18/06/2018, 16:26

Tướng Dwight Eisenhower (1890-1969) Tổng thống thứ 34 của Hoa Kỳ

Phạm Văn Tuấn Ông Dwight D. Eisenhower là một vị tướng cao cấp và vị Tổng Thống thứ 34 của Hoa Kỳ, là nhà lãnh đạo quân sự của các lực lượng Đồng Minh tại châu Âu trong thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai. Tướng Dwight Eisenhower đã là vị Tư Lệnh Tối Cao của Lực Lượng Viễn Chinh Đồng Minh (the ...

eisenhower.jpg

Phạm Văn Tuấn

Ông Dwight D. Eisenhower là một vị tướng cao cấp và vị Tổng Thống thứ 34 của Hoa Kỳ, là nhà lãnh đạo quân sự của các lực lượng Đồng Minh tại châu Âu trong thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai. Tướng Dwight Eisenhower đã là vị Tư Lệnh Tối Cao của Lực Lượng Viễn Chinh Đồng Minh (the Allied Expeditionary Foce), ông đã chỉ huy cuộc đổ bộ lên khu vực bờ biển Normandy thuộc nước Pháp, vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, nhờ vậy các đạo quân Đồng Minh đã đánh bại lực lượng Đức Quốc Xã, khiến cho Đức Quốc Xã phải đầu hàng vào ngày 8 tháng 5 năm 1945.

            Tướng Eisenhower từng có hơn 30 năm kinh nghiệm quân sự nhưng ông đã trải qua hơn 50 năm đầu không nổi tiếng. Ngay cả trong binh chủng Lục Quân, ông Eisenhower đã không được nhiều người biết tới, nhưng từ khi Thế Chiến Thứ Hai xẩy ra, ông Eisenhower đã lên chức với tốc độ khác thường: là một Trung Tá vào năm 1941, ông trở thành vị Đại Tướng 5 sao vào năm 1945.

Vào năm 1950, Tổng Thống Harry Truman đã bổ nhiệm Tướng Dwight D. Eisenhower làm Tư Lệnh các Lực Lượng Bắc Đại Tây Dương (the North Atlantic Treaty Organization Forces) và như vậy, Tướng Eisenhower là nhà lãnh đạo một lực lượng quân sự nhiều quốc gia rất lớn trong thời bình. Tài năng của Tướng Eisenhower là khiến cho nhiều người với quá trình khác nhau, có thể cùng hợp tác với nhau vì mục tiêu chung. Như vậy, ông Eisenhower được kể là một nhà chiến thuật có tài và nhà quản trị hành chính khéo léo.

            Nhiều người trên thế giới đã yêu mến Tướng Eisenhower và thường gọi ông một cách thân mật là “Ike”. Ông Eisenhower là một con người cao và nặng hơn trung bình không nhiều. Ông có chiếc đầu hói, cái trán rộng, miệng rộng và hay tươi cười, dễ dàng bộc lộ tình cảm chân thật và niềm nở. Ông Eisenhower là một nhân vật có đầu óc sắc bén, trật tự, nhưng ông không phải là một nhà trí thức cấp cao, không có cách nhìn sâu xa vào các công việc trọng đại nhưng vẫn có thể phân tích các vấn đề khó khăn và chọn ra cách giải quyết thích hợp.

Khi được bầu làm Tổng Thống Hoa Kỳ vào năm 1952, Tướng Dwight Eisenhower đã chấm dứt cuộc Chiến Tranh Triều Tiên tuy nhiên, trong cả hai nhiệm kỳ từ năm 1953 tới năm 1961, Tổng Thống Eisenhower đã không tạo nên được các thành tích đáng kể về lập pháp lẫn ngoại giao, và nhiều người còn nhớ rằng đây là giai đoạn tương đối yên tĩnh của đất nước Hoa Kỳ. Nhiều người đã yêu mến ông Eisenhower vì các cách cư xử dễ dàng của ông, vì khả năng chịu lắng nghe và sự quan tâm của ông tới phúc lợi của các người khác, vì bản chất thành thực , lòng tử tế và rộng lượng của ông cùng với các cử chỉ bình dân.

1/ Thời Niên Thiếu.

  David Dwight Eisenhower, thường được gọi là Dwight David, chào đời vào ngày 14 tháng 10 năm 1890 tại Denison, tiểu bang Texas. Cha mẹ là ông David Jacob Eisenhower và bà Ida Stover Eisenhower, là hai tín đồ thuần thành của một giáo phái đạo Tin Lành gọi tên là “The River Brethren”. Hai ông bà David và Ida đã gặp nhau khi là sinh viên của Đại Học Lane, điều hành do Nhà Thờ United Brethren tại thành phố Lecompton, tiểu bang Kansas. Họ kết hôn vào năm 1885 và đã được người cha của ông David là một chủ trại giàu có, tặng cho $2,000 và một nông trại rộng 160 mẫu. Nhưng ông David không ưa thích cuộc sống buồn tẻ của nông trại, nên đã bán bất động sản để đầu tư vào một cửa hàng tại thị trấn Hope, trong tiểu bang Kansas. Sau 3 năm, công việc thương mại gặp thất bại, ông David phải di chuyển qua thị trấn Denison, tiểu bang Texas, để lại phía sau người vợ đang mang bầu và đứa con trai nhỏ. Ông David đã làm công nhân đường xe lửa với lương tháng $40 rồi qua năm 1889, đã đưa gia đình qua cùng sinh sống tại Denison.

Cậu Dwight có 2 người anh lớn là Arthur (1886-1958) và Edgar (1899-1971) và 3 người em nhỏ, là Roy (1892-1942), Earl (1898-1968) và Milton (1899-1985). Còn một người em nữa qua đời khi còn nhỏ. Cha mẹ của cậu Dwight có nguồn gốc Đức và Thụy Sĩ, là những di dân tới tiểu bang Pennsylvania vào các năm 1700.

            Khi cậu Dwight còn nhỏ, gia đình Eisenhower di chuyển về thành phố Abilene, tiểu bang Kansas và cha của cậu làm việc trong một hãng sữa còn các con trai trồng rau và làm các công việc vặt để trợ giúp gia đình. Cậu Dwight được đi học và các bạn của cậu gọi cậu là “Ike Nhỏ” (Little Ike) để phân biệt với người anh Edgar, được gọi là “Ike Lớn” (Big Ike). Hai cậu Ike này đã khiến cho các bạn chú ý, nên trong cuốn Sổ Lưu Niệm cuối năm, người ta đã dự đoán rằng Edgar có thể trở nên Tổng Thống còn Dwight sẽ là một giáo sư Lịch Sử.

            Sau khi tốt nghiệp bậc trung học, Dwight làm việc toàn thời gian trong hãng sữa để lấy tiền giúp anh Edgar trả học phí năm thứ nhất đại học và cậu Dwight không có một hy vọng nào sẽ được học lên cao cho đến khi một người bạn khuyên cậu nên nạp đơn vào một trường quân sự bởi vì học viên không phải trả học phí tại nơi học này. Vì vậy, cậu Dwight đã được Thượng Nghị Sỹ Joseph Bristow của tiểu bang Kansas xin cho dự thi vào Hàn Lâm Viện Lục Quân Hoa Kỳ (the U.S. Military Academy) tại West Point, thuộc tiểu bang New York. Trái với ý kiến của cha mẹ là chống chiến tranh, cậu Dwight đã chọn làm một quân nhân vì coi đây là một cơ hội để học hỏi và thực tập kỷ luật. Tại trường West Point, cậu Dwight đã tham gia vào đội bóng bầu dục nhưng vì bị thương nơi đầu gối, cậu đã phải rút lui. Vào năm 1915, cậu Dwight Eisenhower đã tốt nghiệp sỹ quan bộ binh, hạng 61 trên tổng số 164 sinh viên và Bộ Lục Quân đã bổ nhiệm cậu Thiếu Úy này về Fort Sam Houston, gần San Antonio.

