Vũ Duy Thanh 武維清

Vũ Duy Thanh 武維清 (1807–1859) tự là Trừng Phủ, hiệu Mai Khê, Vĩ Nhân, hồi nhỏ còn có tên là Vũ Duy Tân, Ông sinh ngày 9 -8-1807 ở làng Kim Bồng, sau đổi là Vân Bòng, tục gọi làng Bòng, thuộc phủ Yên Khánh, nay là xã Khánh Hải, huyện yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Ông sinh ra trong một gia đình nho học Từ bé đã nổi tiếng thần đồng, tư chất thông minh đĩnh ngộ phàm văn sách đã trông qua một lượt là nhớ, lại có tài ứng đối mẫn tiệp, ở quê hương ông còn truyền tụng rất nhiều giai thoại về tài ứng đối mẫn tiệp của Trạng Bồng. Tuy thông tuệ cổ kim, giỏi thi phú từ chương. "Nói ra là thành văn chương vì trong lòng uẩn súc" nhưng thuở hàn vi ông thi lận đận mãi không đỗ. Mặc dù tài cao, phận thấp, nhưng vẫn không làm ông nản chí một phen bẻ quế cung trăng, rắp theo cửa Khổng sân Trình. Năm Thiệu Trị thứ 3(1843) ông đỗ Tú tài, sau đỗ cử nhân, thi Hội hai khoa đều hỏng.Năm Tự Đức thứ 4 (1851) ông đã 45 tuổi mới đỗ Phó Bảng. "Tuy muộn mới thành danh mà sự nghiệp lớn lao", ngay năm ấy, Tự Đức mở Chế khoa là khoa thi đặc biệt, do nhà vua trực tiếp ra đề để tuyển chọn nhân tài. Hàng trăm sĩ tử đua chen, quyển của ông xuất sắc nhất, được vua ban sắc" Bác học Hoành tài, Đệ nhất giáp Bảng nhãn Cát sĩ cập đệ, Đệ nhị danh", vua Tự Đức còn châu phê "Chế khoa Bảng nhãn Cát sĩ thị trạng nguyên". Ta biết rằng, phép thi cổ, Tam khôi có trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.. đỗ Bảng nhãn Chế khoa coi như đỗ Trạng nguyên chính khoa. Lệ thi cử nhà Nguyễn không lấy Trạng Nguyên. Bởi vậy "Kể khoa bảng ông cao hơn mọi người", nên cờ và biển vua ban đều như bậc Trạng nguyên. Đương thời và truyền tụng sau này đều gọi ông là Trạng. Đông Dương Vũ Phạm Khải, người Côi Trì (Yên Mô), một trí thức lớn, một bậc đại thần đầy uy danh, cùng làm quan trong triều với Vũ Duy Thanh lúc bấy giờ. Sau khi đỗ, vua yêu vì nết, trọng vì tài, muốn cho ông một đặc ân là tuỳ chọn tước vị theo sở nguyện, nhưng Trạng Vũ chỉ xin ở Tập hiền viện để đào tạo nhân tài cho đất nước, sau được thăng Quốc tử giám Tế tửu (như chức Hiệu trưởng trường Đại học ngày nay), cho đến lúc mất. Ở Quốc Tử Giám, ông thường chuyên chú đào tạo nhân tài toàn diện, cả đức cả tài, vừa học vừa hành cho có thực tế và hữu ích "có học mà có hành chỉ có ông tự làm được", bởi thế, học trò của ông ra đời hầu hết đều thành đạt cả. Ông đã dâng lên Tự Đức "Tám điều cải cách giáo dục nước nhà", chứa đựng nhiều quan điểm giáo dục tiến bộ và rất mới so với nền giáo dục khoa cử truyền thống. Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), ông là một trong những người đứng đầu phái "chủ chiến", dâng sớ xin Tự Đức cho cầm quân đánh giặc, cứu nước. Ông liên kết với Phạm Văn Nghị, Nguyễn Tri Phương, Vũ Phạm Khải... để một lòng hợp sức bốn phương nghĩa sĩ diệt thù. Thấy giặc Tây có sức mạnh tàu thiếc, tàu đồng, đại bác, ông đã dày công nghiên cứu binh thư và chế tạo thành công loại tàu "mộc thành thuỷ chiến" (loại tàu chiến bằng gỗ, chạy hơi nước đầu tiên ở nước ta) để mong triều đình phê chuẩn, chế tạo hàng loạt, trang bị cho hải quân nước ta kháng cự với cuộc xâm lược của thực dân Pháp từ biển vào. Tấm lòng ấy, tài chí ấy đã được đương thời ca ngợi "Tử sinh trong sớm tối, một lòng mong phá tàu Tây" (Lê Duy Tích, câu đối viếng). Nhận thức rõ vị