Bài văn phân tích tác phẩm "Nỗi thương mình" số 1 - 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Nỗi thương mình" trích "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Sau biến cố gia đình, Kiều bán thân làm lẽ cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em, đồng thời gửi lại mối duyên của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân, những tưởng bấy nhiêu sự hy sinh ấy của Kiều đã là đến tột cùng, thế nhưng phận đời éo le, thích trêu đùa kiếp hồng nhan bạc mệnh. Kiều bị Mã ...
Sau biến cố gia đình, Kiều bán thân làm lẽ cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em, đồng thời gửi lại mối duyên của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân, những tưởng bấy nhiêu sự hy sinh ấy của Kiều đã là đến tột cùng, thế nhưng phận đời éo le, thích trêu đùa kiếp hồng nhan bạc mệnh. Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng Bích, trở thành kỹ nữ, khiến cuộc đời nàng thật sự đi vào bi kịch kinh hoàng. Sau lần tự tử và bỏ trốn không thành Kiều bị Tú Bà buộc phải tiếp khách, dần trở thành người kỹ nữ phong trần trong nỗi xót xa và tủi nhục khôn cùng.
Số phận nổi trôi của nàng Kiều khiến độc giả không khỏi thương cảm, đớn đau đúng với câu “Đau đớn thay phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Mà ở đây hơn ai hết Thúy Kiều chính là người ý thức được rõ nhất cảnh ngộ éo le của kiếp kỹ nữ trong đoạn trích Nỗi thương mình.
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”
Mở đầu đoạn trích đó là khung cảnh chốn lầu xanh ong bướm trụy lạc, hình ảnh “bướm lả ong lơi” gợi ra viễn cảnh vô cùng dung tục, ví kỹ nữ như là những bông hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi lại tựa như loài ong loài bướm, lả lơi, ngả nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại chạm đến bông hoa kia, hết sức tạp nham, lẫn lộn và hoang đường. Trong chốn mua vui ấy người ta chỉ thấy hương rượu nồng quyện với mùi hương phấn dung tục với “cuộc say đầy tháng”, với sự khoái lạc của “trận cười suốt đêm”, nam nữ thâu hoan không kể ngày đêm, ồn ào, náo nhiệt và trụy lạc. Mà người phụ nữ ở chốn phong trần lại trở thành thứ đồ chơi cho kẻ khác mua vui, ai đến ai đi nhiều không kể xiết, vốn là những người xa lạ thế nhưng lại có thể hiện ra những hình ảnh “dập dìu” nam nữ cười đùa, ngả ngớn, đầu sát bên đầu, má ấp bên má tựa như lá với gió, cành với chim.
Người kỹ nữ ngày đêm tiếp khách cũng chẳng phân biệt sáng tối, ngày hay đêm, khách đến là ai, già hay trẻ, xấu hay đẹp, nhân phẩm, tính cách ra sao, thứ họ trao đổi chỉ là thú vui xác thịt và đồng tiền rẻ rúng, riết rồi chẳng còn nhận ra bản thân mình là ai nữa. Mà trong đoạn trích để khắc họa hình ảnh khách làng chơi Nguyễn Du đã tinh tế đưa vào hai nhân vật có thật trong lịch sử, một là Tống Ngọc nổi danh với bài Phú Cao Đường kể chuyện mây mưa của nữ thần Vu Sơn với tiên vương nước Sở, ý chỉ chuyện nam nữ hoan lạc. Hai là Trường Khanh tên tự của Tư Mã Tương Như, người gảy một khúc Phượng cầu Hoàng để quyến rũ Trác Văn Quân, một quả phụ nhan sắc tuyệt trần, cũng ý chỉ loại khách phong lưu, giỏi chuyện trăng gió.