2/ Thời Quân Nhân.

            Khi không mắc bận nhiệm vụ tại Fort Sam Houston, Dwight Eisenhower thường làm ông bầu cho vài đội banh. Cũng vào thời gian này, ông gặp cô Mamie Geneva Doud (1896-1979) là một du khách thuộc gia đình giàu có từ miền Denver thuộc tiểu bang Colorado. Eisenhower  bắt đầu làm quen và dẫn cô Mamie tới các nơi họp bạn. Ngày 01 tháng 7 năm 1916, Dwight Eisenhower được thăng cấp Trung Úy, đồng thời cũng làm lễ thành hôn với cô Mamie tại thành phố Denver.

            Gia đình mới này đã có một con trai, đặt tên là Doud Dwight Eisenhower, nhưng đã qua đời khi lên 3 tuổi vì bệnh sốt ban đỏ. Người con trai thứ hai tên là John Sheldon Doud Eisenhower sinh năm 1922, sau này là một sĩ quan Lục Quân tốt nghiệp từ một Học Viện Quân Sự vào đúng ngày Tướng Dwight Eisenhower ra lệnh đổ bộ lên châu Âu. Về sau, ông John Sheldon Eisenhower làm Đại Sứ của Hoa Kỳ tại nước Đan Mạch và vào năm 1968, con trai của ông Sheldon tên là David đã kết hôn với cô Julie Nixon, con gái của Phó Tổng Thống Richard M. Nixon.

            Do ở trong quân ngũ, gia đình Eisenhower đã di chuyển tới nhiều nơi và vào năm 1917, trước khi Hoa Kỳ tham gia vào Thế Chiến Thứ Nhất, ông Dwight Eisenhower được thăng cấp Đại Úy. Ông đã muốn qua châu Âu chiến đấu nhưng vì là một huấn luyện viên giỏi, Quân Đội đã giữ ông lại để điều khiển các chương trình huấn luyện kỹ thuật chiến xa dành cho các sĩ quan Thiết Giáp và binh lính tại trại Colt, thuộc miền Gettysburg, tiểu bang Pennsylvania. Đây là thời kỳ ông Dwight Eisenhower học hỏi được rất nhiều chiến thuật dùng chiến xa và cách thức chuyển hóa các dân sự thành những quân nhân tinh nhuệ. Ông Eisenhower đã được trao tặng Huy Chương Phục Vụ Đặc Sắc (a Distinguished Service Medal) nhưng ông vẫn không có đủ các kinh nghiệm chiến trường.

            Vào năm 1920, ông Dwight Eisenhower được thăng cấp Thiếu Tá rồi qua năm sau, tốt nghiệp trường Thiết Giáp tại Camp Mead, thuộc tiểu bang Maryland. Ông Eisenhower được thuyên chuyển tới Vùng Kênh Đào Panama, vào thời kỳ này còn thuộc quyền kiểm soát của Hoa Kỳ. Ông làm sĩ quan tham mưu cho Lữ Đoàn 20 Bộ Binh và tại Panama, ông đã gặp Thiếu Tướng Fox Conner, là nhân vật đã dạy cho ông rất nhiều về lịch sử quân sự, cũng như bàn thảo nhiều vấn đề quốc tế. Tướng Conner còn cho ông Eisenhower biết rằng một vị đại tá tên là George C. Marshall sẽ có thể điều khiển lực lượng quân sự Mỹ trong trận chiến tranh sắp tới, đây sẽ là một chiến cuộc có tính toán cầu và nhà chiến lược phải suy nghĩ tới toàn thể thế giới mà không phải chỉ nghĩ về một trận tuyến. Về sau này khi đã về hưu từ chức vụ Tổng Thống, ông Dwight Eisenhower còn nói: “Tướng Fox Conner là một người có khả năng nhất mà tôi đã từng quen biết”.

3/ Lãnh các chức vụ tham mưu.

            Vào năm 1925, nhờ sự giúp đỡ của Tướng Conner, Đại Úy Eisenhower được theo học Trường Chỉ Huy và Tham Mưu (the Command and General Staff School) tại Leavenworth, Kansas. Ông đã học tập chăm chỉ nên đã đỗ đầu trong số 275 sĩ quan, đây là những quân nhân đã được huấn luyện kỹ càng về chiến thuật cùng các kỹ năng quân sự khác. Năm 1927, ông Eisenhower đã soạn thảo xong cuốn sách hướng dẫn các trận chiến tại châu Âu trong thời Thế Chiến Thứ Nhất, rồi qua năm sau, 1928, ông tốt nghiệp Học Viện Chiến Tranh (the Army War College) đặt tại Thủ Đô Washington D.C. Vào thời gian này, ông Dwight Eisenhower đã nổi tiếng là một sĩ quan tham mưu xuất sắc, rất tài giỏi về cách soạn thảo các báo cáo và kế hoạch.

            Ông Dwight Eisenhower phục vụ tại Văn Phòng của Thứ Trưởng Bộ Chiến Tranh từ năm 1929 tới năm 1933, đã thực hiện được một kế hoạch dài về cách động viên kỹ nghệ trong trường hợp có chiến tranh lớn xẩy ra. Vào năm 1933, Đại Úy Eisenhower là phụ tá cho Tham Mưu Trưởng của TướngDouglas MacArthur và chính vị Tướng danh tiếng này cũng phải khen ngợi và lệ thuộc vào các tài năng quản trị và khả năng soạn thảo các tài liệu của ông Eisenhower.

            Khi trở nên cố vấn quân sự cho Chính Phủ Phi Luật Tân vào năm 1935, Tướng MacArthur đã yêu cầu Bộ Chiến Tranh cử Thiếu Tá Eisenhower làm sĩ quan phụ tá cao cấp cho mình, và ông Dwight Eisenhower đã trù liệu các kế hoạch phòng thủ cho nước Phi Luật Tân, cũng như soạn thảo ra chương trình thành lập một Học Viện Quân Sự cho chính quyền Phi mới giành được độc lập. Chính trong thời gian phục vụ tại Phi Luật Tân, Thiếu Tá Eisenhower đã học cách lái máy bay quân sự và bay một mình vào năm 1937, khi đó ông đã 47 tuổi.

            Vào  đầu năm 1940, ông Dwight Eisenhower đã mang lon Trung Tá, trở nên sĩ quan tham mưu của Lữ Đoàn 15 Bộ Binh (the 15th Infantry Regiment) đóng tại Fort Ord, thuộc tiểu bang California, rồi qua tháng 3 năm 1940, Trung Tá Eisenhower là Tham Mưu Trưởng của Sư Đoàn 3, đóng tại Fort Lewis, tiểu bang Washington. Qua năm 1941, ông Eisenhower mang lon Đại Tá và là Tham Mưu Trưởng của Tướng Walter Krueger, chỉ huy trưởng Lộ Quân thứ 3 (the 3rd Army) đóng tại Fort Sam Houston.

            Thế Chiến Thứ Hai đã bùng nổ vào năm 1939. Nước Đức, sau này có các nước Ý, Nhật và một số quốc gia thuộc khối Trục, đang đánh nhau với các nước Anh, Pháp và sau này là Liên Xô và Hoa Kỳ. Vào năm 1940, Hoa Kỳ bắt đầu xây dựng các lực lượng quân sự để phòng ngừa bị lôi kéo vào cuộc chiến. Năm 1941, Bộ Lục Quân đã chỉ thị Đại Tá Eisenhower trù liệu một cuộc tập trận dành cho Lộ Quân Thứ Ba tại tiểu bang Louisiana. Trong kỳ luyện tập này, Lộ Quân Thứ Ba đã đánh thắng được lực lượng giả địch, gồm cả sư đoàn xe tăng do một sĩ quan bạn chỉ huy, là ông George S. Patton, Jr. Đây là vị anh hùng trong Thế Chiến Thứ Hai vài năm sau.