trí chiến lược của nước ta với hàng ngàn Kilômét bờ biển, trong điều kiện chiến tranh đổ bộ bằng đường biển của đế quốc Pháp đã ở trình độ cao, ông dâng sớ lên Tự Đức để phân tích tình hình, địa thế, rồi đề ra phương án phòng xa: "Nước ta chỉ có chiều dài, không có chiều rộng... mặt trông ra biển, lưng tựa vào núi rừng... suốt từ Bắc đến Nam chạy dài theo mé biển, phỏng như có nước ngoài dòm nom, thì bất cứ chỗ nào họ có thể lọt vào được. Như vậy, việc phòng giữ mặt biển rất quan trọng. Điều cần kíp là phải tập luyện thuỷ quân, hậu đãi binh lính và giao quyền hành cho các quan võ cho họ có đủ uy trí mà điều khiển". Đó là cái nhìn tức thời và khoa học. Rất tiếc, tờ sớ đệ lên, vua Tự Đức ban khen nhưng lại cho là việc chưa cần làm ngay, giao cho lưu trữ, mai sau có ngày lục dụng! Vào những năm đại hạn, mùa màng thất bát, có lần trên đường đi kinh lý hoặc về quê, qua sứ Nghệ, xứ Thanh, thấy dân tình đói khổ, dắt nhau dọc đường, đào dễ cây, bứt cỏ ăn, ông thương xót, bàn với quan đầu tỉnh dâng sớ, xin mở kho cứu tế cho nhân dân. Mọi người vô cùng biết ơn ông. Ông là người có quan điểm nhân dân và dựa vào dân. Trong bài Văn sách thi đình, một tuyệt tác tài hoa đã đưa ông lên đỉnh cao khoa bảng, ông viết: "Nước phải lấy dân làm gốc". Vũ Duy Thanh yêu nước, thương dân, bởi thế ông luôn luôn tự hào về quê hương, đất nước, với truyền thống văn hiến lâu đời. Tình cảm ấy, tấm lòng ấy, sâu đậm trong nhiều sáng tác. nhưng tiếc thay, một tài năng đa diện, một hoài bão lớn lao, một tấm lòng nhân ái, một chí sĩ tiết tháo như ông lại đột ngột từ trần, không bệnh tật, yếu đau, mới 53 tuổi đời, cái tuổi đang độ sung mãn cả tài năng và trí tuệ! ông mất đột ngột cùng con trai một ngày ở Kinh thành Huế, sử sách không ghi rõ vì sao. Phải chăng đó là cái chết của một trong những người đứng đầu phái "chủ chiến" chống Pháp, đối địch với phái "chủ hoà" của triều đình nhà Nguyễn do Tự Đức đứng đầu. Thủa sinh thời, ông được sánh với "Quế tiên nơi bình địa, Trạng nguyên chốn dân gian.. Ví như cõi tiên đứng đầu mười hai ngọn núi BồngSơn"... "Trong hội văn chương, ngựa gấm vinh quy kiêu hãnh... Tài văn chương nổi tiếng đất trời là nhờ thơ tao nhã khéo dùng, há đâu hạnh phúc một ấp, một nhà. Thực là vinh dự cho Chúa ta, nước ta đó". Tác phẩm của Nguyễn Duy Thanh đến nay chỉ còn lại "Trừng phủ thi văn tập", "Chế khoa Bảng nhãn Vũ Duy Thanh tập", "Bồng Châu thi văn tập", nhưng ông vẫn được đánh giá là nhà văn, nhà thơ yêu nước, tài hoa. Vũ Duy Thanh 武維清 (1807–1859) tự là Trừng Phủ, hiệu Mai Khê, Vĩ Nhân, hồi nhỏ còn có tên là Vũ Duy Tân, Ông sinh ngày 9 -8-1807 ở làng Kim Bồng, sau đổi là Vân Bòng, tục gọi làng Bòng, thuộc phủ Yên Khánh, nay là xã Khánh Hải, huyện yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Ông sinh ra trong một gia đình nho học Từ bé đã nổi tiếng thần đồng, tư chất thông minh đĩnh ngộ phàm văn sách đã trông qua một lượt là nhớ, lại có tài ứng đối mẫn tiệp, ở quê hương ông còn truyền tụng rất nhiều giai thoại về tài ứng đối mẫn tiệp của Trạng Bồng. Tuy thông tuệ cổ kim, giỏi thi phú từ chương. "Nói ra là thành văn chương vì trong lòng uẩn súc" nhưng thuở hàn vi ông thi lận đận mãi không đỗ. Mặc dù tài cao, phận thấp, nhưng vẫn không làm ông nản chí một phen bẻ quế cung trăng, rắp theo cửa Khổng sân Trình. Năm Thiệu …

