18/06/2018, 15:43

Kể chuyện lịch sử hoàng gia Anh Quốc

Pha Lê Nhân dịp hoàng gia Anh đón mừng công nương Kate sinh hạ hoàng tử, nghiencuulichsu xin giới thiệu bài viết của tác giả Pha Lê về lịch sử hoàng gia Anh quốc với văn phong dí dỏm, dễ hiểu, lôi cuốn nhưng cũng chứa nhiều thông tin bổ ích. Kate vừa sinh hạ một hoàng ...

kate-william

Pha Lê

Nhân dịp hoàng gia Anh đón mừng công nương Kate sinh hạ hoàng tử, nghiencuulichsu xin giới thiệu bài viết của tác giả Pha Lê về lịch sử hoàng gia Anh quốc với văn phong dí dỏm, dễ hiểu, lôi cuốn nhưng cũng chứa nhiều thông tin bổ ích.

Kate vừa sinh hạ một hoàng tử, khiến báo chí các nước  um hết cả lên. Nếu mọi thứ diễn ra suôn sẻ, cậu bé sẽ trở thành người kế vị tương lai của nước Anh (sau bố và ông). Nếu chỉ có thế mà thiên hạ xuýt với xoa thì quá chán! Lịch sử của Hoàng Gia Anh có nhiều điều vô cùng thú vị; nhân dịp Kate sinh hạ hoàng tử, xin “chộp ngay cơ hội” để viết loạt bài về lịch sử Hoàng Gia Anh – một đề tài tôi khoái từ rất lâu nhưng chưa có “cớ” để làm.

Những bài thế này sẽ không dài dòng, chứ dài là đọc rất buồn ngủ. Tuy nhiên, học ít nhưng vẫn phải học đến nơi đến chốn; muốn biết một cách tương đối tường tận về Hoàng Gia Anh là chúng ta phải thăm dò thời kỳ “trước khi có vua” một chút: ông vua đầu tiên (của cái nơi sau này thành Anh quốc) là ai? Vì sao có vua? Vua từ đâu chui ra?

Xin cám ơn một ông Bê Đê

Đùa thế thôi cho nó giật gân đúng mốt, chứ ông này tên viết đúng là Bede, sống vào khoảng 673-735 năm sau Công Nguyên. Ông là một thầy tu, và là một dịch giả rất giỏi; Bede yêu lịch sử nên cất công sưu tầm, dịch thuật, ghi chép các sự kiện xưa của nước Anh, rồi soạn ra nhiều sách sử vô cùng giá trị. Xứ sương mù gọi ông là “Cha đẻ của lịch sử Anh Quốc”. Thời của Bede, nước Anh rất loạn, người nào cũng lo giữ đầu nên chẳng ai chịu ghi chép gì; nếu không có ông là chúng ta sẽ mù tịt về những gì diễn ra ở Anh vào thời xa xưa. Ông cũng là người dùng hệ thống thời gian BC (Before Christ – trước Công Nguyên), và AD (Anno Domini – Công Nguyên, dịch chính xác là “Năm của Chúa”); các sử gia (lẫn dân chúng) về sau cũng dùng cách chia thời gian giống Bede, nên phải cảm ơn ông Bede cái đã.

Thế Bede viết gì?

La Mã, Anglo-Saxon, và vị vua đầu tiên của Anh

Lúc ăn lông ở lỗ, nước Anh cũng trải qua thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt… như mọi quốc gia khác; thời kỳ này chẳng có gì đặc biệt, trừ chuyện dân Anh bắt đầu xây stonehenge vào năm 3100 trước Công Nguyên, còn lại thì cuộc sống nói chung là bình bình.

Đến năm 650 BC, tộc người Celts (Celtic) kéo đến lãnh thổ nước Anh, và phát triển văn hóa Celts. Nhưng cuộc sống vẫn còn theo kiểu bộ lạc, bầy đàn, chưa có vua theo nghĩa của từ vua. Chủ yếu chỉ có “vua” theo kiểu thủ lĩnh bộ lạc, mỗi bộ lạc cai trị rải rác trên nước Anh.

