18/06/2018, 15:43

Bảng niên biểu thời kì lịch sử Ấn Độ (so sánh với Trung Quốc)

NIÊN KỶ ẤN ĐỘ TRUNG QUỐC 2700 TTL Văn minh Harappa Thời Tam Hoàng, Ngũ Đế: Hoàng Đế (Hiên viên thị); Thiếu Hiệu (Kim thiên thị); Chuyên Húc (Cao dương thị) 1000 TTL Giống Aryans tràn vào thung lũng sông Hằng Nhà Tây Chu. Kinh Dịch được biên ...

NIÊN KỶ

ẤN ĐỘ

TRUNG QUỐC

2700 TTL Văn minh Harappa Thời Tam Hoàng, Ngũ Đế: Hoàng Đế (Hiên viên thị); Thiếu Hiệu (Kim thiên thị); Chuyên Húc (Cao dương thị)
1000 TTL  Giống Aryans tràn vào thung lũng sông  Hằng Nhà Tây Chu.  
Kinh Dịch được biên tập
900 TTL Trận chiến Mahabharata  Vua Hiếu vương nhà Tây Chu 
800 TTL Giống Aryans tràn đến vịnh Bengal. Bắt đầu thời đại Sử thi: Mahabharata được kết tập. Vua Tuyên vương; Vua U-vương và Bao Tự, Tây Chu
550 TTL Kết tập kinh Upanishads  Thời Xuân Thu (722 TTL – 481 TTL)
544 TTL Đức Phật nhập Niết Bàn Vua Cảnh Vương nhà Đông Chu 
327 TTL Đại đế Alexander xâm lăng Ấn Thời Chiến Quốc 481 TTL – 221 TTL
324 TTL Vua Chandragupta Maurya đánh bại vua  Seleacus Nicator Thời Chiến Quốc 481 TTL – 221 TTL
322 TTL Triều Mauryas khởi đầu. Chandragupta  thiết lập đế quốc đầu tiên của Ấn Thời Chiến Quốc 481 TTL – 221 TTL
298 TTL Bindusara lên ngôi  Thời Chiến Quốc 481 TTL – 221 TTL
272 TTL  Vua Ashoka trị vì  Thời Chiến Quốc 481 TTL – 221 TTL
180 TTL Triều đại Mauryas sụp đổ của. Triều  
Sungas nối tiếp
Cuối Tần  Sơ Hán – Huệ Đế, nhà Tây Hán (hay Tiền Hán)
173-130 TTL Vua Menander (Milinda) lập đế quốc Hy-  Ấn. Từ Triều của Vũ Hậu đến Hán Vũ Đế 
145 TTL Vua xứ Chola xâm lấn Tích Lan (Ceylon) Vua Cảnh Đế, nhà Tiền Hán
58 TTL  Kỷ nguyên Krita-Malava-Vikram  Vua Tuyên Đế, Tiền Hán
30 TTL Khởi đầu của triều Satvahana ở xứ Deccan Vua Thành Đế, Tiền Hán 
40 TL  Người Sakas cai trị thung lũng Indus và  phía tây Ấn Vua Quang Vũ Đế, Đông Hán hay Hậu Hán 
50 TL  Tộc Kushan hùng mạnh dần  Vua Quang Vũ Đế, Hậu Hán
78 TL Khởi đầu của thời kỳ Saka-Kushana Vua Chương Đế, Hậu Hán
100-164 TL Hoàng đế Kanishka I và đế quốc Kushan Từ vua Hán Hòa đế đến vua Hoàn đế, Hậu Hán 
320 TL Vua Chandra Gupta I lập triều Gupta  Vua Nguyên Đế, nhà Đông Tấn
360 TL  Vua Samudra Gupta xâm chiếm đất bắc  và hầu hết xứ Deccan  Vua Ai Đế, nhà Đông Tấn
380 TL Vua Chandra Gupta II lên ngôi; Thời đại   hòang kim của nền văn học phục sinh   Ấn-Gupta.  Bắc Triều:  
– Vua An Đế, nhà Tấn  
– Vua Đạo Võ Đế, Bắc Hậu Ngụy
405 TL (*) Đại sư Pháp hiển (Fa-hein) chiêm bái  
 Phật tích khắp vương quốc Gupta.
Bắc Triều:  
– Vua An Đế, nhà Tấn  
– Vua Đạo Võ Đế, Bắc Hậu Ngụy
415 TL Vua Kumara Gupta I lên ngôi Vua Minh Nguyên Đế, Bắc hậu Ngụy
427 TL Vua Kumara Gupta I cho khởi công xây  dựng Phật Học Viện Nalanda. Vua Thái Võ Đế, Bắc Hậu Ngụy
440 TL Tổ Bodhidharma sinh ở nam Ấn,  xứ của  vua Pallava Vua Thái Võ Đế, Bắc Hậu Ngụy
467 TL Skanda Gupta lên ngôi  Vua Hiến Văn, Bắc Hậu Ngụy
476 TL Năm sinh của nhà thiên văn Aryabhatta Vua Thuận Đế, Nam Tống
530 TL Tổ Bodhidharma theo thuyền đến Trung  
quốc, cặp bến Quảng châu.
Vua Tiết Mân Đế, Bắc: Hậu Ngụy 
Vua Võ Đế, Nam: Lương
606 TL Harshavardhana lên ngôi  Vua Văn Đế, nhà Tùy
622 TL  Bắt đầu triều đại Hejira Cung đế Hựu, bị ép nhường ngôi cho Đại thừa tướng Lý Uyên, lập ra nhà Đường
629 TL Đường Tăng Huyền Trang (Huan Tsang)  đi Ấn thỉnh kinh  Vua Cao tổ Nhà Đường
649 TL Vua Harshavardhana băng hà Vua Thái Tôn, nhà Đường
672 TL  Đại sư Nghĩa Tịnh (I-Tsing) đến chiêm   bái ở Ấn. Vua Đường Cao Tôn, Vũ Hậu Tắc Thiên
711 TL  Muhammad Bin Qasim xâm lăng xứ Sind Vua Duệ tôn, nhà Đường
892 TL  Khởi đầu của triều Chalukyas ở phía  
 đông 
Vua Chiêu tôn, nhà Đường
985 TL  Triều Chola: Vua Rajaraja đăng quang Vua Thái tôn, nhà Tống
1001 TL Sultan Mahummad đánh bại Jaipal Vua Chân tôn, Nhà Tống