            Đại Tá Eisenhower điều hành cuộc thao dượt lớn nhất trong thời bình, đã khiến cho các giới chức cao cấp bên ngoài Quân Đội phải chú ý và sau đó, ông Eisenhower được thăng cấp Chuẩn Tướng (brigadier general) vào tháng 9 năm 1941 và cũng được Tướng George S. Marshall chú ý đến. Vào thời gian này, Tướng Marshall đã thay thế Tướng MacArthur làm Tổng Tham Mưu Trưởng Lục Quân (Army chief of staff).

            Tướng Marshall muốn loại bớt các nhân viên dư thừa và đang tìm kiếm các sĩ quan trẻ, nhiều hăng hái hơn, để gánh vác các công tác chiến tranh, vì thế vào ngày 14/12/1941, Tướng  Marshall đã mời ông Eisenhower tới Thủ Đô Washington D.C. và đặt ông Eisenhower vào Phân Bộ Các Kế Hoạch Chiến Tranh (the War Plans Division), đặc biệt chịu trách niệm Vùng Đông Nam Á. Trong hoàn cảnh này, Chuẩn Tướng Eisenhower đã phải làm việc 7 ngày 1 tuần lễ, mỗi ngày 14 giờ liên tục và đã khiến cho Tướng Marshall rất cảm phục. Tháng 2 năm 1942, Tướng Marshall thăng cấp cho ông Eisenhower lên Thiếu Tướng (major general), đứng đầu Phân Bộ Các Chiến Dịch (the Operations Division). Tới tháng 6 cùng năm, Tướng Marshall gắn thêm 1 ngôi sao cho ông Eisenhower rồi cử Trung Tướng Eisenhower tới London, nước Anh, để chỉ huy các lực lượng quân sự Hoa Kỳ đang hoạt động trên các chiến trường tại châu Âu.

4/ Chỉ huy các chiến trường tại châu Phi và nước Ý.

            Trong các tuần lễ đầu tiên tại London, Tướng Eisenhower đã tham dự các cuộc tranh luận về chiến lược rất lớn lao và quan trọng. Theo lời hướng dẫn của Tướng Marshall, Tướng Eisenhower đã thúc dục Bộ Tham Mưu Phối Hợp CCS (the Conbined Chiefs of Staff) gồm các tướng lãnh hàng đầu của nước Anh và nước Mỹ, nên trù liệu một chương trình đổ bộ lên nước Pháp vào năm 1943, hoặc nếu cần, một cuộc đổ bộ mạo hiểm vào năm 1942 nếu nước Nga bị loại ra khỏi vòng chiến. Nhưng người Anh vào thời bấy giờ lại muốn đổ bộ lên Bắc Phi, một công tác dễ dàng hơn nhưng không mang lại các kết quả đáng kể. Đã có nhiều bất đồng ý giữa các vị tư lệnh Anh và Mỹ về các chiến lược sắp đến trong khi đó Tổng Thống Franklin D. Roosevelt ngả về phía người Anh. Sau đó Bộ Tham Mưu Phối Hợp CCS đã chọn Tướng Eisenhower chỉ huy chiến dịch “Bó Đuốc” (Operation Torch), giao cho ông toàn quyền điều khiển các lực lượng hải, lục và không quân. Đây là đường lối chỉ huy thống nhất, có nhiều quyền hành hơn của Thống Chế Foch đã xử dụng năm 1918 trong cuộc Thế Chiến Thứ Nhất.

            Cuộc đổ bộ lên Bắc Phi bắt đầu vào ngày 8 tháng 11 năm 1942 và các lực lượng của Tướng Eisenhower đã lên bờ gần Casablanca. Tại nơi này, lực lượng của chính phủ Vichy thuộc Pháp đã chống cự. Tướng Eisenhower đã thương lượng với vị tư lệnh Pháp là Đô Đốc Jean Darlan, cho ông này quyền kiểm soát dân sự miền Bắc Phi để đổi lấy sự cộng tác của người Pháp chống lại quân Đức Quốc Xã. Vì Tướng Darlan trước kia đã chống Do Thái và đã cộng tác với quân Đức, nên cách dàn xếp kể trên đã bị phản đối dữ dội, nhưng Tướng Eisenhower đã qua khỏi cơn bão táp do nhấn mạnh rằng việc thương lượng chỉ có tính cách tạm thời và chuyên về mặt quân sự.

            Trên trận địa của châu Âu, Tướng Eisenhower cố gắng tiến quân về phía đông, tới tận xứ Tunisia trước khi quân Đức lập căn cứ tại nơi đây, nhưng cuộc hành quân kể trên đã gặp thất bại. Vào tháng 2 năm 1943, lực lượng Mỹ cũng bị tấn công bất ngờ trong trận Kasserine Pass. Tới tháng 5 năm 1943, tất cả quân đội Đức Quốc Xã tại châu Phi đầu hàng. Tới lúc này, ông Eisenhower được gắn thêm 1 ngôi sao nữa. Đây là cấp bậc cao nhất trong Lục Quân Hoa Kỳ vào thời kỳ đó.

            Đại Tướng 4 sao Dwight Eisenhower đã chỉ huy các lực lượng Hoa Kỳ và cả Lộ Quân thứ 8 (the British Eighth Army) của Tướng Montgomery, nước Anh. Công việc chỉ huy này rất khó khăn. Tướng Eisenhower phải vừa là một nhà ngoại giao, vừa là một người đặt kế hoạch khôn khéo, làm sao tạo nên được sự thống nhất trong số các tướng lãnh của nhiều quốc gia vì các viên tướng này đều ngang bướng và hay nói thẳng.

            Qua tháng 7 năm 1943, hầu như toàn thể bán đảo Ý đều được giải phóng bởi lực lượng Đồng Minh dù cho một số quân đội Đức Quốc Xã đã trốn thoát, trong khi đó, Tướng Eisenhower cũng chỉ huy các thương lượng kín đáo để nước Ý Phát Xít đầu hàng.

            Vào ngày 8/ 9/1943, lực lượng quân sự của Tướng Eisenhower đánh lên Salermo. Quân đội Đức chiếm đóng tại đây đã phòng thủ cẩn thận từ trước trong các miền núi đá, nên tiến bộ rất chậm chạp và trong khi cuộc chiến còn đang tiếp diễn, Tướng Eisenhower được lệnh phải dời khỏi nước Ý, về London để chỉ huy các lực lượng sắp đổ bộ lên bờ biển của nước Pháp.

5/ Điều khiển cuộc đổ bộ lên đất Pháp.

            Vào năm 1943, Hoa Kỳ và Anh Quốc đã thiết lập nên một bộ tham mưu phối hợp để dự trù việc đổ bộ lên châu Âu khi đó còn bị các lực lượng Đức Quốc Xã chiếm đóng. Hai nhân vật được đề nghị đứng ra tổ chức cuộc đổ bộ lớn lao này là Tướng Marshall và Tướng Eisenhower, nhưng Tổng Thống Franklin D. Roosevelt không muốn Tướng Marshall đi xa các công việc chính yếu tại Thủ Đô Washington D.C., vì vậy vào tháng 12 năm 1943, Tổng Thống Roosevelt đã bổ nhiệm Tướng Eisenhower làm chỉ huy tối cao của lực lượng viễn chinh Đồng Minh tại châu Âu.