Năm 55 trước Công Nguyên, đế chế La Mã bắt đầu dòm ngó Anh. Đối với họ, vùng đất này thật giàu có với nhiều quặng vàng, sắt, và đồng; mà chủ của xứ này lại là một đám mọi rợ (La Mã chỉ xem người dân La Mã là người văn minh, ai không phải La Mã đều là mọi rợ). Từ 55 BC đến 43 AD, đế chế của các Caesar đã chiếm trọn nước Anh, rồi đặt tên “Britannia” cho thuộc địa mới. Ngày hôm nay, Britain (Anh Quốc) là tên chính thức của xứ sương mù.

Nhưng người La Mã chiếm đất xong cũng chẳng thích cai trị gì nhiều (quản lý mệt chết), mà chỉ muốn… thu thuế và xây dựng. Thăm dò địa hình, người La Mã phát hiện rằng Britannia có một vùng rất thuận lợi để phát triển buôn bán, vì nơi đây có con sông vô cùng lớn chảy qua. Đó chính là sông Thames, dân La Mã bắt đầu gầy dựng thành phố mới tại đây, và đặt tên “Londinium” cho thành phố. London chính thức chào đời.

Ngoài việc phổ biến luật lệ (truyền từ thời Hy Lạp) cho “đám mọi rợ”, người La Mã còn chỉ họ cách trồng rau, nhập giống rau, xây dựng hệ thống đường bộ, xây nhà tắm nước nóng công cộng (từ đó xây luôn hệ thống ống dẫn nước; giống dân Hy Lạp, dân La Mã chuộng sự sạch sẽ) và xây… toilet.  Họ không giết (hết) các vị vua của mấy bộ tộc Celts, mà cứ để cho các ông cai trị như cũ, rồi thu thuế (dĩ nhiên cũng có tí đánh nhau nọ kia, nhưng thôi kể ra nó dài dòng lẻ tẻ, đọc mệt lắm).

 

 

 

Đến năm 400 AD, đế chế La Mã bắt đầu tịt ngòi, vì thiếu nhân lực để chém giết ở nơi khác nên họ rút toàn bô quân lẫn người từ Anh về quê hương, chấm dứt nền cai trị ở Britannia. Nước Anh hứng chịu một thời kỳ bạo loạn kéo dài khoảng 200 năm, khi các ông vua, các bộ lạc xâu xé lẫn nhau giành chủ quyền, để rồi tộc người Anglo-Saxon của xứ Scandinavia chiếm thế thượng phong vào khoảng năm 600. Năm 757, vị vua đương nhiệm của Anglo-Saxon tên Offa chiếm gần hết lãnh thổ nước Anh, đẩy người Celts về phía Tây.

Có thể xem Offa như vị vua đầu tiên của xứ sương mù, và vùng đất ông ép dân Celts di cư tới trở thành xứ Wales.

Tuy người La Mã có công đặt tên cho nước Anh và thành phố London, các thị trấn/thành phố nhỏ ở Anh là do người Anglo-Saxon đặt tên. Nếu đuôi của thị trấn có những chữ như: ton, wick, worth, bridge, den, ham… thì đó là vùng do người Anglo đặt tên (ví dụ: Luton, Buckingham, Birmingham, Epworth, Alnwick…)

Bốn vị thần của Anglo-Saxon: Tiw, Woden, Thor, và Friya, trở thành 4 ngày trong tuần của tiếng Anh: Tuesday (thứ 3), Wednesday (thứ 4), Thursday (thứ 5) và Friday (thứ 6).

Vậy là nước Anh bắt đầu có chủ rồi, nhưng từ ông Offa (triều đại Anglo-Saxon) đến bà Nữ hoàng Elizabeth đệ Nhị (Nhà Windsor của Vương quốc Liên hiệp Anh) còn xa lắm, hẹn mọi người vào kỳ sau.

Offa trở thành vị vua Anglo Saxon đầu tiên của xứ sương mù; đến năm 796, Offa qua đời, sau đấy thì sao?

Offa có một cậu con trai tên Egfrith, nhưng cậu này ốm yếu thế nào đó mà thay cha làm vua được 5 tháng là lăn đùng ra chết. Của đáng tội, thời còn sống thì vua Offa vì sợ họ hàng giành ngôi với thằng con, nên giết hết đám họ hàng gần, đến khi Egfrith qua đời thì dòng họ nhà Offa chẳng còn ma nào. Ngai vàng lọt vào tay của một gã bá vơ thuộc họ bà con xa lắc của Offa.