 Thời Đại Gupta (320-550)

A. Sự Thịnh Suy:

Đại sư Nghĩa Tịnh đến Ấn vào khoảng năm 672, sau HT Huyền Trang đến hơn 40 năm, và đã nghe nói đến danh hiệu vua ‘Maharaja Sri-Gupta’ của vương quốc Magadha xây một tăng viện gần Mrigasikhavana khoảng ‘500 năm trước’ cho những vị sư chiêm bái đến từ Trung quốc tạm trú. Các học giả về sau không đối chiếu được với lịch sử Ấn, và họ cho rằng Nghĩa Tịnh chỉ phỏng đoán theo cảm quan tôn giáo mà thôi. Nhưng ngày nay người ta đã chứng minh được đó là thời đại Gupta dựa vào bộ Bhagwatam. Dòng Gupta khởi đầu từ xứ Bengal, theo các ghi chú tại ngôi tháp “Varendra Mrigashihavan Stupa” trên đồi ở Nepal, rồi sau đó trở thành tiểu vương từ xứ Prayaga, Đông Uttar Pradesh, bây giờ là Allahabad từ năm 240 TL. 

Vị tiểu vương đầu tiên là Sri-Gupta khoảng từ 240-280 TL. Bản bia ký bằng đồng ở Poona (gần Bombay bây giờ) do công chúa Prabhavati Gupta (con gái của Chandragupta-II về sau) ghi rằng Sri-Gupta là Adhiraja của Gupta. Vua kế vị là Ghatotkacha (280-319) mà bia ký cũng còn có truy hiệu là Đại vương (Maharaja). Đến triều thứ ba, khoảng năm 320 vua Chandra Gupta I (320-335) dựa vào hôn nhân với công chúa Kumaradevi dòng Licchavi xứ Magadha (Ma-Kiệt-Đà) đã làm cho lãnh thổ bành trướng thêm; xưng là Đại đế (maharajadhiraja). Kể từ đó các triều đại Gupta mới trở nên vẻ vang, và lịch sử Ấn ghi về thời đại Gupta chỉ kể từ đây. 

Kumardevi và Chandragupta I trên đồng tiền vàng do vua con là Samudragupta cho đúc. Mặt trái là Nữ thần Ambika (Durga).

Khi vua Samudra Gupta (335-375) kế vị thì đến năm 360 kinh đô được dời về thành Hoa thị (Pataliputra), tức Patna bây giờ. Sử liệu về ông đã được bia ký ở Allahabad do Harisena ghi và trong ký sự của Đại sư Huyền Trang. Dưới triều này lãnh thổ lại còn được mở rộng thêm từ lưu vực sông Hằng đến tây, trung và đông Ấn cùng các hải đảo sau khi thâu tóm hơn 20 tiểu quốc khác. Nhiều tiểu vương lân bang phải triều cống để được bảo hộ, xa mãi đến tận Tích Lan (Sinhala hay Sri Lanka). Sau khi toàn trị vua Samudragupta làm lễ tế ngựa chiến Ashwamedha Yagna, một phong tục hiếm thấy, và cho đúc tiền vàng lưu hành trên đó khắc lại những chiến cụ và nhạc cụ đã từng xữ dụng trong triều. Việc đúc tiền vàng, triều Samudra Gupta đã mô phỏng theo kiểu cách của đế quốc Kushan trước đó. Thời đại Kushan đã đúc chuẩn mực tiền vàng 8 gram gọi là dinara, bắt nguồn từ tiền vàng La-mã Denarius Aurius. 