Như vậy từ những hình ảnh ẩn dụ tinh tế thông qua cách điển tích điển cố, tác giả đã tái hiện một cách tài tình khung cảnh chốn lầu xanh nhuốm màu sắc dục, cuộc sống nhơ nhớp, hỗn loạn và hoang đường của những con người nơi đây. Mà ở đó người phụ nữ trở thành thú vui, thứ đồ chơi tùy cho những kẻ có tiền sử dụng phục vụ cho những sở thích dung tục, tầm thường. Dẫu rằng chốn lầu xanh ngày ngày giăng đèn kết hoa, thế nhưng cuộc đời của người kỹ nữ luôn chìm trong tăm tối, tủi nhục và đầy xót xa cay đắng.
Còn bản thân Kiều, vốn là một tiểu thư khuê các, nào đâu biết chuyện gió trăng, tâm hồn vốn thanh cao trang nhã, tài sắc vẹn toàn, vốn tưởng sẽ phải xứng có được cuộc sống phú quý, được nâng niu cưng chiều. Thế nhưng dòng đời vốn dĩ “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, ai ngờ được sóng gió lại đẩy cuộc đời Kiều đi vào chỗ địa ngục trần gian, nhơ nhớp, dung tục đến tận cùng là lầu xanh. Ở chốn ấy Kiều đã cố hết sức mình vùng vẫy, chống cự thậm chí tìm đến cái chết, nhưng vẫn không thể thoát khỏi số phận ê chề, nhục nhã. Thế rồi sau mỗi cuộc “vui”, Kiều quay về nhìn lại tấm thân tàn tạ, lại ý thức được thân phận bọt bèo, nàng không khỏi xót xa, tự khóc thương cho bản thân mình.
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình lại thấy thương mình xót xa”
Hai câu thơ ấy khiến người ta chợt nghĩ đến hai câu thơ của Hồ Xuân Hương rằng “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh/Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”, cũng là nỗi đớn đau cho thân phận phụ nữ, là nỗi chán chê, xót xa cho cuộc đời hồng nhan, lấy rượu để tạm quên đi nỗi đắng cay, thế nhưng lúc tỉnh thì nỗi đau ấy lại càng trở nên thấm thía và rõ ràng. Thế nhưng khác với việc Hồ Xuân Hương tự chuốc say mình để được quên sự đời, thì bản thân Thúy Kiều lại bị buộc phải say, chén đi chén lại với đủ loại khách làng chơi, ngày này qua tháng nọ, hiếm có lúc giở rượu, tỉnh giấc khi cuộc vui đã tàn, người đã tan. Kiều mới chợt giật mình, bàng hoàng nhìn lại tấm thân tàn, mà tự thấy xót xa, thương cảm đến quặn thắt cả tâm hồn.
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”
Nỗi đau của Kiều lại càng được bộc lộ rõ nét hơn trong những câu thơ ý thức về thân phận bọt bèo. Nhắc lại chuyện “Khi sao phong gấm rủ là”, là nhắc về cuộc sống êm đềm trướng rủ màn che thuở trước, khi Kiều còn được sống trong sự bảo bọc của cha mẹ, nào có biết đến chốn phong trần với nỗi ê chề, xót xa đến tận cùng này. Trái ngược hẳn với mộng đẹp trong quá khứ, Kiều bây giờ buộc phải đối mặt với một cuộc sống cũng trướng rủ màn che đấy, nhưng lại chìm trong những ngày tháng sắc dục, buôn phấn bán hương cho kẻ chơi đùa thỏa thích, ngày ngày nở nụ cười giả tạo, lấy lòng người không quen biết.
Mà Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”, vốn là đóa mẫu đơn cao quý, trong sạch, cuối cùng lại trở thành nơi của biết bao “bướm lả ong lơi”, bị chà đạp không thương tiếc, chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc. Khuôn mặt khi xưa vốn dĩ ngại ngùng, e ấp, quạt hương che nửa mặt, ôm ấp chốn khuê phòng, thì nay phải ngày ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình phẩm, phải “dày gió dạn sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả ngớn, chiều lòng. Nghĩ lại bản thân Thúy Kiều chỉ còn có thể thốt lên lời thở than chua xót “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”, là ý thức của nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của mình. Từ đó độc giả dễ dàng nhận ra cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng về cả thể xác và tinh thần của nàng Kiều tội nghiệp.