            Khi Đại Tướng Dwight Eisenhower lãnh nhiệm vụ tại Bộ Tư Lệnh Tối Cao của Lực Lượng Viễn Chinh Đồng Minh SHAEF (Supreme Headquarters, Allied Expeditionary Force), ông nhận thấy mình đang chỉ huy một lực lượng quân sự lớn nhất từ xưa tới nay và lực lượng Đồng Minh này đang trù tính một kế hoạch hành quân gọi là Chiến Dịch Overlord, vượt qua Biển Channel của nước Anh vào đầu tháng 6 để chiếm miền đất Normandy thuộc phía bắc của nước Pháp và đây sẽ là một cuộc tiến chiếm thủy vận lớn nhất trong lịch sử. Vào ngày đầu tiên của chiến dịch, hơn 156,000 người sẽ đánh vào bờ biển với 6,000 tầu thuyền yểm trợ dưới nước và trên không có hàng ngàn máy bay đủ loại tấn công quân Đức. Để tổ chức một lực lượng quân sự quá vĩ đại này, Tướng Eisenhower đã có một bộ tham mưu gồm 16,312 sĩ quan và hạ sĩ quan, sẽ phải phối hợp các lực lượng bộ binh và hải quân của Hoa Kỳ, của nước Anh và các nước Đồng Minh khác, làm sao cho tất cả cùng tiến tới như một sức mạnh vũ bão.

            Trong công tác trọng đại này, Tướng Eisenhower đã trông cậy phần lớn vào hai nhân vật: Tướng Marshall sẽ ủng hộ ông trong suốt chiến dịch và cung cấp mọi yểm trợ không giới hạn từ Thủ Đô Washington D.C., người thứ hai là vị tham mưu trưởng Walter Bedell Smith, còn trên mặt trận đã có Tướng Omar Bradley, một người bạn thân và cũng là sĩ quan tốt nghiệp từ Trường West Point, và Tướng George Patton. Đối với vị chỉ huy lực lượng của nước Anh, Tướng Eisenhower không hợp ý với Tướng Montgomery nhưng ông vẫn kính trọng khả năng của vị tướng Anh này.

            Chiến dịch đổ bộ Overlord đang được trù tính: sự thành công sẽ thùy thuộc tình trạng mặt biển yên tĩnh và mức thủy triều thấp để cho các con tầu đổ bộ lên bờ dễ dàng và nhanh chóng, trong khi bầu trời quang đãng cũng giúp cho các loại máy bay khu trục và ném bom có thể bảo vệ binh lính ở dưới đất.

            Cuộc đổ bộ được dự trù vào ngày 4 tháng 6 năm 1944 nhưng vào ngày mồng 3, thời tiết trở nên xấu đi, mặt biển nổi sóng lớn và nhiều mây dày đặc trên bầu trời. Gió thổi mạnh từng cơn như gào thét trong khi mưa nặng hạt quét các lớp nước liên tục. Một trận bão trên Biển Channel đã khiến cho phải hoãn lại kế hoạch đổ bộ. Chiều ngày mồng 4, nhân viên khí tượng tiên đoán rằng trận bão sẽ dịu đi vào sáng ngày mồng 6, bầu trời sẽ quang đãng trở lại. Nếu cuộc đổ bộ không bắt đầu vào ngày mồng 6 này, cần phải chờ đợi thêm 2 tuần lễ nữa mới có điều kiện nước thủy triều thấp.

            Tướng Eisenhower đã gặp phải một quyết định rất đau đầu. Ông có thể đưa hàng triệu mạng sống vào cơn rủi ro vì thời tiết, còn nếu hoãn cuộc đổ bộ, lực lượng quân sự của ông sẽ mất hẳn đi yếu tố bất ngờ, bởi vì địa điểm đổ bộ đã được trình bày cho hàng ngàn người biết và người Đức chắc chắn sẽ biết tin tức này để mà phản công. Tướng Eisenhower phải có quyết định cuối cùng. Ông tin tưởng ở nhân viên khí tượng, căn cứ vào một tháng theo dõi các lời tiên đoán. Ông hỏi ý kiến các vị chỉ huy mặt trận và ban tham mưu, rồi vào ngày mồng 5, Tướng Eisenhower ra lệnh: “Đồng Ý, Hãy Ra Đi” (OK, let’s go).

            Sáng sớm ngày 6 tháng 6 năm 1944, một ngày đáng ghi nhớ và được gọi là Ngày D (D-Day), bầu trời quang đãng trở lại và sau một ngày tấn công ào ạt các lực lượng phòng thủ của Đức Quốc Xã, các binh lính Đồng Minh đã chiếm được một số vị trí then chốt trên bờ biển Normandy.

            Vào cuối tháng 7 năm 1944, khi các lực lượng Hoa Kỳ đã sẵn sàng tiến về phía thủ đô Paris của nước Pháp thì Tướng Eisenhower lại gặp phải một cuộc bất đồng ý kiến với Tướng Montgomery, chỉ huy trưởng của lực lượng Anh Quốc. Vị Tướng Anh này yêu cầu Tướng Eisenhower dành cho quân lực Anh hiện đang ở cánh bên trái, tất cả tiếp liệu còn lại, để ông ta có thể dẫn quân tiến về phía bắc của nước Đức, trong khi đó Tướng Eisenhower muốn rằng tất cả mọi lực lượng Đồng Minh đều tiến tới trên một trận tuyến rộng lớn với Tướng Bradley điều khiển binh lính ở bên phải. Tướng Montgomery lại cho rằng theo cách tiến quân này Tướng Eisenhower sẽ kéo dài cuộc chiến tranh trong khi đó, Tướng Eisenhower lại quan niệm rằng nếu ông để cho lực lượng Anh một mình tiến sâu vào trong nước Đức, lực lượng này có thể bị cô lập và bị đánh tan bởi quân Quốc Xã trong khi các lực lượng Đồng Minh lại không giữ vững được các hải cảng có nước sâu. Ngoài ra, Tướng Eisenhower nghĩ rằng cũng khó mà kìm giữ quân lực Hoa Kỳ, đặc biệt theo Tướng Patton, tiến chậm bớt khi đánh về phía thủ đô Paris. Trước mặt Thủ Tướng Churchill và Tướng Montgomery, Đại Tướng Eisenhower đã nhấn mạnh rằng cần phải duy trì một mặt trận trải dài theo bề rộng. Ông Eisenhower quả quyết về điều này, bởi vì ông đã tin tưởng vào sự yểm trợ hết lòng của Tướng Marshall ở thủ đô Washington D.C.

            Vào cuối mùa thu năm 1944, các lực lượng Đồng Minh cạn dần tiếp liệu, mặc dù họ có thể đẩy quân đội Đức Quốc Xã ra khỏi nước Pháp, nhưng họ chưa thể tiến sâu vào địa phận nước Đức. Vào tháng 12 năm 1944, quân Đức bắt đầu tổng phản công tại miền Ardennnes, và trong trận đánh Bulge (the Battle of the Bulge), quân lực của Tướng Eisenhower đã đập tan nát toàn bộ lực lượng quân Đức sau một trận giao chiến xuất sắc.