Vua Samudragupta đang gãy huyền cầm. Mặt trái: Nữ thần Thịnh vượng Shri-Laxmi.

Dưới triều ông, Bà-la-môn giáo (BLM) chiếm ưu thế vì ông thờ thần Vishnu (Vaishnava). Vì vậy các thánh tích PG, ngoại trừ Nalanda và Sanchi, theo Đại sư Pháp Hiển thì Bồ đề đạo tràng (Bodhgaya), Ca tỳ la vệ (Kapilavastu) và Câu-thi-na (Kusinagara) còn bị hoang phế. Vào giữa thế kỷ thứ IV, nhiều tăng sĩ từ xa đến chiêm bái Bồ đề đạo tràng không có nơi tá túc; vua xứ Tích Lan là Sri-Meghavarman đã cho sứ thần mang phẩm vật đến dâng tặng vua Samudra Gupta để xin được xây dựng một ngôi chùa tại Bồ-đề Đạo tràng (‘Bodh-Gayà”) và đã được tán thành.

Vua Rama Gupta (375-380) tại vị chẳng được bao lâu. Truyền sử ‘Devichandraguptam’ kể rằng trong cuộc viễn chinh đánh xứ Malwa nhà vua bị bại trận và bị vua Saka Satrap (hậu duệ của dân Scythian)  bắt sống. Để được thả về nhà vua đồng ý sẽ đem trao hoàng hậu Dhruvadevi cho Saka Satrap. Điều này làm người em trai tức giận xin giả trang làm hoàng hậu để đến khi vào được doanh trại địch quân liền giết chết Saka Satrap, sáp nhập Malwa và còn giữ được thanh danh của Gupta. Do đó ông hoàng đệ được vinh danh là Shakari hay Sahasanka (Kẻ giết được Shakas). Dĩ nhiên dân chúng ủng hộ và hoàng hậu cảm kích nên vua Rama Gupta bị phế bỏ, nhường ngôi cho em.

Dựa theo các bia đá ở Mathura và Bilsad, người ta biết được khá nhiều chi tiết về vua Chandra Gupta II (380-414). Sau khi lên ngôi, ông đã diệt các tiểu vương Gujarat, Saurashtra và vùng Bengal để mở mang thêm bờ cõi. Ông còn liên minh với xứ Naga qua hôn nhân với công chúa Kubernaga; và với dòng xứ Vakataka (đồng bằng Deccan) bằng cách gã con gái là Prabhavati Gupta cho vua Rudrasena II vào năm 390. Chính công chúa Prabhavati Gupta này đã cho ghi lại bia ký bằng đồng ở Poona kể ở trên về gia phả dòng họ mình. Chiến thắng quân sự vĩ đại nhất của ông là đã chiếm được xứ Saurashtra (nay là Maharashtra) cạnh biển Ả-rập, mở rộng thương mãi hàng hải qua phía tây Ấn. 

Ông được tôn vinh là Thái Dương Anh Hùng (Vikramaditya: Sun of Valour), vì ông là vị vua nỗi bậc nhất của thời đại Gupta, nhưng ông lại còn được ca tụng về những thành tựu văn chương, học thuật hơn là quân sự, bởi dưới triều ông, mọi ngành văn chương học thuật, nhất là đạo học cả Veda và Phât pháp, y học, thú-y học, toán học và thiên văn học của Ấn có một bước nhảy vọt xán lạn mà sử sách về sau tán dương là thời đại phục hưng của văn học Ấn. Triều ông còn được rực rỡ thêm bởi có sự trợ giúp của nhóm văn hào 9 người danh tiếng (navaratna); trong số đó có Kalidasa bất tử của nền văn học Ấn. Ngoài vương hiệu Vikramaditya, triều đại của ông còn được gọi thêm là Narendrachandra, Simhachandra, Narendra Simha, Vikrama Devaraja, Devagupta and Devasri. 

Dưới triều đại này có Đại sư Pháp Hiển (Fa-Hsien) từ Trung quốc đã đến chiêm bái các Phật tích và đã thăm viếng khắp đế quốc Gupta dưới triều vua Chandra Gupta II từ 401 (có sách ghi là 399) đến 410, và ghi lại nhiều ký sự trong bộ ‘Phật Quốc Ký’. 

