Bệnh thối ấu trùng trên đàn ong
Bệnh thối ấu trùng Châu Mỹ Đặc điểm vật gây bệnh Bệnh thối ấu trùng châu Mỹ còn gọi là bệnh thối ấu trùng ác tính, do vi khuẩn Bacillus larvae gây ra. B. larvae là trực khuẩn có nha bào nên có khả năng chống chịu cao. B. larvae là vi khuẩn háo khí, nhiệt độ thích hợp là 35-38°C thích ứng với ...
Bệnh thối ấu trùng Châu Mỹ
Đặc điểm vật gây bệnh
Bệnh thối ấu trùng châu Mỹ còn gọi là bệnh thối ấu trùng ác tính, do vi khuẩn Bacillus larvae gây ra. B. larvae là trực khuẩn có nha bào nên có khả năng chống chịu cao. B. larvae là vi khuẩn háo khí, nhiệt độ thích hợp là 35-38°C thích ứng với nhiệt độ trong đàn ong. Trong quá trình sinh sống, chúng bài xuất kháng sinh để kìm hãm các vi khuẩn nên dễ chẩn đoán và phân lập chúng ở dạng thuần chủng. B. larvae có khả năng chống chịu cao, nha bào tồn tại hàng chục năm ở đất, vài năm ở bánh tổ cũ, thùng ong, bị tiêu diệt khi ánh sáng mặt trời chiếu liên tục trong 40 giờ. Chúng ở trong mật, trong lỗ tổ thì ánh sáng chiếu liên tục nửa tháng mới tiêu diệt được chúng. B. larvae bị tiêu diệt ở nước sôi trong 15 phút, nước sạch 95°c trong 1 giờ, focmôn 10% trong giờ. Nha bào ở trong mật, trong bánh tổ nhất là trong sáp ong có tính chống chịu rất cao (nhiệt độ 140-170°C) vì sáp ong tạo thành lớp bảo vệ cho nha bào. Khi ong mắc bệnh này rất khó khử trungf. Mật ong bị nhiễm bệnh phải đun sôi 107°c trong 40-60 phút (làm mất tính chất mật ong). Sáp ong đun sôi 127°c ớ trong nồi áp suất 1,5-2 atm trong 2 giờ. B. larvae gây bệnh khi ấu trùng đã nhiễm 10.000 vi khuẩn và đàn ong có hàng chục triệu vi khuẩn. Khi ấu trùng chết, mỗi ấu trùng có hàng tỉ nha bào.
Biểu hiện bệnh ở ấu trùng
Ấu trùng bị bệnh chủ yếu là ấu trùng 5- 6 ngày tuổi, song cũng có đường hợp bị nhiễm ở tuổi lớn hơn. Bệnh có 2 dạng: ẩn và rõ. Dạng ẩn là khi ấu trùng đã mắc bệnh nhưng chưa rõ về triệu chứng lâm sàng, chưa phân biệt được ấu trùng lành và ấu trùng bệnh; dạng rõ là khi ấu trùng đã bị nhiễm một lượng vi khuẩn đủ gây bệnh. Nếu bị nhẹ, ấu trùng vẫn sinh trưởng cho đến khi thành nhộng mới chết; nếu bị nặng, ấu trùng chết ở dạng còn nhỏ có khi còn ở dạng vành khuyên.
Ấu trùng bị bệnh sẽ đổi màu: từ màu sáng chuyển sang hơi đục, không còn nếp nhăn. Bề mặt da từ trắng xám chuyển nâu xám rồi nâu sẫm, bị rách, khối sinh chất dính như hổ và kéo nhằng ra. Ấu trùng chết nằm đọc theo chiều sâu của lỗ tổ. Trong lỗ tổ khối sinh chất thành vảy bám vào thành và đáy lỗ tổ rất chặt, ong rất khó làm vệ sinh, cho nên, nếu không phá lỗ tổ, khó làm sạch các vảy này.