Tranh tường “Vua Offa cưỡi ngựa” ở nhà thờ St Alban. Chẳng biết ông con Egfrith có phải là người cưỡi ngựa cạnh Offa không, Egfrith lên ngôi có 5 tháng, tìm mãi mà chẳng thấy bức tranh nào vẽ mặt Egfrith cả.

Tuy nhiên, họ hàng xa của Offa chẳng phải Offa, nước Anh một lần nữa rơi vào tình cảnh “loạn chủ”, lãnh chúa của các vùng không ai nghe lời ai, thi nhau giành giật chức vua. Từ năm 796 đến năm 871, xứ sương mù có đến hơn 30 ông vua, mỗi ông ‘chấm mút’ được vài năm (giỏi lắm là cỡ chục năm) thì sẽ bị ông khác cướp ngôi rồi chấm mút tiếp.

Tác phẩm vẽ một người lính của Anh thời thế kỷ thứ 7, không biết ai vẽ và vẽ năm nào. Trong thời chấm mút thì các ông vua chẳng có gì nổi trội, mỗi ông cầm quyền trong thời gian ngắn nên tranh tượng về các ông rất hiếm, mọi người ngắm hình lính tráng thời này vậy. Bạn nào có thêm thông tin của bức tranh này thì bổ sung dùm mình nhé.

 Trong tình cảnh đất nước nhiều vua đâm loạn, nước Anh yếu thế và trở thành miếng mồi ngon cho các thành phần bất hảo, đặc biệt là người Vikings khét tiếng hung hăng. Thời còn Offa, người Vikings chỉ dám mò đến bờ biển Anh và cướp chút đỉnh, nhưng đến thời loạn xạ này thì dân Vikings liên tục kéo thuyền tới cướp bóc, hãm hiếp con gái nhà lành. Vào những năm 850, người Vikings bắt đầu dấn sâu vô đất liền, và năm 865 thì họ phát động chiến dịch “tổng tấn công” Anh Quốc.

Các ông vua chấm mút gặp Vikings là cụp đuôi, đánh trả mấy cũng không xi nhê. Lúc đó, một vị vua (nói đúng hơn là lãnh chúa của xứ Wessex, cũng là cháu chắt của một ông vua quèn trên), tên Alfred, thấy bực bội, quyết định cầm quân xông trận. Alfed đẩy toàn bộ quân Vikings về phía Đông, giành lại gần hết lãnh thổ nước Anh.

Tượng Alfred tại Winchester, Anh Quốc

 

Một món kim hoàn do Alfred đặt làm, hiện nằm tại bảo tàng Ashmolean ở Oxford. Sách vở ghi chép rằng Alfred đặt làm nhiều thanh trượng bằng vàng để tặng các giám mục, và đây có thể là một phần còn sót lại của một thanh trượng (những thanh trượng còn lại giờ đã mất hút). Ở trên mảnh vàng có khắc chữ “Alfred had me made”

 

Alfred vừa giỏi vừa anh minh nên được người đời gọi là Alfred the Great (Alfred vĩ đại). Ông lên làm vua, chấm dứt thời kỳ trăm vua không được bát nước xáo. Ông bắt người Vikings ký hiệp ước, trong đó quy định rằng dân Vikings chỉ được quản lý một phần của bờ biển phía Đông. Chưa hết, biết người Vikings rất giỏi đóng thuyền, đi biển, nên Alfred tiện thể bảo dân chúng học lóm, sau đó ông kết hợp kỹ thuật đóng thuyền của dân Vikings với mô hình tàu chiến của người La Mã, Hy Lạp, cải tiến nên một loại tàu gọn gàng hơn, mạnh mẽ hơn cho hạm đội Anh. Về sau, nước Anh liên tục thắng thế trong các trận thủy chiến nổi tiếng, và hải quân Anh trở thành một đội quân mạnh hùng hậu; tất cả là nhờ họ đã học lóm người Vikings. 

Tác phẩm “Thuyền Vikings”, Adolf Bock vẽ vào đầu thế kỷ 20th.

 

Thuyền của người Vikings trưng bày tại bảo tàng Oslo (Na-Uy)

 
Nhưng cũng vì Alfred, mà người Anh và người Pháp bắt đầu ghét nhau như chó với mèo.