Vua kế là Kumara Gupta I (414-455) còn có nhiều vương hiệu khác là Sri Mahendra, Ajita Mahendra, Sima Mahendra, Asvamedha Mahendra, Mahendra Karma, Mahendra Kalpa, Sri Mahendra Simha, Mahendra Kumar, Mahendra Aditya vv. Ông kế thừa một đế quốc rộng lớn, và có công giữ cho nó được toàn vẹn. Dưới triều ông xã hội Ấn vẫn còn ở hồi cực thịnh phồn vinh; sự bao dung tôn giáo có phần rộng rãi hơn. Triều ông còn lưu lại đến nay 14 loại tiền vàng đặc trưng, và về sau có cả tiền bạc miêu tả ông vừa là mãnh tướng, vừa là nhạc sĩ vv… Ông còn vang danh nổi bậc là vị vua cho xây dựng Viện Phật Học nổi tiếng thế giới Nalanda một cách bề thế vĩ đại. Ông có hai người con trai là Skandagupta (con với hoàng hậu Devaki) và Purugupta (con với hoàng hậu Ananthadevi). Vào cuối triều ông có quân Pushyamitra nổi loạn ở thung lũng Narmada đe dọa triều đình. 

Tiền vàng triều Kumara Gupta I (414-455) với hình nhà vua đang hạ hổ. Mặt trái hình nữ thần Nimbate, tượng trưng cho sông Hằng.

Đến thời vua Skanda Gupta (455-467), theo bia ký Bilsad và Bhitari, được xem là vị vua cuối của thời đại Gupta huy hoàng, vì tuy ông đánh bại được quân Pushyamitra, nhưng rợ Hung (Hephthalites – mà sử Ấn gọi là Huna) từ vùng tây bắc liên tục tràn xuống uy hiếp đến cả Hoa thị thành. Theo bia ký Kahaum thì ông đã diệt được hàng trăm tiểu vương (?) kể cả rợ Hung bị ông đánh bại ở thung lũng Aryavarta năm 467. Ông cũng rất bao dung với đa tôn gíao. Khi ông mất thì đế quốc Gupta đã bắt đầu suy yếu.


Skanda Gupta (455-467)

Vua Pura Gupta (467-472) thay anh lên ngôi thì đã già nên trị vì chỉ có 5 năm thì mất. Con trai của ông với hoàng hậu Shri Vinayadevi lên thay.

Đến triều vua Narasimha Gupta (472-476) thì thời đại Gupta đã bắt đầu suy yếu. Có lúc Ấn lại còn phải cống lễ vật cho vua Hung nô để cầu hòa. Nhưng khi nghe tin vua Hung nô Mihirakula, đóng đô ở Malwa mạn tây bắc, ra lệnh sát hại tăng sĩ PG, hũy diệt tăng viện, đốt bỏ kinh sách ở vùng Ngũ Hà, vua Narasimha Gupta liền đóng cửa biên giới và không hiến cống nữa. Mihirakula tức giận kéo quân tấn công kinh đô Hoa thị Thành của Magadha và truy đuổi Narasimha đến tận vịnh Bengal. Trên đường hành quân Mihirakula đã trút giận lên các tăng tín đồ PG, dã man tàn sát những người không trốn thoát được và đã huỹ diệt PHV Nalanda lần đầu tiên. [Heras, A Note on the Excavations at Nalanda and its History, J.B.B.R.A.S., II, N. S., p. 215-216.] Nhưng sau đó quân của Narasimha Gupta đã phản công và đánh bại được Mihirakula và đuổi rợ Hung nô về tận vùng Shakala (Sialkot, Kashmir ngày nay).

Sự xâm lăng của Hung nô đã nhanh chóng đưa triều đại Gupta đến chỗ sụp đổ vì đã kéo theo sự xâm nhập ồ ạt của dân các bộ lạc biên cương từ Trung Á, cộng thêm kinh tế Ấn bị suy thóai trầm trọng do mất quyền kiểm sóat đường tơ lụa, con đường thương mãi huyết mạch. Điều đáng lưu ý ở đây là hậu duệ của dân Hung nô vốn chạy thoát được về mạn Kashmir đã dần thích ứng với xã hội và nền văn hóa mới để sau này biến dạng thành giống Rajputs.

Vua kế vị là Kumara Gupta-II (476-477) không lưu lại được thành tích gì. Thời gian trị vì của ba triều sau này quá ngắn tổng cộng chỉ khoảng 10 năm nên sử liệu hiếm hoi. Và từ đấy việc truyền thừa các ngôi vua cũng không được ghi lại rõ ràng. Xứ Magadha cứ suy yếu dần và nội loạn cứ xảy ra mãi. Theo bia ký Apshad ở Adityasena thì vua vua Kumara Gupta II, rồi vua Damodara Gupta đã đánh bại được kẻ phản loạn Isanavarman – một dũng tướng đã từng có công đánh đuổi quân Andhra, Sulika, Gauda và rợ Hung, đã được vinh danh trên bia ký Haraha. Về sau vua Mahasena Gupta lại còn dẹp được quân phiến loạn Susthivarman. 