            Sau chiến thắng vẻ vang kể trên, Thủ Tướng Anh Churchill muốn rằng Tướng Eisenhower tiến quân về thủ đô Berlin và chiếm giữ thành phố này cho đến khi người Nga chịu nhượng bộ về nước Ba Lan và các điều kiện chính trị khác liên quan đến các vấn đề hậu chiến của các nước Đông Âu. Tướng Eisenhower lại nhấn mạnh rằng trước kia đã có các thỏa ước giữa các chính phủ Đồng Minh về việc phân chia nước Đức thành các vùng chiếm đóng và chia thành phố Berlin thành các khu vực kiểm soát trong đó có khu vực thuộc quyền của người Nga. Nếu bây giờ, quân lực Hoa Kỳ đánh chiếm thành phố Berlin, số thiệt hại có thể lên tới 100,000 lính Mỹ tử vong rồi sau đó vẫn phải trả lại khu vực đã ấn định cho quân đội Liên Xô. Ngoài ra, Tướng Eisenhower còn tin rằng không thể có số quân Đồng Minh đủ lớn để tiến vào thủ đô Berlin trước quân đội Liên Xô. Sau đó, Tướng Eisenhower đã phái quân lực Hoa Kỳ đánh xuống miền nam của nước Đức. Sự bất đồng ý kiến kể trên giữa các tướng lãnh Đồng Minh đã là một sự việc rất căng thẳng và hiện nay, người ta còn tranh luận về quyết định này của Tướng Eisenhower.

            11 tháng sau ngày Đổ Bộ lên bờ biển Normandy, nước Đức Quốc Xã đã phải đầu hàng không điều kiện vào ngày 8 tháng 5 năm 1945. Ông Eisenhower nhận được một cấp bậc mới, là Đại Tướng 5 sao. Một cuộc tiếp rước tưng bừng đã chào đón ông tại Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 1945. Đại Tướng Dwight Eisenhower đã đứng đầu các lực lượng Đồng Minh chiếm đóng nước Đức trong 6 tháng rồi trở về thủ đô Washington D.C. Ông đã theo dõi một chương trình giải ngũ quân đội Mỹ để các quân nhân trở về đời sống dân sự của thời bình nhưng ông cũng muốn việc giải giới này tiến hành chậm chạp để giữ cho quốc gia vững mạnh. Ông Eisenhower đề nghị động viên tất cả thanh niên 18 tuổi nhưng ý kiến này không được ủng hộ.  Ông đã đọc nhiều bài diễn văn liên quan tới vấn đề quốc phòng và ngồi viết hồi ký. Tướng Eisenhower cũng muốn về hưu để sống một đời dân sự yên tĩnh nhưng đất nước Hoa Kỳ còn cần tới tài năng của ông, nên ông được đề nghị thay thế Tướng Marshall làm Tổng Tham Mưu Trưởng của Quân Lực Hoa Kỳ. Ông muốn tất cả quân lực của Hoa Kỳ sẽ được thống nhất dưới một hệ thống chỉ huy nhưng các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự đã chống đối cách hợp nhất này. Năm 1947, Quốc Hội Hoa Kỳ đã thông qua một dự án dung hòa, chấp nhận sự việc chỉ có một bộ trưởng quốc phòng.

            Tướng Eisenhower về hưu khỏi Quân Đội vào năm 1948 và trở nên Viện Trưởng của Trường Đại Học Columbia tại thành phố New York. Ông dành thời giờ để viết một cuốn sách kể lại các kinh nghiệm trong thời chiến của ông, cuốn sách có tên là “Cuộc Thánh Chiến tại Châu Âu” (Crusade in Europe, 1948) và ông rất ngạc nhiên khi cuốn sách này trở thành tác phẩm bán chạy nhất (a best seller).

            Vào cuối thập niên 1940, phần lớn các quốc gia Đông Âu đều nằm trong tầm kiểm soát của chính quyền Cộng Sản do Liên Xô lãnh đạo. Kết quả của sự việc này là các quốc gia cùng với Hoa Kỳ và Gia Nã Đại đã hợp tác với nhau vào năm 1949 để lập nên Tổ Chức Minh Ước Bắc Đại Tây Dương, gọi tắt là NATO (the North Atlantic Treaty Organization). Năm 1950, Tổng Thống Harry S. Truman yêu cầu Tướng Eisenhower lãnh chức vụ chỉ huy tối cao các lực lượng NATO tại châu Âu và ông Eisenhower đã vui vẻ nhận nhiệm vụ tạo dựng một đạo quân quốc tế gồm các quân nhân thuộc nhiều quốc gia.

6/ Trên đường tiến tới Tòa Nhà Trắng.

            Vào tháng 6 năm 1950, quân Bắc Triều Tiên được Liên Xô trang bị võ khí, đã vượt qua biên giới và xâm lăng Nam Triều Tiên. Tổng Thống Truman bèn gửi quân đội Mỹ qua Nam Triều Tiên, là một thành phần của lực lượng quân sự Liên Hiệp Quốc, để chống lại quân xâm lăng từ phía bắc. Sự việc quân đội Hoa Kỳ tham dự vào cuộc chiến đã được nhiều dân biểu và thượng nghị sĩ Cộng Hòa ủng hộ. Nhưng các vị Cộng Hòa Bảo Thủ, được gọi là Nhóm Già Bảo Thủ (the Old Guard), đứng đầu do Thượng Nghị Sĩ Robert A. Taft, thuộc tiểu bang Ohio, lại muốn Hoa Kỳ rút lui khỏi cuộc chiến bởi vì khu vực này sớm trở thành một nơi bế tắc đẫm máu.

            Như vậy vào thời bấy giờ, người dân và các vị dân cử Hoa Kỳ đã bị chia rẽ sâu xa vì vấn đề chiến tranh Triều Tiên. Tướng Eisenhower không đồng ý với Thượng Nghị Sĩ Taft và nhóm bảo thủ của ông này, bởi vì ông Eisenhower tin tưởng rằng Hoa Kỳ không thể sống trong hòa bình và tự do mà lại tránh né các vấn đề xẩy ra tại các nơi khác trên thế giới. Nhiều nhà lãnh đạo đảng Cộng Hòa thúc dục Tướng Eisenhower ra ứng cử Tổng Thống Hoa Kỳ vào năm 1952, lấy cớ rằng chỉ có ông Eisenhower mới có thể đoàn kết hai khối bảo thủ và cấp tiến, có thể giải quyết các vấn đề làm chia rẽ đất nước. Các người thuộc đảng Dân Chủ cũng muốn Tướng Eisenhower làm ứng viên Tổng Thống bởi vì danh tiếng của ông và cũng vì ông Eisenhower không dính mắc vào hoàn cảnh bất hòa của các đảng phái. Lúc đầu, Tướng Eisenhower đã từ chối đề nghị kể trên. Ông đã gửi một bức thư vào năm 1948 cho một tờ báo tại New Hampshire, xác nhận rằng các người lính chuyên nghiệp phải tránh việc mưu cầu các chức vụ cao trong chính quyền và ông cũng không muốn chống lại các đường lối của Tổng Thống Truman bởi vì chính ông là người đã phác thảo ra các chính sách phòng thủ.

            Tuy nhiên, Tổng Thống Truman đã chọn việc không ra tái tranh cử, ngoài ra trên toàn quốc Hoa Kỳ đã có các hội gọi tên là Hội Ike (Ike Clubs) ủng hộ Tướng Eisenhower. Trước hoàn cảnh này, ông Eisenhower đã rút lui khỏi Quân Đội mà không hưởng quyền lợi vào tháng 6 năm 1952, chấp nhận làm ứng viên Tổng Thống cho đảng Cộng Hòa bởi vì ông cho rằng các chính sách của đảng Dân Chủ đề cao quyền lực của chính quyền trung ương.

            Vào năm 1952, Thượng Nghị Sĩ Robert A. Taft là ứng viên dẫn đầu của đảng Cộng Hòa, nhưng tại Đại Hội Đảng tổ chức ở Chicago, ông Henry Cabot Lodge, Jr. và các đảng viên Cộng Hòa cấp tiến khác, đã giúp ông Eisenhower thắng trong lần bỏ phiếu thứ nhất. Sau đó, một thượng nghị sĩ trẻ tuổi thuộc tiểu bang California là ông Richard Nixon được chọn làm ứng viên Phó Tổng Thống. Phía đảng Dân Chủ, họ đã chọn ông Thống Đốc Adlai E. Stevenson thuộc tiểu bang Illinois, làm ứng viên Tổng Thống và Thượng Nghị Sĩ John J. Sparkman, thuộc tiểu bang Alabama, làm ứng viên Phó Tổng Thống.