Ấu trùng bị bệnh lúc đầu không mùi, khi ấu trùng đã chết thành màu sẫm có mùi keo da trâu (hoặc móng trâu). Nắp vít có màu tối do đầu ấu trùng khi chết xẹp lại và kéo nắp xuống làm cho nắp thủng thành lỗ nhỏ. Khi bị bệnh nhẹ, ong làm vệ sinh, tha ấu trùng đi để lại những lỗ trống xen kẽ trên bánh tổ. Khi bị nặng, sinh chất trong lỗ tổ khô quánh, ong không thể dọn sạch tác nhân gây bệnh và đàn ong cứ tiếp tục bị bệnh, không có ong non ra đời, dần dần, đàn ong bị tiêu diệt. Hiên nay các nhà khoa học chưa thấy bệnh này ở Việt Nam.
Bệnh thối ấu trùng châu Âu (European Foulbrood)
Đặc điểm vật gây bệnh
Bệnh thối ấu trùng Châu Âu còn gọi là bệnh thối ấu trùng lành tính, thối ấu trùng chua. Vi khuẩn gây bệnh là Streptococus pluton. Ngoài s. pluton còn có các vi khuẩn khác gọi là Para Poulbrood (vi khuẩn thứ cấp hay á thối ấu trùng) đó là Bacillus pluton, Bacillus alvel, Streptocous apis. S. pluton hình cầu, hai đầu hơi nhọn, không tạo nha bào nhưng có khả năng tạo một lớp vỏ bọc chống chịu được với điều kiện ngoại cảnh. S. pluton sống trong bánh tổ khô được một năm, môi trường có nhiệt độ trong phòng sống được 7 tháng, bị tiêu diệt ở ánh sáng mặt trời trực tiếp trong 30 giờ, trong mật 40 giờ, fenol 2% trong 6 giờ.
Triệu chứng của ấu trùng bị bệnh
Ấu trùng bị bệnh thường ở 3-5 ngày tuổi. Mầm bệnh từ mật ong, lương ong hoặc do tiếp xúc trực tiếp xâm nhập vào ấu trùng, tấn công vào ruột giữa tiếp cận với màng ruột và sinh sản nay nở ở đó rồi nhờ máu ong mà chuyển đi các tế bào khác. Thường thì s. pỉuton sinh sản trong tế bào sống của ấu trùng. Khi tính kháng khuẩn của tế bào ong bị không chế, tế bào bị nhiễm một lượng lớn vi khuẩn, chúng chuyển sang nhiễm thứ cấp. Nhiễm nặng, ấu trùng bị chết; nhiễm nhẹ, ấu trùng không bị chết có thể nở ra nhưng mang khá nhiều mầm bệnh. Bệnh thối ấu trùng Châu Âu cũng có 2 dạng: ẩn và rõ. Dạng ẩn khó phát hiện trong đàn có mầm bệnh, đàn mạnh không bị suy sụp; dạng rõ, ấu trùng chết có mùi chua: dấu hiệu đầu tiên là các ấu trùng còn ở dạng “lưỡi liềm” bị khô, da trong suốt, có khi nhìn rõ cả ruột, da không căng.
Màu sắc ấu trùng thay đổi từ tươi sáng đến đục, sau chuyển màu trắng xám có ánh vàng. Ấu trùng chết ở dạng khác nhau thành khối ở đáy tổ nằm dài theo lỗ tổ. Ấu trùng chết có màu nâu hoặc nâu thẫm, không dính, dễ gắp ra khỏi lỗ tổ. Đàn ong bị bệnh không nuôi ấu trùng, không có ong non ra đời, ong dễ bị bốc bay hoặc suy yếu không thu được sản phẩm. Đây là bệnh hay mác ở đàn ong nội.