Người ta được biết thêm tên 14 vị vua nối tiếp nhau trong vòng hơn nửa thế kỷ là Budha Gupta (477-495), Tathagata Gupta, Krishna Gupta, Harsha Gupta, Jivita Gupta-I, Kumara Gupta-III, Damodara Gupta, Mahasena Gupta, Madhava Gupta and Deva Gupta-II, Adityasena, Deva Gupta-III, Jiva Gupta-III. Các triều này cũng chẳng lưu lại công trạng gì vẻ vang cả cho đến vị vua cuối là Vishnu Gupta thì thời đại Gupta chấm dứt khoảng 550. 
Sau khi thời đại Gupta suy sụp thì các thế lực nội bộ tranh nhau ngôi bá vương trong một thời gian khá dài. Trong đó đáng kể là Valabhi, Gujarata, Nandipuri, Maukhari của xứ Magadha, tiểu vương hậu Guptas ở Malwa cạnh Magadha, các xứ Bengal, Nepal, và Kamarupa trong thung lũng Assam. 

Đến đầu thế kỷ thứ 7, các thế lực đối kháng rốt lại gom vào trong tay của hai dòng họ đáng kể là Shashanka vua của xứ Gauda (Hạ Bengal) sau khi chiếm được xứ Orissa liền sáp nhập phần lớn lãnh thổ trong thung lũng sông Hằng; và dòng họ Puspabhukti ở vùng bắc Delhi đang hùng mạnh; mãi đến thời vua Harsavardhana mới thống trị được thiên hạ.

B. Di sản của thời đại Gupta: 

Ngày nay người ta biết nhiều về thời đại này dựa vào đồng tiền cỗ, bia ký, đền đâi, và các tác phẩm cổ văn Sanskrit. Tuy lãnh thổ của Ấn dưới triều đại này không rộng lớn bằng vào thời Maurya và dòng Gupta kéo dài được 200 năm, nhưng nói chung đã được các nhà sử học xem là thời đại cổ điển hòang kim của nước Ấn. Các ngành văn học, nghệ thuật, y học, thiên văn, toán học, kiến trúc, đạo học và triết học của Ấn khởi sắc; kinh tế sung mãn nên các đô thị được phát triển và giàu có. 


Tượng Đức Phật vào thời Gupta, TK thứ 5.

Tương tự nhiều thời đại trước, các tiên vương thì theo đạo BLM giáo nhưng đến các triều sau thì sùng bái và hổ trợ PG. Vua Kumara Gupta I đã cho xây dựng và bảo hộ cho PHV Nalanda. Rồi về sau vua Narasimha Gupta đã nhường ngôi cho con mà vào Nalanda làm tăng sĩ. BLM giáo và PG hình như có sự pha trộn dưới thời này. Dù vậy, xã hội Ấn dưới thời Gupta ban đầu vẫn còn nặng về với nề nếp trật tự theo đẳng cấp phân biệt của Bà-la-môn giáo.

Dưới thời Gupta văn chương Sanskrit đạt đến cao điểm; văn học PG thường được viết bằng Pali trước đây đều được dịch ra Sanskrit; hai mươi tám hang động của các tăng sĩ ở Ajanta với những bích họa tuyệt tác đầy sáng tạo linh động cũng được tạo ra. Ajanta nằm ở phía tây Maharashtra, một phần của vương quốc Vakataka đồng minh với Gupta. Nghệ thuật và văn học PG cũng đạt đến tuyệt đỉnh dưới thời này qua những lò mỹ nghệ danh tiếng Mathura và Sarnath, và từ đó lan tràn sang các hãi đảo ĐNA và Miến-điện, Xiêm-la, Thủy chân lạp, Lào và Lâm Ấp. Kiến trúc đền đài, điêu khắc và luyện kim đạt đến một nghệ thuật rất cao. Trụ sắt ở Meharulli, Delhi – mà nhiều học giả cho là do vua Chandra Gupta II cho dựng lên – dù đến nay đã hơn 16 thế kỷ vẫn còn đứng trơ trơ không rĩ sét. Thế nhưng đến nay những đền đài xây dựng vào thời này như Vaishnavite Tigawa ở Jabalpur vào năm 415, ngôi khác ở Deogarhnear Jhansi xây năm 510, và Bhita ở bang Uttar Pradesh hầu hết đều hoang tàn đổ nát. 

Nhiều văn hào, thi gia, luận gia đạo sĩ trứ danh như Harishena, Vasubandhu (Thế Thân), Asangha (Vô Trứ), Kalidasa, Dandi, Visakhadatta, Shudraka, và Bharavi cũng xuất hiện vào thời này. Những kinh sớ (shastras), truyền thuyết luận (puranas) tôn giáo nổi tiếng cũng đều được sáng tác, kể cả cuốn kinh về nghệ thuật yêu đương nổi danh ‘Kama Sutra’. Nhà thơ Sanskrit vĩ đại Kalidasa của Ấn với hai tác phẩm Meghdoot và Kumarsanhita cũng đã phục vụ dưới triều Chandra Gupta II. 

Riêng về toán học, Varahamihira đã đưa ra khái niệm về số lẽ, vô cực trong khảo luận ‘Bhrihatasamhita’. Đồng thời biểu hiện của con số từ 1 đến số 9, và số ‘không’ (zero: lấy từ dấu hiệu vòng tròn ‘0’ viên mãn tượng trưng cho pháp không của PG) đã được phát kiến vào thời này, mà về sau người Á-rập truyền qua phương tây đã dần thay thế hệ thống số của La-mã. 