            Cuộc tranh cử bắt đầu tiến hành chậm chạp. Ông Eisenhower đã dùng rất hữu hiệu một phương tiện truyền thông mới, là truyền hình, để biến các cuộc vận động tranh cử thành các đám rước lớn, rầm rộ. Tại các nơi, mọi người đã đón chào ông Eisenhower và ca tụng lòng ái quốc của ông, họ hy vọng nơi ông một chính quyền trong sạch và chống lại chủ nghĩa cộng sản. Ông Eisenhower cũng lên tiếng chỉ trích cách giải quyết chiến tranh Triều Tiên của Tổng Thống Truman, ông hứa hẹn với cử tri: “Tôi sẽ đi Triều Tiên” để giúp vào công việc chấm dứt chiến tranh.

            Sự liêm chính và tư cách của ông Eisenhower đã được dân chúng Hoa Kỳ vào thời kỳ đó đánh giá cao hơn là tầm vóc trí thức của ứng viên Stevenson. Kết quả của cuộc bầu cử Tổng Thống năm 1952 là ông Eisenhower đã thắng ông Stevenson dễ dàng, với 442/ 89 phiếu cử tri đoàn. Về phiếu phổ thông, tỉ lệ là 33,937,252 trên 27,314,992 hay thắng 55 % phiếu và sau kỳ bầu cử này, đảng Cộng Hòa đã kiểm soát được cả hai Viện thuộc Quốc Hội.

7/ Nhiệm kỳ thứ nhất của Tổng Thống Dwight D. Eisenhower (1953-1957).

            Ông Dwight D. Eisenhowr đắc cử chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ với cả hai ưu và khuyết điểm: ông có tài về cách quản trị hữu hiệu, hiểu rõ vấn đề đối ngoại nhưng thiếu kinh nghiệm khi phải đối phó với các vấn đề quốc nội. Ông Eisenhower đã chọn lựa những nhân vật có khả năng mà ông tin cậy, để ủy thác nhiều quyền hành, chọ họ chịu trách nhiệm từng khu vực của chính quyền. Ông Eisenhower tuyên bố: “Thật là sai lầm nếu cho rằng tất cả khôn ngoan đều thuộc về vị Tổng Thống, là tôi”, và ông tin tưởng rằng nhiều vấn đề khó khăn nên được giải quyết tại các địa phương hơn là chờ quyết định của chính quyền liên bang.

            Không lâu sau khi ông Eisenhower ngồi tại Tòa Nhà Trắng, Bộ Y Tế, Giáo Dục và An Sinh (the Department of Health, Education and Welfare) được thành lập, đứng đầu là bà Oveta Culp Hobby và sự bổ nhiệm này đã nâng tổng số nhân vật trong nội các lên 10 vị.

            Các mục tiêu quốc nội đầu tiên của Thổng Thống Eisenhower là cân bằng ngân sách, giảm bớt thặng dư nông phẩm bằng cách hạ bớt phần yểm trợ giá, giảm bớt các chi phí của chính quyền trung ương, đặt ra chương trình lòng trung thành (the loyalty program) kiến cho bớt đi các cuộc điều tra về sự nghi ngờ cộng sản của Thượng Nghị Sĩ McCathy. Về đối ngoại, Tổng Thống Eisenhower nhấn mạnh tới sự hợp tác chặt chẽ với các quốc gia đồng minh.

            Vào năm 1956, chính quyền trung ương đã đạt được một số thặng dư nhỏ, quân đội Hoa Kỳ được tổ chức lại với nhiều võ khí mới về nguyên tử. Quốc Hội cũng thông qua một số cải cách ngân sách, hệ thống thuế được xét lại, hệ thống an sinh xã hội được mở rộng và tiền lương tối thiểu được tăng lên là 1 mỹ kim 1 giờ.

            Tổng Thống Eisenhower cũng chấp thuận nhiều công trình công cộng tốn kém nhiều tỉ mỹ kim, trong số này có Hải Lộ St. Lawrence (the St. Lawrence Seaway), bắt đầu khởi công vào năm 1954 và hoàn thành vào năm 1959. Hệ thống xa lộ liên bang (the interstate highway system) cũng được bắt đầu vào năm 1956 nhưng dự án về một đập nước trên giòng sông Colorado bị chỉ trích nhiều và đã bị bác bỏ.

            Từ năm 1950, Thượng Nghị Sĩ Joseph R. McCathy, thuộc tiểu bang Wisconsin, đã đứng đầu một tiểu bang trong Quốc Hội Hoa Kỳ, để tìm kiếm các người cộng sản nằm vùng trong chính quyền. Ông McCathy đã tố cáo – không có bằng cớ – rằng có nhiều gián điệp cộng sản nằm trong Bộ Ngoại Giao và trong Quân Đội, và ông cũng muốn cấm đoán các sách mà ông cho rằng đã do các người cộng sản viết ra. Ông McCathy đề nghị loại bỏ một số sách nằm trong các thư viện của Bộ Ngoại Giao.

            Vào tháng 6 năm 1953, trong một bài diễn văn đọc tại Đại Học Dartmouth, Tổng Thống Eisenhower đã khuyến cáo các thính giả trẻ “đừng theo các kẻ đốt sách” (Don’t join the book burners) nhưng vì tư cách của vị Tổng Thống, ông Eisenhower không chỉ trích công khai ông McCathy. Các hành động thái quá của ông McCathy đã khiến cho Thượng Viện phải kiềm chế ông này, rồi vào tháng 12 năm 1954, đã lên án ông McCathy là có những hành vi không thích hợp với một vị thượng nghị sĩ. Do vậy, ảnh hưởng của ông McCathy dần dần suy giảm.

            Một khó khăn khác gây ra do một vị trong Nhóm Già Bảo Thủ (the Old Guard) là Thượng Nghị Sĩ John W. Bricker, thuộc tiểu bang Ohio, đòi hỏi rằng các hiệp ước mà Tổng Thống ký kết phải có sự chấp thuận của Thượng Viện Hoa Kỳ. Tổng Thống Eisenhower đã phản đối mọi biện pháp làm giảm đi quyền hạn của một vị Tổng Thống khi thực hành các chính sách đối ngoại và kết quả là các vị Thượng Nghị Sĩ ủng hộ Tổng Thống Eisenhower đã phủ quyết đề nghị kể trên.

            Vào nhiệm kỳ đầu của Tổng Thống Eisenhower, một cuộc suy thoái kinh tế nhẹ đã xẩy ra và nhiều người quy trách nhiệm này là do các chính sách tiền tệ của ông George M. Humphrey, vị Bộ Trưởng Ngân Khố theo Đảng Cộng Hòa. Đảng Cộng Hòa cũng mất phần kiểm soát hai Viện thuộc Quốc Hội vào cuộc bầu cử giữa khóa của năm 1954, và cho tới cuối nhiệm kỳ thứ nhất, Tổng Thống Eisenhower đã phải làm việc với một Quốc Hội kiểm soát do Đảng Dân Chủ, đây là tình trạng khó khăn khi cần có các chương trình được sự ủng hộ của Quốc Hội.

            Vào tháng 12 năm 1952 khi tranh cử, ông Eisenhower có hứa hẹn với cử tri Hoa Kỳ rằng ông sẽ chấm dứt cuộc Chiến Tranh Triều Tiên rồi một tháng sau khi đắc cử, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã đến thăm chiến trường Triều Tiên, nhưng cuộc đình chiến đã không được thực hiện ngay sau đó mà phải chờ tới ngày 27/ 7/1953 mới có đình chiến thực sự. Sự việc này một phần do cái chết của Stalin và một phần cũng do phe Cộng Sản e ngại quân lực Hoa Kỳ sử dụng tới sức mạnh nguyên tử.