Vũ Duy Thanh 武維清 (1807–1859) tự là Trừng Phủ, hiệu Mai Khê, Vĩ Nhân, hồi nhỏ còn có tên là Vũ Duy Tân, Ông sinh ngày 9 -8-1807 ở làng Kim Bồng, sau đổi là Vân Bòng, tục gọi làng Bòng, thuộc phủ Yên Khánh, nay là xã Khánh Hải, huyện yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

Ông sinh ra trong một gia đình nho học Từ bé đã nổi tiếng thần đồng, tư chất thông minh đĩnh ngộ phàm văn sách đã trông qua một lượt là nhớ, lại có tài ứng đối mẫn tiệp, ở quê hương ông còn truyền tụng rất nhiều giai thoại về tài ứng đối mẫn tiệp của Trạng Bồng. Tuy thông tuệ cổ kim, giỏi thi phú từ chương. "Nói ra là thành văn chương vì trong lòng uẩn súc" nhưng thuở hàn vi ông thi lận đận mãi không đỗ.

Mặc dù tài cao, phận thấp, nhưng vẫn không làm ông nản chí một phen bẻ quế cung trăng, rắp theo cửa Khổng sân Trình. Năm Thiệu Trị thứ 3(1843) ông đỗ Tú tài, sau đỗ cử nhân, thi Hội hai khoa đều hỏng.Năm Tự Đức thứ 4 (1851) ông đã 45 tuổi mới đỗ Phó Bảng. "Tuy muộn mới thành danh mà sự nghiệp lớn lao", ngay năm ấy, Tự Đức mở Chế khoa là khoa thi đặc biệt, do nhà vua trực tiếp ra đề để tuyển chọn nhân tài. Hàng trăm sĩ tử đua chen, quyển của ông xuất sắc nhất, được vua ban sắc" Bác học Hoành tài, Đệ nhất giáp Bảng nhãn Cát sĩ cập đệ, Đệ nhị danh", vua Tự Đức còn châu phê "Chế khoa Bảng nhãn Cát sĩ thị trạng nguyên". Ta biết rằng, phép thi cổ, Tam  khôi có trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.. đỗ Bảng nhãn Chế khoa coi như đỗ Trạng nguyên chính khoa. Lệ thi cử nhà Nguyễn không lấy Trạng Nguyên. Bởi vậy "Kể khoa bảng ông cao hơn mọi người", nên cờ và biển vua ban đều như bậc Trạng nguyên. Đương thời và truyền tụng sau này đều gọi ông là Trạng. Đông Dương Vũ Phạm Khải, người Côi Trì (Yên Mô), một trí thức lớn, một bậc đại thần đầy uy danh, cùng làm quan trong triều với Vũ Duy Thanh lúc bấy giờ.