Các nhà thiên văn Aryabhatta đã khám phá ra số pi và đã chứng minh được quả đất có hình tròn vào năm 499. Họ cũng đã tính được lịch theo mặt trời có 365.358 ngày và sự chuyển dịch của các hành tinh một cách tương đối chính xác.

Triều Đại Harshavardhana (606-647)

A. Sự Thịnh Suy:

Triều đại Harshavardhana hay gọi tắt là Harsha – cùng khỏang thời gian giữa cuối triều Tùy và đầu triều Đường bên Trung quốc – được xem như triều đại vững chắc sau các triều Gupta. Thời ông đã được biết đến nhiều nhờ đại sư Huyền Trang (Hiuen Tsang) ghi lại trong bộ ‘Tây vực ký’ khi ngài sang Tây trúc thỉnh kinh từ 629 – 645; nhờ từ các công văn của Trung quốc; từ các đồng tiền cổ và bia ký; từ các bài viết của các danh nhân đương thời và nhất là nhờ tác phẩm Harshacharita (Những thành tích của vua Harsa) do thi hào trong triều tên là Banabhatta đã ghi chép lại nhiều chi tiết bằng tiếng Sanskrit kể cả phần thiếu thời của nhà vua. Harshacharita là cuốn sách đầu tiên viết về danh nhân lịch sử Ấn. Ông còn là tác giả của cuốn Kadambini được xem như một viên ngọc quí của nền văn học Sanskrit.

Như đã nói ở trên, sau thời kỳ nhiểu nhương hậu Gupta đến đầu thế kỷ thứ 7, dòng họ Pushabhukti trở nên một thế lực lớn mạnh ở Ấn với vua Prabhakaravardhana cai trị xứ Thaneshwar. Con gái của Prabhakaravardhana tên là Rajyasri và cũng là chị của Harshavardhana được gã cho vua Grahavarman của xứ Maukhari có kinh đô ở Kannauj. Lúc bấy giờ PG vẫn còn thịnh hành trong vùng, và tín đồ BLM giáo và Kỳ na giáo thường vẫn chung sống hòa hợp. Tuy vậy trong chương 7 của cuốn Harshacharita của Banabhatta đã cho thấy luôn có sự tranh chấp âm ĩ giữa các giới tăng lữ của BLM và PG.  Banabhatta viết “không có một Parasari (nhà sư áo vàng) nào ưa thích tăng sĩ Bà-la-môn, nhưng các tăng của 17 phái khác nhau đều sống dung hòa.” [Agrawala 1969: 225]. 

Sau khi vua Prabhakaravardhana mất năm 605; vua Deva Gupta xứ Malwa (có lẽ là hậu duệ xa của thời Gupta cũ) tấn công và giết chết vua Grahavarman và hạ ngục hòang hậu Rajyasri. Vua Rajyavardhan, là anh cả của Rajyasri và Harshavardhana liền kéo quân tấn công Malwa để trả thù và đánh bại được Deva Gupta. Bấy giờ vua Shashanka của xứ Gauda, vốn đã âm mưu liên minh cùng Deva Gupta, đến gặp Rajyavardhan giả làm trung gian giảng hoà và thừa cơ hạ sát Rajyavardhan rồi chiếm đóng Kannauj. 

Shashanka là tín đồ BLM giáo – Śaivites – rất thịnh hành ở phía nam Ấn. Khi Shashanka chiếm thành Kannauj thì dân chúng Phật tử không ủng hộ và còn chống đối nên Shashanka đã ra tay đàn áp và tàn sát rất nhiều tín đồ PG [Sharma 1970: 245]. Vì thế khi Harshavardhana cất quân tái chiếm, quần chúng Phật tử trong kinh đô đã đồng nổi dậy tiếp tay ủng hộ nên chiến dịch chóng thành công, và Harshavardhana đã dánh đuổi Shashanka về cố thủ một vùng nhỏ ở Orissa dọc bờ biển vịnh Bengal. Trên đường tháo chạy quân của Shashanka còn đốt phá PHV Nalanda.

Điều này đã được Huyền Trang ghi lại trong cuốn ‘Tây Vực Ký’; và cuốn biên niên sử PG, The Arya Manju Sri Mulakalpa, cũng mô tả Shashanka là một ông vua tàn ác. Theo truyền thuyết thì vua Shashanka đã cưỡng đoạt một điện thờ Phật ở Bồ Đề Đạo Tràng Bodhgaya) rồi cho dựng một Shivalinga thay thế. Thực tế về sau cho thấy chuyện ấy không hề xảy ra; vì vào năm 1234 có vị sư Tây tạng tên là Dharmaswamin đến viếng thánh địa đã khám phá ra rằng tượng Phật đã được xây tường che kín để khỏi bị quân đạo Hồi xâm lăng phá hũy. Tuy vậy người Hồi tiếp tục đàn áp PG và nương tay với BLM giáo nên PG bị tàn lụi và ngôi đền bị hoang phế cho mãi đến năm 1590, quan cai trị địa phương lại giao quyền quản trị ngôi đền cho người Shaivite Mahant. Nhưng gần đây ngôi đền đã được chuyển lại cho PG và đã được trông coi bởi một ủy ban BLM và PG. 

