23/05/2018, 18:36

Bệnh tụ huyết trùng ( Powl cholera) của gà?

Gà bị bệnh tụ huyết trùng Bệnh thường xảy ra lặp lại theo vùng và theo mùa. Vùng nào đã nhiễm bệnh thì thường xảy ra vào những năm sau và thường xảy ra vào những mùa mưa (đối với miền Nam Việt Nam). I. ĐỘNG VẬT CẢM THỤ Hầu hết các loại gia cầm (gà, gà tây, vịt, ngỗng, ...

Gà bị bệnh tụ huyết trùng

Bệnh thường xảy ra lặp lại theo vùng và theo mùa. Vùng nào đã nhiễm bệnh thì thường xảy ra vào những năm sau và thường xảy ra vào những mùa mưa (đối với miền Nam Việt Nam).

I.ĐỘNG VẬT CẢM THỤ

Hầu hết các loại gia cầm (gà, gà tây, vịt, ngỗng, chim hoang dại) đèu mắc bệnh này. Động vật khác như thỏ, chuột đồng, chuột bạch đều mắc bệnh.

II. NGUYÊN NHÂN

Do vi khuẩn Pasteurella multocida, loại vi khuẩn Gram (-). Gần đây người ta thấy vi khuẩn bắt màu lưỡng cực giữa Gram (-) và(+).

Vi khuẩn có sức đề kháng rất cao, ở ngoài cơ thể động vật từ 2-3 ngày mới chết. Nếu ở trong cơ thể động vật bị chết, vi khuẩn có thể sống vài tuần. Đặc biệt ở trong tủy xương, vi khuẩn có thể sống trong cả tháng. Chính vì thế môi trường có mần bệnh và lây truyền vào thức ăn và nước uống.

III. NHỮNG PHUƠNG THỨC LÂY TRUYỀN

+ Lây truyền qua thức ăn, nước uống, đã bị nhiễm bệnh.

+ Lây nhiễm từ lợn bị mắc bệnh hoặc mang trùng thải ra môi trường (vì lợn có mang vi khuẩn P.multocida).

+ Lây nhiễm từ đàn gà bệnh sang gà khỏe qua phương thức chuyển đàn hay ghép đàn.

+ Do chim hoang dại và loài gặm nhấm (chuột v.v...) mang trùng từ nơi này sang nơi khác hoặc từ chuồng này tới chuồng khác.

+ Trong mỗi đàn bị bệnh, phương thức truyền bằng nhiều cách:

- Mần bệnh qua dịch mủ vào thức ăn, nước uống.

- Con sống mổ ăn xác con bệnh bị chết.

- Qua dụng cụ và người chăn nuôi nhiễm bệnh đi từ chuồng này sang chuồng khác.

- Qua phương thức thụ tinh nhân tạo

IV. TRIỆU CHỨNG

+ Giai đoạn cấp tính ban đầu:

- Gia cầm đột ngột chết với tỷ lệ cao.

- Trạng thái mệt mỏi, mào tím tái.

- Đi lại chậm chạp, liệt chân hay liệt cánh.

- Phân ỉa chảy thất thường, trắng loãng hoặc trắng xanh hoặc có máu tươi.

- Thở khó, chảy nước mũi, nước miếng.

+ Giai đoạn 4-5 ngày kể từ khi có con chết đầu tiên:

- Tích sưng, mũi sưng, viêm khớp, đi lại khó khăn, bại liệt.

- Mắt sưng, viêm kết mạc đỏ.

- Trứng đẻ giảm.

V. MỔ KHÁM BỆNH TÍCH

+ Trong những con chết ngày đầu, bệnh tích thường không rõ. Có thể thấy :

- Thịt sẫm màu. Vùng đầu nhợt nhạt.

- Phôi đỏ, có một vài đám sậm đen.

- Gan sưng, ruột sưng hoặc có máu (ở trên vịt có trường hợp gan bị vỡ một đám và xuất huyết cục).

+ Trong 2-3 ngày sau:

- Mỡ vành tim xuất huyết, bao tim tích nước.

- Phổi tụ huyết màu đen.