“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu”
Thế nhưng dẫu cuộc đời có chà đạp, vùi dập phận liễu yếu đào tơ, thì Kiều vẫn mạnh mẽ kiên cường, giữ vững cho mình cốt cách thanh cao, tinh khiết tựa loài sen trắng trong đầm nước “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Dẫu bốn bề chốn lầu xanh nơi nào cũng “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm đến, những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy cũng chẳng đánh động được vào tâm hồn vốn đã chết lặng từ lần đầu bước chân vào nơi đây. Với những ai khác cuộc vui thâu đêm suốt sáng là “xuân” còn với nàng những thứ ấy vốn chẳng lọt vào tầm mắt, cũng chẳng thiết tha gì. Gặp cảnh khách làng chơi muốn “gió tựa hoa kề”, muốn gần gũi xác thịt mà lòng nàng như chết lặng, có lẽ bấy nhiêu đắng cay, tủi nhục đã khiến Kiều hoàn toàn buông xuôi, mặc cho cuộc đời trôi nổi giữa chốn phong, hoa, tuyết, nguyệt rực rỡ, thơ mộng nhưng ẩn chứa là sự dung tục, tầm thường này.
Người sống trong cảnh đớn đau thể xác, tàn tạ tâm hồn, thì nào có thể vui tươi được dẫu rằng đèn hoa giăng lối, tiếng cười muôn nơi, rượu ngon mỹ thực ngập tràn? Thế nên Nguyễn Du mới viết hai câu thơ “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ?”, để diễn tả đúng cái hoàn cảnh éo le, buồn tủi của Thúy Kiều. Nực cười làm sao chốn phong trần nhơ nhớp mà cũng “Đòi phen nét vẽ câu thơ/Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”, để thỏa mãn cái đám người dung tục tầm thường, nhưng vẫn muốn thể hiện mình là kẻ có văn hóa, tao nhã với thú vui cầm, kỳ, thi, họa thanh cao.
Thúy Kiều vốn là người thông minh, sắc sảo ca từ thi phú âm luật có cái nào mà không thông, nhưng nhìn viễn cảnh trước mắt, lại nhìn tới số phận bọt bèo của mình thì những thứ mà nàng yêu thích trước đây cũng trở nên tẻ nhạt, chán chường. Đặc biệt trong chốn phong trần này, tài nghệ của nàng lại trở thành một cái gì đó rất là trêu người, tài sắc vẹn toàn như thế mà cũng nào có tránh khỏi được kiếp long đong, ô nhục đâu? Lòng Kiều đã chết cái vui cũng chỉ là gượng cho có, để chiều lòng kẻ đến người đi, chứ chẳng thiết tha mặn mà, lại nghĩ đến việc ngày ngày gặp bao nhiêu kẻ mến mộ, thèm khát nhan sắc, tài năng của mình, nhưng liệu tìm đâu ra kẻ “ai tri âm đó mặn mà với ai” hay cũng chỉ là một phút thoáng qua. Điều đó càng làm cho Kiều trở nên chán nản, xót xa đến tột cùng.
Đoạn trích Nỗi thương mình là nỗi thương cảm xót xa cho một kiếp hồng nhan bạc mệnh của Thúy Kiều, người phụ nữ tội nghiệp bị xã hội phong kiến vùi dập không thương tiếc, đến mức chết lặng cả tâm hồn vì quá đớn đau. Thông qua đoạn trích ta cũng thấy rõ được tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du khi thấu hiểu và thông cảm cho nỗi đau của Thúy Kiều, đồng thời trân trọng và đề cao giá trị nhân phẩm tốt đẹp của nàng Kiều, dẫu có chìm trong chốn dung tục tầm thường nhưng vẫn giữ được một tâm hồn thanh khiết, không bị sa đà trong lối sống trụy lạc, hoang đường.