Cũng theo truyền thuyết thì Shashanka đã hũy diệt các thánh tích, quẳng cả tảng đá có in dấu chân Đức Phật xuống sông, hoặc đốn ngã cây Bồ đề cổ thụ ở Bồ đề Đạo tràng. Nhưng rồi nhờ có phép lạ nên tảng đá trở về chỗ cũ và một cây bồ đề to lớn khác được mọc ra từ nhựa cây cũ đã bị đốn. [Theo ‘Tây Vực Ký’ – Elst 1992]. Nhưng có lẽ các chuyện ấy chẳng hề xảy ra. Tảng đá có dấu chân Phật này vốn đã được Đại sư Pháp Hiển nhắc đến khi ngài ghé qua Ô trường (Udỳnana), bắc bộ Thiên trúc. Ngài viết trong ‘Phật Quốc Ký’: “Phật để dấu chân lại ở đây, và dấu chân ấy thấy dài hay ngắn là tùy tâm niệm của người nhìn. Dấu chân ấy hiện nay vẫn còn như vậy. Lại có viên đá Phật phơi y, có chỗ Phật hóa độ rồng dữ, tất cả hiện nay vẫn còn. Viên đá Phật phơi y thì cao 1 trượng 4 thước, rộng chừng 2 trượng, một bên bằng phẳng.”

Tiền có hình HĐ Harshavardhana

Sau khi thắng trận, Harshavardhana liền thay anh lên làm vua vừa lúc 16 tuổi, rồi dời kinh đô từ Thaneshwar đến Kannauj và từ đó đã bành trướng đất đai tòan vùng bắc Ấn. Năm 612, ông đã cai trị một vùng rộng lớn bao gồm Punjab, miền đông xứ Rajasthan, thung lũng Hằng Hà, một phần Bihar và Bengal cho đến xứ Assam; ngoại trừ vùng tây và nam Ấn. 

Năm 620 Harshavardhana đem quân xâm lấn các xứ ở phía nam Ấn nhưng bị vua Pulakesin II của xứ Chalukya phía bắc Mysore ngăn chận; và ông cũng không thâu tóm được các xứ Valabhl, Nandipurl, Kashmir, Gujarat và Sind ở phía tây, như dưới thời Gupta. Riêng ở phía đông thì từ khi đối thủ là vua Shashanka mất vào năm 636 thì không còn một sự chống cự nào đáng kể. 

Hoàng đế Harshavardhana là một nhà lãnh đạo có tài ngọai giao giỏi nổi danh khắp vùng. Vua Bhaskravarman của xứ Kamarupa (Assam) tuy theo đạo Bà-la-môn nhưng đã liên minh chặt chẻ với ông đánh đuổi được Shashanka và còn giúp cho sự chinh phục thiên hạ thêm thuận lợi. Harshavardhana cũng đã duy trì mối quan hệ mật thiết với nhà Đường ở Trung quốc, và vua Đường Thái Tôn cũng đã gởi nhiều đoàn sứ giả đến thăm vua Harsa.

Vua Harshavardhana rất cần mẫn trong việc cai trị vương quốc rộng lớn ở bắc Ấn. Ông đích thân quán xuyến việc nước và đốc thúc các quan cai trị dưới triều. Ông đặt các tiểu vương thuộc hòang gia cai trị các xứ nhỏ. Sử Ấn ghi nhận về ông như một minh quân, có tài quân sự như Samudra Gupta và chính trị cùng đạo đức như Ashoka. Ông còn là một thi sĩ và nhà uyên bác. Ông còn được nhắc đến như là tác giả của ba bộ kịch thơ viết bằng tiếng Sanskrit là Ratnavall, Priyadarshika, và Nagananda, mà cuốn sau chứa đựng nhiều tư tưởng PG.