- Gan đôi khi xuất huyết vệt hoặc tử màu vàng. (Ở vịt lấm tấm hoại tử trắng như đinh ghim).

- Buồng trứng đôi khi dưng huyết đỏ hoặc xuất huyết và trứng non vỡ.

- ruột đôi khi viêm đỏ ở đoạn trực tràng.

Khớp đôi khi viêm có dịch màu vàng.

- Túi kết nạc và tích bị phù nhũng hoặc có mủ trắng.

VI. CHUẨN ĐOÁN

Dựa trên triệu chứng lâm sàng là một vài con trong một bầy (trong đièu kiện thời tiết thay đổi hoặc mới mưa bị chết đột ngột).

- Lấy bệnh phẩm tim, gan, màng não hoặc tủy xương, xét nghiệm phân lập vi khuẩn.

- Lấy dịch viêm từ mũi những con sống để phân lập vi khuẩn.

- cần phân biệt với trường hợp trúng độc thức ăn do độc tố nấm Aflatoxin (dùng kháng sinh điều trị để phân biệt. Nếu bị tụ huyết trùng, gà sẽ ngưng chết, còn bị Aflatoxin thì số gà chết vẫn tăng).

- Ở vịt càn phân biệt với bệnh dịch tả. Ở bệnh dịch tả thường thấy ở niêm nạc thực quản viêm loét và có chất bã đậu trắng. Dùng kháng sinh điều trị bệnh không khỏi.

VII. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH

a, Phòng bệnh

+ Phòng bằng vacxin: Ở một số nước trên thế giới người ta đã chế và sử dụng hai loại kháng vacxin: vacxin nhược độc cho uống và vacxin chết nhũ dầu dùng để tiêm.

- Vacxin sống nhược độc: Dùng cho uống có tác dụng phòng bệnh 3-4 tháng.

- Vacxin chết nhũ dầu: Ở Việt Nam cũng đã sản xuất vacxin này. Quy trình tiêm phòng như sau:

Chủng lần 1 vào lúc 20-30 ngày tuổi (ở vịt vào lúc 20 ngày tuổi, còn ở gà là 30 ngày tuổi). Tiêm dưới da bắp thịt liều 0,5-1 cc/con (0,5cc loại vacxin của Viện Thú y sản xuất, 1cc loại vacxin do Xí nghiệp vacxin thành phố Hồ Chí Minh sản xuất). Vacxin phòng bệnh 4-6 tháng. Vì vậy đối với gia cầm đẻ phải tiêm lại sau 4-6 tháng.

+ Phòng bằng kháng sinh: Một số kháng sinh dùng trộn vào thức ăn hay hòa vào nước uống có tác dụng phòng bệnh như Chlotetracyclin, Oxytetracyclin, Neotesol, Tetra-Can, Sulfamerazin, Sulfaquinoxalin, ColiCopha, AntiColi B, Imequil, Flumequil v.v...

- Cosumix pha nước uống hay trộn vào thức ăn  liều 100 mg/kg thể trọng (pha 2g/lít nước hay 2g/kg TĂ).

- ColiTetravet, ColiCopha, AntiColi B, Imequil, Flumequil pha nước hay trộn thức ăn liều 20mg/kg thể trọng (1g/lít nước) hay 1g/kg TĂ/ ngày. Liên tục 3-4 ngày/ tuần. trong những giai đoạn thời tiết thay đổi nắng chuyển mưa.

- Chlotetracylin, Oxytetracyclin hay Tetra-Can trộn thức ăn tỷ lệ 0,05% (500 g/tấn thức ăn- 1g/2kg TĂ). Nếu hòa nước uống tỷ lệ 0,025% 9250mg/lít nước uống). Đối với vịt tính liều 25 mg/kg thể trọng/ngày, dùng liên tục 3-4 ngày trong 1 tuần.

- Sulfamerazin liều 0,5% trong thức ăn hoặc 0,1% trong nước uống (5g/kg TĂ, 1g/lít nước uống). Tương đương liều 150-200 mg/kg thể trọng/ngày, dùng liên tục 3-4 ngày/tuần.

+ phòng bằng các biện pháp

0