Vì sao vậy? Vì ban đầu, dân Vikings đánh chiếm Anh quá dễ dàng, ông vua nào của xứ sương mù lúc ấy cũng kém cỏi, nên đám Vikings cứ tha hồ cướp giết hiếp. Đến lúc Alfred đánh trả, lên ngôi vua, dân Vikings bỗng dưng mất gần hết một nguồn lợi nhuận dồi dào.

Đối với dân Vikings, chỉ quản lý một vùng biển phía Đông của Anh là chưa đủ. Thiếu tiền, họ quyết định giương buồm xuống phía Nam, và tại đây, họ phát hiện ra rằng nước Pháp dễ ăn hơn thật. Họ nhanh chóng cắm trại ở bờ biển Pháp và từ đó tủa ra đi cướp bóc, những khu trại này liên tục lan rộng – chẳng khác gì một dạng ‘nhà nghỉ có hệ thống’ của người Vikings.

Người Vikings nhanh chóng chiếm được một vùng lớn của Pháp. Vì là dân phương bắc, nói tiếng Old Norse, và được người đời gọi là Norsemen, nên họ đặt tên cho vùng mình chiếm được ở Pháp là Normandy (có nghĩa: Đất nước của người Norse).

Tranh minh họa trong một cuốn sách cổ , vẽ cảnh dân Vikings đổ bộ đến Normandy

Trong một thời gian khá dài, Normandy không thuộc Pháp, và Công tước của Normandy (tách khỏi vua Vikings để đến Pháp cai trị) chả ưa gì vua Pháp. Biết rằng cái đám du thủ du thực này là do ông Alfred của tụi Ăng-Lê đẩy qua, vua Pháp đem lòng hậm hực với vua Anh từ đó.

sau khi Alfred qua đời, nước Anh sẽ ra sao?

May mắn cho Alfred là con cái của ông đều là người giỏi giang, cậu con trai cả Edward lên nối ngôi vua, ông con này cũng học rộng hiểu nhiều, và do ông làm trưởng nam, nên người đời gọi ông với biệt danh “Cậu cả Edward” (Edward the Elder).

Tranh chân dung vẽ tường của Edward I, thế kỷ 13. Ở trong hình có chữ “Edward” bằng tiếng Anglo cũ, nhìn rất loằng ngoằng. Đúng ra thì Edward cũng phải đánh nhau một tý mới chắc chắn giành được ngai vàng mà vua cha truyền cho, nhưng mấy cuộc chém giết này lẻ tẻ và rất chán, khỏi biết cũng được.

Việc đầu tiên Edward làm là chiếm thêm đất của dân Vikings ở bờ biển phía đông. Đây là phần đất nhỏ mà vua cha Alfred đã ký hiệp ước cho người Vikings sử dụng, nhưng hiệp ước của những năm 800s này vốn dĩ rất tạm bợ. Lúc Edward lên ngôi vua thì ông đi lấy lại đất, nói chung là “tui mạnh tui có quyền”.

Cậu cả này cũng may mắn có rất nhiều con gái, dĩ nhiên con trai thì ông cũng có một mớ, nhưng con gái lại đặc biệt nhiều, tới hơn… 10 đứa. Tiện thể, ông gả một số công chúa cho các quý tộc của những vùng lớn ở Anh, đất nước từ đó khá yên ấm, không ai đứng lên nổi loạn hay giành ngôi cả. Nói chung lời than phiền về Edward thì chẳng có nhiều, phải mỗi tội là ông không mộ đạo, vào thời đấy thì tội này hơi nghiêm trọng tí, nên Edward hay bị các nhà thờ mắng (nhưng đến giờ vua Anh vẫn vậy, chủ yếu là cúng vái lấy lệ).

“Edward và nghị viện”, năm 1300. Nói nghị viện cho oai chứ thực chất lúc này nghị viện gồm toàn thầy tu và giới quý tộc. Giám mục mặc áo đỏ bên phải, còn trưởng của các tu viện mặc áo đen bên trái, giữa là các kiểu quý tộc/lãnh chúa. Nghe đồn là Edward ít khi nghe theo lời khuyên của các thầy tu nên hay bị các ông ấy mắng là bất kính với Chúa.