Sau khi đỗ, vua yêu vì nết, trọng vì tài, muốn cho ông một đặc ân là tuỳ chọn tước vị theo sở nguyện, nhưng Trạng Vũ chỉ xin ở Tập hiền viện để đào tạo nhân tài cho đất nước, sau được thăng Quốc tử giám Tế tửu (như chức Hiệu trưởng trường Đại học ngày nay), cho đến lúc mất. Ở Quốc Tử Giám, ông thường chuyên chú đào tạo nhân tài toàn diện, cả đức cả tài, vừa học vừa hành cho có thực tế và hữu ích "có học mà có hành chỉ có ông tự làm được", bởi thế, học trò của ông ra đời hầu hết đều thành đạt cả. Ông đã dâng lên Tự Đức "Tám điều cải cách giáo dục nước nhà", chứa đựng nhiều quan điểm giáo dục tiến bộ và rất mới so với nền giáo dục khoa cử truyền thống.

Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), ông là một trong những người đứng đầu phái "chủ chiến", dâng sớ xin Tự Đức cho cầm quân đánh giặc, cứu nước. Ông liên kết với Phạm Văn Nghị, Nguyễn Tri Phương, Vũ Phạm Khải... để một lòng hợp sức bốn phương nghĩa sĩ diệt thù.

Thấy giặc Tây có sức mạnh tàu thiếc, tàu đồng, đại bác, ông đã dày công nghiên cứu binh thư và chế tạo thành công loại tàu "mộc thành thuỷ chiến" (loại tàu chiến bằng gỗ, chạy hơi nước đầu tiên ở nước ta) để mong triều đình phê chuẩn, chế tạo hàng loạt, trang bị cho hải quân nước ta kháng cự với cuộc xâm lược của thực dân Pháp từ biển vào. Tấm lòng ấy, tài chí ấy đã được đương thời ca ngợi "Tử sinh trong sớm tối, một lòng mong phá tàu Tây" (Lê Duy Tích, câu đối viếng). Nhận thức rõ vị trí chiến lược của nước ta với hàng ngàn Kilômét bờ biển, trong điều kiện chiến tranh đổ bộ bằng đường biển của đế quốc Pháp đã ở trình độ cao, ông dâng sớ lên Tự Đức để phân tích tình hình, địa thế, rồi đề ra phương án phòng xa: "Nước ta chỉ có chiều dài, không có chiều rộng... mặt trông ra biển, lưng tựa vào núi rừng... suốt từ Bắc đến Nam chạy dài theo mé biển, phỏng như có nước ngoài dòm nom, thì bất cứ chỗ nào họ có thể lọt vào được. Như vậy, việc phòng giữ mặt biển rất quan trọng. Điều cần kíp là phải tập luyện thuỷ quân, hậu đãi binh lính và giao quyền hành cho các quan võ cho họ có đủ uy trí mà điều khiển". Đó là cái nhìn tức thời và khoa học. Rất tiếc, tờ sớ đệ lên, vua Tự Đức ban khen nhưng lại cho là việc chưa cần làm ngay, giao cho lưu trữ, mai sau có ngày lục dụng!

Vào những năm đại hạn, mùa màng thất bát, có lần trên đường đi kinh lý hoặc về quê, qua sứ Nghệ, xứ Thanh, thấy dân tình đói khổ, dắt nhau dọc đường, đào dễ cây, bứt cỏ ăn, ông thương xót, bàn với quan đầu tỉnh dâng sớ, xin mở kho cứu tế cho nhân dân. Mọi người vô cùng biết ơn ông. Ông là người có quan điểm nhân dân và dựa vào  dân. Trong bài Văn sách thi đình, một tuyệt tác tài hoa đã đưa ông lên đỉnh cao khoa bảng, ông viết: "Nước phải lấy dân làm gốc".

