việt nằm chờ với tâm niệm: “Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này chỉ còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày! Mày chì giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Quả thực, Việt đã là một người lính chững chạc trong khi còn mang đầy đủ nét thơ ngây, trong sáng, đáng yêu của một cậu bé vừa đến tuổi thành niên.
- Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật:
+ Nhìn chung, trong khi xây dựng nhân vật, Nguyễn Thi rất quan tâm đến việc cá thể hoá. Nhân vật nào cũng có những nét riêng độc đáo, hiện lên mồn một trước mắt độc giả. Chú Năm nói khác má Việt và Việt nói khác chị Chiến. Lời nói của ai thể hiện rõ tính cách người đó.
+ Một thành công nữa rất cơ bản của Những đứa con trong gia đình là nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Cần đặc biệt lưu ý rằng truyện ngắn này được tổ chức dựa trên dòng hồi ức của nhân vật Việt khi bị thương trên trận địa. Miêu tả tâm lí của người tỉnh táo đã khó mà ở đây lại là tâm lí của con người luôn nằm trong trạng thái giữa mê và tỉnh, hiển nhiên nhiệm vụ nghệ thuật đặt ra càng khó bội phần. Nhưng nhà văn đã thể hiện một cách xuất sắc trạng thái “chập chờn cơn tỉnh cơn mê” đó của nhân vật. Bốn lần Việt “tỉnh dậy” trên trận địa, mỗi lần Việt nhớ gì, nghĩ gì đều được nhà văn miêu tả rất cụ thể, tinh tế và chính xác. Nhìn chung nhà văn nắm rất chắc quy luật diễn biến tâm lí con người. Ông đã khéo léo tạo cho tác phẩm một hình thức kết cấu độc đáo tương đồng với “kết cấu” của những giấc mơ chập chờn, từ đó cứ mở rộng dần đối tượng được miêu tả và đi mỗi lúc một sâu vào đời sống tâm hồn của nhân vật.