Đến lúc Edward I qua đời, thì con trai thứ của ông là Æthelstan (cứ viết thành Athelstan cho nó dễ nhìn) nối ngôi (con cả chết sau Edward độ mươi ngày, thế là hỏng ăn). Athelstan thích chiến tranh hơn bố, và mộ đạo hơn, ông thường cho rằng chiến thắng của mình trên mặt trận là do Chúa ban. Ông vác quân đi đánh vua Olaf của Ireland và vua Constantine II của Scotland, rồi đánh tiếp xứ Wales (của dân Celtic). Athelstan thắng, và trở thành vị vua đầu tiên của một nước Anh như nước Anh chúng ta biết ngày nay (tức toàn lãnh thổ Anh, với  Wales, Scotland, và Ireland làm “thuộc địa”).

Vua Athelstan (trái, đội vương miện) tặng sách cho Thánh Cuthbert. Tặng đây là tặng theo nghĩa bóng, vì Cuthbert lúc này đã qua đời. Đây là hình minh hoạ cho một cuốn sách sử của ông Bede (ông Bede mất trước khi có vua Athelstan, nhưng sống sau thời của Thánh Cuthbert nên có viết về Cuthbert. Đám hậu duệ  khi in lại sách của Bede thì vẽ chêm vua Athelstan vào để minh hoạ, rắc rối nhỉ?)

 

Hình vẽ minh hoạ (nhưng không biết ai vẽ và vẽ năm mô? Bạn nào biết thì xin bổ xung dùm mình nhé) cho trận đánh giữa Athelstan với các vị vua Scot và Ireland. Người đời sau này đặt tên cho trận đánh lịch sử ấy là “Trận Brunanburh” (tiếng Anglo cổ, đọc muốn trẹo miệng)

 

Đánh thắng rồi nhưng vẫn phải cai trị cho ra hồn mới giữ được lãnh thổ. Athelstan giống ông ngoại, thích ban hành luật lệ nên lãnh đạo rất nghiêm. Và cũng học từ bố, Athelstan hiểu rằng đem gả công chúa cho các ông vua/lãnh chúa khác là điều có lợi. Sẵn tiện Athelstan còn rất nhiều chị em gái (mà bố chưa gả đi hết kịp), ông bắt từng người đi lấy chồng. 

Chân dung Athelstan bằng kính màu, thế kỷ 15th, hiện nằm tại Nhà thờ All Souls của All Souls College (thuộc Đại học Oxford). Athelstan có công hàn gắn những rạn nứt giữa các Giám mục và giới quý tộc/lãnh đạo ở Anh, vì ông bố Edward I không mấy đoái hoài đến thành phần này.

Nhưng vào cái thời chưa có bệnh viện sạch vi khuẩn, Athelstan làm vua được hơn chục năm là băng hà. Trong lúc hấp hối thì ông giao ngai cho người em mình quý nhất: Edmund, tức vua Edmund I (vì sau này có Edmund II nên Edmund đầu tiên thành Edmund I. Nếu trong tương lai nước Anh có thêm một Athelstan nữa thì Athelstan cổ sẽ là Athelstan I; nhưng chắc sẽ không có ông nào nữa đâu, tên gì khó đọc chết).

Đánh hơi thấy vua Anh đang “chuyển giao công nghệ”, vua Ireland, vua Scot… chộp thời cơ để vùng lên giành độc lập. Nhưng Edmund I từng tham gia đánh trận với ông anh, nên chẳng phải tay mơ; Scotland và Ireland tiếp tục phải làm thuộc địa, và hoàn toàn công nhận Edmund như thủ lĩnh của mình vào năm 944. Vì là một nhà lãnh đạo quân sự giỏi nên người đời gọi Edmund là “Edmund cừ khôi” (Edmund the Magnificent).

Chân dung của Edmund I, hình như là chép lại từ một bức vẽ tường cổ.

Nhưng lãnh đạo quân sự giỏi thường hay có nhiều kẻ thù. Đánh nhau xong, thay vì ngồi nhà đọc luật như tiền bối, Edmund I lại thích tự mình đi lùng bắt du thủ du thực, và bị một gã tên Liofa thù dai. Ngày nọ, Liofa lẻn vô nhà thờ lúc Edmund I đang làm lễ mét, và ám sát vua nước Anh.

Sau Edmund I, nước Anh bắt đầu có dấu hiệu đi xuống. Nói chung là còn lắm thăng trầm rồi Hoàng gia mới có được nữ hoàng Elizabeth như hôm nay.

0