            Cũng vào thời kỳ này, Tổng Thống Eisenhower đã dùng Cơ Quan Trung Tâm Tình Báo CIA (the Central Intelligence Agency) thực hiện các hoạt động ngầm chống lại các chính phủ được phe Cộng Sản yểm trợ và cơ quan kể trên vào giữa thập niên 1950, đã giúp công vào việc lật đổ các chính quyền tại Guatemala và Iran.

            Trong bài diễn văn đọc tại Liên Hiệp Quốc vào tháng 12 năm 1953, Tổng Thống Eisenhower khuyên thế giới nên dùng sức mạnh nguyên tử vào mục đích hòa bình. Các đại biểu Liên Hiệp Quốc đã vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt với mức độ chưa từng thấy tại Sảnh Đường Liên Hiệp Quốc, rồi sau đó, Cơ Quan Nguyên Tử Năng Quốc Tế (the International Atomic Energy Agency) đã được phát triển theo đề nghị của Tổng Thống Dwight D. Eisenhower.

            Về đối ngoại, tuy Tổng Thống Eisenhower quy định các kế hoạch với nhiều hy vọng kết thúc cuộc Chiến Tranh Lạnh, nhưng các chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ hầu như do Ngoại Trưởng John Foster Dulles thi hành và ông Dulles thường có các lập trường và biện pháp cứng rắn với chế độ Cộng Sản.

            Tổng Thống Dwight Eisenhower cũng thành công trong việc khiến cho nước Áo thoát khỏi cảnh bị chiếm đóng sau Thế Chiến Thứ Hai bởi bốn cường quốc và nền độc lập của nước này được phục hồi vào năm 1955.

            Sau cái chết của Joseph Stalin vào tháng 3 năm 1953, các liên lạc ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Liên Xô dần dần được cải thiện. Vào tháng 7 năm 1955, các nhà lãnh đạo của Hoa Kỳ, Liên Xô, Anh và Pháp, đã tới dự cuộc họp thượng đỉnh tổ chức tại Geneva, Thụy Sĩ, và trong dịp này, Tổng Thống Eisenhower đề nghị một cuộc thỏa thuận gọi là “mở rộng bầu trời” (Open Skies) theo đó Hoa Kỳ và Liên Xô cho phép các máy bay kiểm soát các căn cứ quân sự , nhưng Liên Xô đã từ chối đề nghị kể trên, rồi sau cuộc hội nghị các ngoại trưởng được thực hiện vào tháng 10 năm 1955, hai phe Hoa Kỳ và Liên Xô đã xa cách nhau hơn trong các vấn đề cụ thể, rồi  thái độ thật thà của Tổng Thống Eisenhower trước các vấn đề đối ngoại đã khiến cho Liên Xô dần dần xâm nhập vào vùng Trung Đông.

            Không lâu sau đó, Liên Xô bắt đầu viện trợ quân sự cho xứ Ai Cập và quốc gia này đã gây chiến với nước Do Thái mà không tuyên chiến. Ai Cập cũng đòi hỏi Hoa Kỳ phải viện trợ cho họ để xây dựng một đập nước lớn tại Aswan trên giòng sông Nile và khi Hoa Kỳ từ chối, Ai Cập đã nhận viện trợ từ Liên Xô. Sau đó không lâu, Tổng Thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser đã quốc hữu hóa Kênh Đào Suez nên vào ngày 29/10/1956, ba nước Anh, Pháp và Do Thái đã tấn công Ai Cập để chiếm lại kênh đào này bởi vì đây là thủy lộ nối liền miền Địa Trung Hải với Hồng Hải và cũng là con đường vận chuyển dầu hỏa từ các miền Trung Đông. Trước sự việc này, chính quyền của Tổng Thống Eisenhower đã từ chối ủng hộ 3 nước đồng minh cũ kể trên và ra lệnh ngưng ngay các khoản tiền dự tính cho nước Anh vay, và tại Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ kêu gọi một cuộc ngưng bắn. Trong bài diễn văn tại nơi này, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã nói: “Không thể có luật pháp nếu duy trì một hành động quốc tế cho nước bạn, khác với cho kẻ thù”. Vì vậy hai nước Anh và Pháp đã bất bình trước lời nói kể trên và khi quân đội Liên Hiệp Quốc tới Kênh Đào Suez, liên quân Anh Pháp đã dần dần rút lui và cuộc xâm lăng Ai Cập kể trên chấm dứt.

            Vào tháng 9 năm 1955, trong kỳ nghỉ hè trên rặng núi Rocky Mountains thuộc tiểu bang Colorado, Tổng Thống Dwight Eisenhower bị một cơn đau tim (a heart attack). Ông đã sớm bình phục nhưng vẫn phải nằm bệnh viện trong tháng 8, vào kỳ sinh nhật thứ 65, rồi qua tháng 12 thì ông trở lại Thủ Đô D.C. Vấn đề bị đau tim của ông Eisenhower đã gây ra các câu hỏi liệu Tổng Thống Eisenhower còn đủ sức khỏe để ra tranh cử nhiệm kỳ hai không? Vì không tìm ra người đủ kinh nghiệm để thay thế mình nên vào tháng 2 năm 1956, ông Eisenhower đã tuyên bố sẽ ra tranh cử nhiệm kỳ hai. Ông bắt đầu vận động tranh cử nhưng vào tháng 6 năm đó, ông lại bị rối loạn đường ruột (an intestinal disorder = ileitis), cần phải giải phẫu. Tình trạng này khiến cho các bạn của ông và các người đối lập nghi ngờ ông có thể gánh vác các trọng trách?

            Vào cuộc bầu cử năm 1956, đảng Dân Chủ đã chọn ông Adlai Stevenson làm ứng viên Tổng Thống và Thượng Nghị Sĩ Estes Kefauver, thuộc tiểu bang Tennessee, làm ứng viên Phó. Ông Eisenhower chọn ông Richard M. Nixon, một thượng nghị sĩ thuộc tiểu bang California, đứng chung liên danh. Vào dịp này, đảng Dân Chủ đã không chỉ trích đích danh ông Eisenhower mà mô tả vị Tổng Thống đương nhiệm là một người vui vẻ, ngây thơ trước các vấn đề chính trị quốc tế, trong khi ông Richard Nixon bị coi là người theo chủ thuyết McCathy và có thể làm phục hồi cách săn lùng những kẻ bị nghi ngờ là cộng sản.

            Ông Eisenhower đã vận động tranh cử bằng hình ảnh của một nhân vật phục vụ không vì tư lợi và ông kêu gọi mọi người không thuộc đảng phái nào hãy ủng hộ ông. Cách giải quyết cuộc khủng hoảng tại Kênh Đào Suez của Tổng Thống Eisenhower và sự phục hồi sức khỏe của ông đã làm cho các cử tri Hoa Kỳ tin tưởng nơi ông nhiều hơn và họ đã bỏ phiếu để ông Eisenhower thắng lợi lớn hơn kỳ trước: ông Eisenhower đoạt được 41 tiểu bang và 457 phiếu cử tri đoàn trong khi ông Stevenson chỉ thắng tại 7 tiểu bang và thu được 73 phiếu cử tri đoàn. Về phiếu bầu phổ thông, ông Eisenhower dẫn trước với 35,589,477 phiếu so với 26,035,504 phiếu của ông Stevenson. Sau cuộc bầu cử này, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã được tín nhiệm vẻ vang nhưng đảng Cộng Hòa của ông lại thua sút, không thể kiểm soát được một trong hai Viện của Quốc Hội.