Bệnh ấu trùng túi (Sacbrood)
Do virut qua lọc gây bệnh cho ấu trùng tuổi lớn, chủ yếu là thời kì tiền nhộng, biến ấu trùng thành bọc chất lỏng, khá nặng gây nhiễm rất cao, một ấu trùng bệnh có thể gây nhiễm cho 3.000 ấu trùng khác. Virut bị tiêu diệt ở nước 60°c trong 10 phút, nhiệt độ trong phòng sống 3 tuần, ánh sáng mặt ười trực tiếp diệt trong 7-8 giờ. Khi virut xâm nhập vào tế bào ấu trùng làm ấu trùng biến đổi sâu sắc; da dày lên, lượng máu tăng, các mô chuyển thành chất lỏng gồm những hạt cầu nhỏ. Điều kiện xuất hiện bệnh: thời tiết thay đổi đột ngột; thiếu thức ăn; thế đàn yếu làm giảm khả năng chống chịu của ấu trùng. Triệu chứng đầu tiên là ong đi làm kém, mở cửa ra thấy đàn ong xô dạt xuống đáy cầu. Ấu trùng thường bị bệnh khi 5-6 ngày tuổi hoặc khi hoá nhộng. Giai đoạn ẩn khoảng 5-6 ngày, trên bánh tổ cũng có những lỗ tổ trống xen kẽ. Vít nắp nhộng đổi màu từ vàng sáng sang nâu thẫm, bị thủng, ấu trùng bị bệnh nằm dọc lỗ tổ, do bị phù thủng nên đầu nhọn nhô ra, gắp ra dễ dàng, ấu trùng gắp ra là bọc nước nên còn gọi là nhộng bọc. Diễn biến của bệnh có thể có 5 giai đoạn:
Giai đoạn 1: biểu hiện lâm sàng chưa rõ, ấu trùng không có gì khác, chỉ đôi khi đầu hơi cong xuống, màu vàng sáng, nhìn rõ các nếp nhăn dưới da, ấu trùng đã có những hạt trong suốt.
Giai đoạn 2: đầu ấu trùng nhọn nhô ra khỏi nắp vít, màu ấu trùng sáng sau chuyển sang màu nâu có ánh vàng, đầu trên sẫm hơn dưới, da căng do bị phù nước và đầu nhọn.
Giai đoạn 3: đầu ấu trùng gục xuống, ấu trùng mất tính đàn hồi chuyển màu nâu, nếp nhăn kém, da bị phá huỷ dày lên, gắp ra có hình bọc trong đó có những hạt trong suốt.
Giai đoạn 4: ấu trùng khô, đầu cong gục tách ra khỏi thành lỗ tổ, màu thẫm không rõ nếp nhăn, khô nước nhưng vẫn còn những hạt trong.
Giai đoạn 5: ấu trùng khô thành vảy nằm ở đáy lỗ tổ, lấy ra khỏi lỗ tổ dễ dàng. Đặc biệt bệnh không hề có mùi.
Bệnh ấu trùng túi hiện nay gây tổn thất rất lớn cho đàn ong nội và do vật gây bệnh là virút nên chưa có loại thuốc đặc hiệu để chạy chữa cho đàn ong khi mắc bệnh. Đàn ong bị ấu trùng túi cũng còn mắc cả bệnh thối ấu trùng Châu Âu nên đàn ong cũng có mùi chua nhưng không được lẫn bệnh thối ấu trùng Châu Âu với ấu trùng túi.
Các biện pháp phòng trị bệnh ấu trùng ong
Các loại bệnh ấu trùng ong đểu có con đường lây bệnh lan giống nhau, tốc độ lây bệnh mạnh, nhất là bệnh ấu trùng túi.