Vua Harshavardhana rất sùng kính PG, đồng thời bao dung với các tôn giáo khác. Sự thực hành tín ngưỡng của tín đồ PG và BLM giáo vẫn tiếp tục pha trộn lẫn nhau trong việc thờ cúng đa thần như dưới thời Gupta. Vua Harshavardhana cũng thường mở đại thí đàn như các vua cuối của thời Gupta (mà theo bản dịch từ Hán ngữ của HT Trí Quang theo cuốn ‘Cao tăng Pháp Hiển’ thì gọi là ‘ban giá việt’). Nhà vua mở đại hội mỗi 5 năm ở Prayag để ông bố thí tài vật cho dân chúng và cầu nguyện thần linh của các tôn giáo. “Khi mở đại hội thì mời chư tăng mọi nơi cùng đến vân tập. Vân tập rồi chỗ ngồi chư tăng được trần thiết, treo lụa, treo cờ và cắm lọng. Lại làm hoa sen bằng vàng bằng bạc đặt sau chỗ ngồi chư tăng, trải lên trên chỗ ngồi ấy những tấm tọa cụ sạch sẽ. Quốc vương cúng dường đúng phép trong 1 tháng, 2 tháng hay 3 tháng, và phần nhiều cử hành vào mùa xuân. Cúng dường rồi, quốc vương lại khuyến khích quần thần cúng dường trong 1 ngày 2 ngày cho đến 7 ngày. Sau đó quốc vương đem ngựa của mình cho trọng thần cưỡi, lại đem lụa trắng, mọi thứ quí giá, và những vật dụng cần dùng của chư tăng, cùng quần thần phát nguyện cúng dường chư tăng, rồi xin chư tăng mà chuộc lại những thứ quí giá.” 

Dưới triều Harshavardhana, Kannauj trở nên một trung tâm đạo học quan trọng và đã được xây dựng to lớn và phồn thịnh ngang tầm cở với Hoa thị thành (Patilaputra) của thời Gupta và Ashoka.


Cảnh HĐ Harshavardhana cung nghinh Đại sư Huyền Trang

Năm 643 để đón tiếp đại sư Huyền Trang đến hành hương thỉnh kinh Phật từ Trung quốc, vua Harshavardhana đã tổ chức một cuộc đại hội liên tôn rất trang trọng kéo dài khỏang hai tháng gồm các cao tăng của BLM giáo, PG và Kỳ na giáo và sự có mặt của các tiểu vương khác như vua Bhaskaravarman của xứ Kamrupa (Assam) và vua Dhuvabhatti xứ Vallabhi để nghe đại sư Huyền Trang thuyết pháp và để cùng nhau trao đổi đạo học. 

Sau Kannauj, Huyền Trang còn được đưa đến bờ sông Hằng (Ganga), Yamuna và Saraswati để tiếp tục hoằng pháp. Sau nhiều lần tiếp xúc với Huyền Trang, vua Harshavardhana rất tín ngưỡng đại thừa. Vào thời gian Huyền Trang được vua Harshavardhana tiếp đón trọng vọng thì khối tăng lữ BLM giáo không mấy hài lòng, và đã âm mưu hạ bệ Harshavardhana. Khi cơ mưu bị bại lộ, vua Harshavardhana đã đầy 500 người BLM ra biên cương. 

Đầu năm 644, Huyền Trang vượt ông Indus để trở về Trung quốc sau 10 năm lưu lạI ở Ấn. Ba năm sau thì vua Harshavardhana bị giết và thêm một đoạn sử rực rỡ của Ấn Độ kết thúc.

Ông mất năm 647, thọ được 57 tuổi. Sau khi ông mất, lại không có người kế vị nên vương quốc bắc Ấn lại rơi vào hổn lọan nhiểu nhương vì nội bộ tranh dành quyền lực. Vua Narasinghavarman, một tiểu vương của xứ Kanchi trở nên hùng mạnh, và vua Bhaskravarman của xứ Kamarupa (Assam) thâu tóm đất đai xưa vốn thuộc vua Harshavardhana. 

Mặt khác khối tăng lữ BLM khi thấy đế quốc của Harshavardhana bị tan rã liền cấu kết với dân Rajputs ở biên cương xâm lăng Ấn để “tái lập vai trò chính trị tối cao ở Aryavrata sau khi nhà vua mất” như Havel đã viết. [E.B.Havell, History of Aryan Rule in India, p. 217, Quoted by Swami Dharma Teertha, p. 118]. Theo truyền thuyết (Puranas) thì dân Rajputs vốn là hậu duệ của Hung nô lại được BLM thu phục biến chúng thành giai cấp Kshatriya, tức giai cấp vương tướng để phục vụ cho quyền lợi của họ và cả hai phía cùng hưỡng lợi. 

Nhưng đến năm 724 tức khỏang đầu thế kỷ thứ 8 thì quân Hồi (Turkic Muslim) đã chiếm được đất Sind, vùng viễn tây đất Ấn, và trở thành mối đe dọa về sau cho sự an nguy của Ấn. Nhiều bia ký của các tiểu vương ở phía tây đã ghi lại những cuộc chống các làn sóng xâm lăng của “dân mleccha”, có nơi khác ghi “dân yavana” (chỉ dân Ả rập). Từ sau triều đại của Harshavardhana không còn có triều nào của Ấn oai hùng cả nên đến năm 1193, quân Hồi dưới sự lãnh đạo của Bakhtiyar Khalji đã xâm lăng thành công và đặt nền thống trị trên đất Ấn.

trích từ tác phẩm : Những Hộ pháp vương trong lịch sử Phật Giáo Ấn Độ
Tác giả: Trần Trúc Lâm

0