Vũ Duy Thanh yêu nước, thương dân, bởi thế ông luôn luôn tự hào về quê hương, đất nước, với truyền thống văn hiến lâu đời. Tình cảm ấy, tấm lòng ấy, sâu đậm trong nhiều sáng tác. nhưng tiếc thay, một tài năng đa diện, một hoài bão lớn lao, một tấm lòng nhân ái, một chí sĩ tiết tháo như ông lại đột ngột từ trần, không bệnh tật, yếu đau, mới 53 tuổi đời, cái tuổi đang độ sung mãn cả tài năng và trí tuệ! ông mất đột ngột cùng con trai một ngày ở Kinh thành Huế, sử sách không ghi rõ vì sao. Phải chăng đó là cái chết của một trong những người đứng đầu phái "chủ chiến" chống Pháp, đối địch với phái "chủ hoà" của triều đình nhà Nguyễn do Tự Đức đứng đầu. Thủa sinh thời, ông được sánh với "Quế tiên nơi bình địa, Trạng nguyên chốn dân gian.. Ví như cõi tiên đứng đầu mười hai ngọn núi BồngSơn"... "Trong hội văn chương, ngựa gấm vinh quy kiêu hãnh... Tài văn chương nổi tiếng đất trời là nhờ thơ tao nhã khéo dùng, há đâu hạnh phúc một ấp, một nhà. Thực là vinh dự cho Chúa ta, nước ta đó".

Tác phẩm của Nguyễn Duy Thanh đến nay chỉ còn lại "Trừng phủ thi văn tập", "Chế khoa Bảng nhãn Vũ Duy Thanh tập", "Bồng Châu thi văn tập", nhưng ông vẫn được đánh giá là nhà văn, nhà thơ yêu nước, tài hoa.
Vũ Duy Thanh 武維清 (1807–1859) tự là Trừng Phủ, hiệu Mai Khê, Vĩ Nhân, hồi nhỏ còn có tên là Vũ Duy Tân, Ông sinh ngày 9 -8-1807 ở làng Kim Bồng, sau đổi là Vân Bòng, tục gọi làng Bòng, thuộc phủ Yên Khánh, nay là xã Khánh Hải, huyện yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

Ông sinh ra trong một gia đình nho học Từ bé đã nổi tiếng thần đồng, tư chất thông minh đĩnh ngộ phàm văn sách đã trông qua một lượt là nhớ, lại có tài ứng đối mẫn tiệp, ở quê hương ông còn truyền tụng rất nhiều giai thoại về tài ứng đối mẫn tiệp của Trạng Bồng. Tuy thông tuệ cổ kim, giỏi thi phú từ chương. "Nói ra là thành văn chương vì trong lòng uẩn súc" nhưng thuở hàn vi ông thi lận đận mãi không đỗ.

Mặc dù tài cao, phận thấp, nhưng vẫn không làm ông nản chí một phen bẻ quế cung trăng, rắp theo cửa Khổng sân Trình. Năm Thiệu …
Bài liên quan

Trương Hỗ 張祜

Trương Hỗ 張祜 (khoảng 785-849) tự Thừa Cát 承吉, người Thanh Hà (nay thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc), nổi tiếng về thể cung từ, thơ có 10 quyển.

Tiền Khởi 錢起

Tiền Khởi 錢起 (710-782) tự là Trọng Văn 仲文, người đất Ngô Hưng (nay thuộc Hồ Châu, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc). Năm Thiên Bảo thứ 10 đời Ðường Huyền Tông (751) thi đậu tiến sĩ, được bổ làm Hiệu thư lang, đi sứ đất Thục, rồi về thăng làm Khảo công lang. Giữa thời Ðại Lịch, đời Ðường Ðại Tông, làm ...