Các loại bệnh ấu trùng ong
Khi đàn ong bị bệnh cũng có hiện tượng giống nhau là đàn ong đi làm kém hẳn mặc dầu bên ngoài có hoa, quan sát cửa tổ thấy ong tha ấu trùng ra ngoài, đàn ong không ổn định, dạt xuống dưới hoặc trên xà cầu. Kiểm tra thì ong chạy tán loạn, đàn bị bệnh nặng có khi ong bỏ cả cầu đậu ở ngoài. Lưu ý rằng không phải tất cả ấu trùng ong chết đều do bệnh truyền nhiễm mà còn do ong bị lạnh. Khi cầu ấu trùng ở ngoài sát ván ngăn, đêm trời lạnh, ong co lại, ấu trùng bị lạnh chết hoặc khi di chuyển cầu ấu trùng bị chết do sây sát. Thiếu thức ăn, phấn bị ngộ độc, ong cũng không nuôi ấu trùng. Khi chia đàn, ong chưa trở về đàn cũ, cầu còn lại nhiều ấu trùng nhưng ong quá thưa, ấu trùng bị chết. Khi viện cầu nhộng sang đàn bị bốc bay mà chưa xử lí các hiện tượng khúc, ong vẫn cố tình bốc bay và bỏ cầu nhộng làm cho ấu trùng mới viện không được nuôi bị chết. Khi quay mật, kiểm tra, nếu để ấu trùng quá lâu ngoài trời, chúng cũng bị chết v.v.. Có một số loại bệnh như thối ấu trùng Châu Âu và nhộng bọc lại thường tồn lại song song trong đó bệnh thối ấu trùng Châu Âu là nguyên nhân của bệnh nhộng bọc. Vì vậy, khi chữa bệnh, cần áp dụng biện pháp phòng trị bệnh tổng hợp: vệ sinh thú y; phòng trị bệnh bằng sinh học, dùng hoá chất, v.v…
Các biện pháp xử lí đàn ong khi bị bệnh:
Khi đàn ong bị bệnh, nhất thiết phải gửi mẫu bệnh đến cơ quan chẩn đoán thú y và giải quyết bệnh theo hướng dẫn của bác sĩ thú y. Mẫu bệnh gửi đi là cầu ong bị bệnh hoặc mẫu bánh tố bị bệnh (có kích thước nhỏ nhất là 10 x10cm) gói trong giấy báo, cho vào túi polietilen (PE) buộc kín, để rõ yêu cầu chẩn đoán bệnh ong và địa chỉ của người . Nếu có 50 đàn thì gửi khoảng 3 mẫu lấy ở 3 đàn. Nếu ong trưởng thành thì gửi vài trăm xác ong hoặc ong sống. Đàn ong bị bệnh thối ấu trùng Châu Âu dùng thuốc kháng sinh cho ăn trong 3 tối thấy có hiệu quả rõ rệt.
Thuốc dùng riêng: Pênixilin 60.000 đơn vị cho một cầu ong hoặc Streptomixin 0,04g cho một cầu.
Dùng hỗn hợp: Pênixilin 30.000 đơn vị + Streptomixin 0,02g/l cầu với dung dịch xirô đường (1 đường + 1 nước). Tùy số cầu, pha thuốc vào chén nước sôi để nguội, sau đó pha xirô đường với thuốc lượng tăng dần. Ví dụ có 8-10 cầu ong bị bệnh dùng ống thuốc 500.000 đơn vị hoà với nước nguội, pha đều thuốc trong dung dịch xi rô (2 kg đường + 1 lít nước). Cho ong ăn đều 3 tối liền (mỗi tối 500.000 đơn vị). Cách tuần có thể cho ăn liền 3 tối nữa nếu còn bệnh. Không cho ăn liều, quá cao ảnh hưởng đến sức để trứng của ong chúa, ngược lại, nếu cho ăn liều thấp thì vi khuẩn gây bệnh sẽ quen thuốc, rất khó trị. Cần thay thuốc khi có hiện tượng quen thuốc. Pênixilin thường giữ mùi lâu trong mật nên trước và trong vụ mật không cho ong ăn Pênixilin. Khi độ ẩm không khí cao, có thể cho ong ăn phòng bệnh với liều thuốc bằng nửa liều trị bệnh. Pênixilin 30.000 đơn vị/cầu hoặc Streptomixin 0,02g/cầu. Có thể pha thuốc trong xirô sau đó tính đơn vị thuốc trong 100ml xirô để cho ăn. Ví dụ có 60.000 đơn vị Pênixilin/100ml xirô thì cho 10 cầu ong ăn 1 lít xirô. Khi cho thuốc, chú ý kết hợp với các biện pháp rút bớt cầu, chống nóng, rét, ẩm để ong sớm ổn định và đẻ bình thường.