8/ Nhiệm kỳ thứ hai của Tổng Thống Dwight Eisenhower (1957- 1961).

            Trong thời gian phục vụ quân đội, Tướng Eisenhower đã phải đưa gia đình di chuyển qua nhiều nơi khác nhau nhưng khi đã đắc cử vào Tòa Nhà Trắng, giai đoạn 8 năm là thời gian dài nhất mà gia đình ông Eisenhower lưu ngụ tại một nơi. Vào năm 1950, ông Eisenhower mua một nông trại tại Gettysburg, thuộc tiểu bang Pennsylvania, đây là căn nhà sở hữu đầu tiên của gia đình ông.

            Ông Eisenhower có thú tiêu khiển là đánh golf. Những khách qua đường đôi khi trông thấy Tổng Thống Eisenhower đánh banh trong sân cỏ của Tòa Nhà Trắng. Ông cũng ưa thích nấu ăn và thường hay mời các bạn bè lại dùng thứ thịt nướng trên bếp than hồng ngoài trời.

            Trong nhiệm kỳ thứ hai, Tổng Thống Eisenhower đã gặp vấn đề rắc rối là phạm vi nhân quyền. Ông vẫn mong muốn chấm dứt tình trạng kỳ thị màu da đối với các người Mỹ da đen nhưng ước mong sự chấm dứt này theo trật tự và thận trọng. Vào tháng 9 năm 1957, tại thành phố Little Rock thuộc tiểu bang Arkansas, Thống Đốc Orval E. Faubus đã coi thường lệnh của Tòa Án Liên Bang, đã dùng quân Cảnh Vệ Quốc Gia (the Arkansas National Guard) ngăn cản không cho phép các học sinh da đen vào học cùng trường với các học sinh da trắng. Vì vậy, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã phải ra lệnh đặt quân Cảnh Vệ Quốc Gia dưới quyền kiểm soát của Liên Bang và gửi Sư Đoàn Không Vận Lục Quân thứ 101 (the 101st Airborne Division) tới Little Rock để bắt nhà chức trách địa phương thi hành theo lệnh của Tòa Án và bảo vệ các học sinh da đen. Trong bài diễn văn đọc trên truyền hình, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã cắt nghĩa rằng ông đã hành động như vậy để phòng ngừa các rối loạn sẽ xẩy ra thêm.

Vào ngày 4 tháng 10 năm 1957, Liên Xô đã phóng đi vệ tinh nhân tạo Sputnik 1. Đây là vệ tinh đầu tiên được đặt vào quỹ đạo của trái đất. Tiếp theo, ngày 3 tháng 11 năm 1957, Liên Xô lại thành công khi đưa lên không gian vệ tinh Sputnik 2, nặng hơn vệ tinh trước, lại mang theo con chó Laika. Sự việc kể trên đã khiến cho Liên Xô thắng hơn Hoa Kỳ về mặt kỹ thuật và danh dự của người dân Hoa Kỳ đã bị tổn thương vì họ vẫn thường tự hào về phương diện khoa học. Người dân Hoa Kỳ còn e sợ rằng Liên Xô sẽ dùng các hỏa tiễn tầm xa, đủ mạnh, để bắn tới lục địa Bắc Mỹ. Để đối phó lại, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã phải ủng hộ hai đề án tốn kém, đó là chương trình bắt kịp Liên Xô về Kỹ Thuật Không Gian và chương trình thứ hai là chính quyền Liên Bang phải giúp các trường học phát triển giáo dục khoa học. Kết quả là vào ngày 31 tháng 1 năm 1958, vệ tinh đầu tiên của Hoa Kỳ Explorer I, đã bay vòng quanh trái đất và từ nay, bắt đầu một cuộc chạy đua trên không trung.

            Cũng vào đầu nhiệm kỳ thứ hai, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã gặp phải các khủng hoảng tại vùng Trung Đông và châu Á. Vào năm 1957, Tổng Thống Eisenhower đã đề nghị giúp đỡ tài chính và quân sự cho các nước Trung Đông nào chống lại phe Cộng Sản, và chính sách này được gọi là Chủ Thuyết Eisenhower (the Eisenhower Doctrine), đã được Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận. Vào tháng 7 năm 1958, một cuộc cách mạng theo cánh tả (a left-wing revolution) đã xẩy ra tại Iraq, nên Tổng Thống Eisenhower đã phải gửi quân đội Mỹ tới nước Lebanon để bảo vệ chính phủ thân phương Tây của xứ sở này. Sự can thiệp của Hoa Kỳ đã khiến cho hòa bình được vãn hồi và bảo vệ được các quyền lợi dầu mỏ của Hoa Kỳ trong vùng Trung Đông. Quân đội Mỹ sau đó đã rút lui vào tháng 10 năm đó. Một rắc rối khác xẩy ra tại xứ Venezuela khi Phó Tổng Thống Richard Nixon thăm viếng thiện chí xứ này, tại Caracas. Ông Nixon đã bị đám đông dân chúng thù nghịch tấn công và suýt gặp nguy hiểm tới tính mạng.

            Qua tháng 8 năm 1958, tại châu Á, Trung Cộng bắt đầu pháo kích hai đảo Quế Môn (Quemoy) và Mã Tổ (Matsu) do quân đội Đài Loan chiếm đóng. Tổng Thống Eisenhower đã ra lệnh cho Hải Quân Hoa Kỳ hộ tống các đoàn tầu tiếp tế từ Đài Loan cho hai hòn đảo kể trên. Sự giúp đỡ trực tiếp này đã chấm dứt các đe dọa của Trung Cộng đối với Đài Loan.

            Trong nhiệm kỳ thứ hai, Tổng Thống Dwight Eisenhower đã cố gắng liên lạc thiện cảm với các nhà lãnh đạo Dân Chủ tại Quốc Hội và trong phần lớn sự việc, Tổng Thống đã thành công. Tuy nhiên, ông Eisenhower cũng gặp phải buồn phiền khi các nhà điều tra Hạ Viện khám phá ra rằng vị phụ tá chính của Tổng Thống là ông Sherman Adams đã nhận các quà tặng từ một thương gia bông vải của thành phố Boston, đồng thời cũng là một kẻ chạy chọt (a lobbyist). Kết quả sau cùng là ông Adams đã phải từ chức vào tháng 9.

            Trong hai năm 1958 và 1959, một cuộc suy thoái kinh tế đã xẩy ra: tỉ lệ thất nghiệp tăng lên tới 7.3 % vào tháng 7/1958 và mặc dù kinh tế có chiều hướng phục hồi vào mùa thu năm 1958 này, nhưng sự kiện kể trên đã khiến cho đảng Dân Chủ thắng lớn trong các cuộc bầu cử giữa khóa vào tháng 11 năm 1958.

            Sau khi Stalin qua đời, Thủ Tướng Liên Xô là ông Nikita Khrushchev đã đồng ý nối lại liên lạc ngoại giao với Hoa Kỳ. Ông Khrushchev đã viếng thăm Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 1959. Đây là cuộc viếng thăm Hoa Kỳ đầu tiên của một nhân vật hàng đầu của Liên Xô. Thủ Tướng Khrushchev cũng hẹn gặp Tổng Thống Eisenhower tại cuộc họp thượng đỉnh tổ chức tại thành phố Paris vào năm sau, 1960, nhưng vào tháng 5 của năm này, trước khi Tổng Thống Eisenhower lên đường qua Paris, Liên Xô đã bắn rơi một phi cơ do thám U-2 của Hoa Kỳ vì phi cơ này có nhiệm vụ chụp hình các căn cứ quân sự của Liên Xô. Tại Paris, Thủ Tướng Khrushchev đòi hỏi Hoa Kỳ phải xin lỗi về sự việc kể trê

0