Trương Đăng Quế 張登桂

Trương Đăng Quế 張登桂 (1793-1865), tự là Diên Phương, hiệu là Đoan Trai hay Quảng Khê Tẩu (ông già Quảng Khê), quê làng Mỹ Khê Tây xã Sơn Mỹ xã Tịnh Khê huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi, quan Đại thần phụ chính nhà Nguyễn, phụng sự trong bốn triều đầu tiên của nhà Nguyễn (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị ...

Tự Đức hoàng đế 嗣德皇帝

Vua Tự Đức 嗣德 (1829-1883) tên thật là Nguyễn Phúc Thì 阮福蒔, còn có tên là Hồng Nhậm, hiệu Dực Tông 翼宗, là hoàng đế thứ 4 của triều Nguyễn. Ông là con thứ hai của vua Thiệu Trị 紹治 Nguyễn Phúc Tuyền 阮福暶, lên ngôi hoàng đế từ năm 1848 cho đến lúc mất vào năm 1883. Ngự chế Việt sử tổng vịnh (1874) - ...

Lương Văn Can 梁文竿

Lương Văn Can 梁文竿 (1866-1927) tự Hiếu Liêm, hiệu là Ôn Như, người làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (nay là huyện Thường Tín, Hà Nội). Ông đậu cử nhân, nên thường gọi là Cử Can, là một trong những người sáng lập và dạy trường Đông Kinh nghĩa thục. Khi thực dân Pháp khủng bố trường, ông bị đày đi Côn ...

Nguyễn Nhược Thị 阮若氏

Nguyễn Nhược Thị 阮若氏 (1830-1909) là con gái Bố chánh Nguyễn Nhược Sơn, sinh năm 1830 và mất 1909 tên thật là Nguyễn Thị Bích, tự Lam Hoàng, người Yên Phước, Bình Thuận, tác giả tập "Loan dư hạnh thục" hay "Hạnh thục ca", kể lại binh biến ở Huế năm 1885 sau đó vua Hàm Nghi xuất bôn xuống hịch Cần ...

Trương Hảo Hợp 張好合

Trương Hảo Hợp 張好合 (?-?) tự Quýnh Xuyên 炯川, hiệu Lượng Trai 亮齋, có sách ghi ông còn hiệu là Mộng Mai 夢梅, người xã Tân Khánh, huyện Tân Long, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Ông thi đỗ cử nhân năm Kỷ Mão, niên hiệu Gia Long thứ 18 (1819) đời vua Nguyễn Thế Tổ. Ông từng làm quan tuần ...

Nguyễn Cao

Nguyễn Cao 阮高 (1837-1887) tên đầy đủ là Nguyễn Thế Cao, hiệu là Trác Phong 卓峰, sinh năm Đinh Dậu (1837) tại làng Cách Bi, huyện Quế Võ. Nguyễn Cao sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học, khoa bảng: thân phụ là Nguyễn Thế Hanh từng đỗ đầu thi Hương, làm Tri huyện các huyện Thạch An, Tiên ...

Nguyễn Hữu Cương

Nguyễn Hữu Cương (1855-1912) tự Tử Thăng, hiệu Mai Hồ, là một nhà cách mạng Việt Nam hoạt động tích cực chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Quê ở làng Động Trung huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình. Ông là con cả của văn thân yêu nước Nguyễn Mậu Kiến. Trước khi Pháp xâm lược các tỉnh Bắc kỳ lần ...

Sương Nguyệt Anh

Nữ sĩ Sương Nguyệt Anh (1864-1921), tên thật có sách chép Nguyễn Thị Khuê, Nguyễn Xuân Khuê, là con gái thứ tư của nhà yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, nên thường gọi là cô Năm, sinh tại làng An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre ngày 21-4-1864. Thuở nhỏ bà thông chữ Hán, sau học thêm chữ quốc ngữ. Năm 24 ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...