Bệnh ấu trùng tuổi lớn
Ở Việt Nam nguồn bệnh ấu trùng tuổi lớn có thể do Sacbrood hoặc á thối ấu trùng Parafoulbrood. Từ năm 1980, ở các tỉnh phía Bắc đã dùng các biện pháp sau đây chữa trị bệnh ấu trùng tuổi lớn có hiệu quả, đàn ong sản xuất bình thường:
1/ Chọn một số đàn ong còn lại: ở vùng đã bị nhiễm bệnh đem nhân giống phục vụ sản xuất. Đàn ong nội ở vùng Thái Bình, Hải Hưng, Hà Nội trước đây đã mắc bệnh rất nghiêm trọng, đến nay bệnh còn tồn tại nhưng sản xuất đã ổn định, trong khi đó đàn ong từ miền núi bắt về nuôi dễ bị bệnh và dễ bị diệt.
2/ Giải quyết bệnh bằng phương pháp sinh học:
Thay chúa già bằng cách gắn mũ chúa hoặc giới thiệu chúa tơ. Sử dụng phương pháp này trong thời vụ còn có khả năng thay chúa, trong khi chờ chúa mới đẻ trứng, đàn ong không có ấu trùng mới, như vậy làm mất kí chủ của vật lây bệnh. Trong truờng hợp không thay được chúa thì nhốt chúa 7-10 ngày cho qua một thế hệ ấu trùng. Ở nơi có số đàn ong hơn 40-50 đàn, người ta tạo chúa liên tục, nếu đàn ong chớm bệnh thì diệt ngay chúa già và gắn mũ chúa mới.
Chuyến đàn ong đến nguồn hoa mới, đặc biệt khi thiếu phấn, thay cầu cũ và thay thùng nuôi ong. Nhờ đảo lộn môi trường sống của vật gây bệnh, bệnh có thể giảm hoặc khỏi.
Sử dụng các biện pháp: thay chúa, nhốt chúa, thay cầu, chuyển địa điểm, thay mật chứa trong bánh tổ, kết hợp với dùng các loại thuốc: Dùng thuốc nam chữa bệnh: thuốc OLG (của trường Đại học Nông nghiệp I) gồm lá bỏng, cây rẻ quạt, ké đầu ngựa giã nhỏ trộn xirô cho ăn có hiệu quả.
Nếu bệnh xác định là á thối ấu trùng thì có thể dùng các loại thuốc kháng sinh (xem bảng).
Các kháng sinh dùng chữa bệnh ấu trùng tuổi lớn
Các kháng sinh dùng chữa bệnh ấu trùng tuổi lớn
Có thể pha thuốc để cho ăn như ở phần trị bệnh thối ấu trùng Châu Âu. Chọn các loại thuốc có hiệu quả và rẻ tiền như Erythrornixin, Kanamixin và Furazohn. Riêng Furazohn rất khó tan cần hoà nước ở dạng sệt, sau đó pha đu nước cho tan đều rồi pha với xiro. Tốt nhất tà dùng thuốc phun ở dạng bột hoặc dạng nước. Dùng các loại bình phun bột cũng với liều lượng như cho ăn. Ớ dạng nước thì pha xirô rồi dùng bình phun dưới dạng sương. Khi phun thuốc nên phun cả lên ong. Khi giũ cầu riêng phải phun rất nhẹ ở dạng sương bay, nếu phun thành giọt ấu trùng sẽ bị chết. Thuốc tím sử dụng phun dưới dạng nước xiro 0,1% (1 gam thuốc tím pha vào 1 lít xirô), phải phun nhẹ nếu không ong rất dễ bốc bay. Phải đốt tất cả các cầu ong bị bệnh nặng. Đối với cầu ít bệnh dùng panh gắp ấu trùng chết ra để ong dọn vệ sinh dễ dàng.