18/06/2018, 16:26

Từ Liên Xô đến nước Nga

Phạm Văn Tuấn I. Đấu Tranh Giai Cấp Tại Liên Xô 1. Kế Hoạch 5 Năm Lần Thứ Nhất Sau khi Lenin qua đời vào ngày 21/1/1924 và trong dịp các nhân vật thuộc Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Liên Xô khênh chiếc quan tài của vị Đại Lãnh Tụ, rất ít nhân vật kể trên biết rằng Đại ...

small_253233.jpg 

Phạm Văn Tuấn

I. Đấu Tranh Giai Cấp Tại Liên Xô

1. Kế Hoạch 5 Năm Lần Thứ Nhất

Sau khi Lenin qua đời vào ngày 21/1/1924 và trong dịp các nhân vật thuộc Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Liên Xô khênh chiếc quan tài của vị Đại Lãnh Tụ, rất ít nhân vật kể trên biết rằng Đại Lãnh Tụ Lenin đã để lại một di chúc. Đối với Lenin, Trotsky là con người có khả năng nhưng quá tự tin, Bukharin không phải là mẫu người Mác Xít còn về Stalin, tức là vị Tổng Bí Thư Đảng trong 3 năm vừa qua, Lenin đã nói rằng: Stalin thì quá tàn bạo, khuyết điểm này có thể tha thứ trong cách đối xử của những người Cộng Sản bình thường, nhưng không thể tha thứ đối với người nắm giữ chức vụ của Văn Phòng Tổng Bí Thư Đảng. Vì vậy tôi đề nghị các đồng chí cứu xét một cách nào loại Stalin ra khỏi chức vụ và chỉ định chức Tổng Bí Thư Đảng cho một người khác kiên nhẫn hơn, trung thành hơn, lịch sự hơn và tôn trọng các đồng chí khác hơn, người đó ít thay đổi bất thường…

Sau đó bà vợ của Lenin là Nadezhda Krupskaya đã đưa tài liệu di chúc cho Ủy Ban Trung Ương Đảng. Stalin đã xin từ chức nhưng các đồng chí cao cấp đều bác bỏ đề nghị này. Trong vài năm sau đó, phần lớn các đồng chí cao cấp kể trên đều bị mang ra xử bắn vì đã lưu trữ một tài liệu phản cách mạng: cái gọi là di chúc của Lenin

Trong cuộc Cách Mạng Cộng Sản, nhiều đảng viên đã hoàn toàn trung thành với Đảng dù cho thiếu hẳn đi tính dân chủ và người đảng viên phải hy sinh tất cả vì sự thống nhất Đảng và cũng vì vậy mà từ lúc ban đầu, các nhà chính trị xã hội Nga đã coi Lenin là kẻ độc tài. Ngay cả Trotsky đã từng nói rằng Đảng luôn luôn phải, luôn luôn đúng vì người ta không thể chống lại Đảng. Do gồm các đảng viên đã được chọn lựa cẩn thận, những người tận tụy với Đảng vì niềm tin rằng Đảng Cộng Sản lãnh đạo giai cấp vô sản tới toàn thắng, đảng Cộng Sản của Lenin đã tạo ra được một nguồn sức mạnh chính trị vượt trội. Những người Bôn-Xê-Vích của thời kỳ ban đầu đã ủng hộ niềm tin này và chính nhờ căn bản trung thành tuyệt đối với Đảng mà Stalin củng cố quyền hành rồi sau đó hàng triệu đảng viên trung kiên khác đã phải hối hận. 

Stalin không phát minh ra bộ máy Đảng thư lại nhưng nhờ Stalin, hàng ngàn đảng viên mới được thăng thưởng và họ đã trung thành tuyệt đối đối với Stalin và giúp cho viên Tổng Bí Thư này quyền hành vô hạn. Sau khi Lenin qua đời, Stalin chia quyền với hai Bí Thư Đảng của hai thành phố lớn là Grigory Zinoviev của Leningrad và Lev Kamenev của Moscow. Sự cộng tác này kéo dài cho tới khi Trotsky bị loại ra khỏi Bộ Chính Trị rồi sau đó, Stalin mới quay về hai đối thủ cũ, nắm trọn quyền hành, tức là thứ mà Lenin trước kia không muốn giao phó.

Vào ngày 7/11/1927, ngày kỷ niệm thứ 10 của Cuộc Cách Mạng Vô Sản, Trotskty tổ chức tại thành phố Moscow một cuộc biểu tình phản đối các chính sách của Stalin, nhưng cuộc biểu tình này đã bị các công an chìm của cơ quan mật vụ OGPU dẹp tan. Vị anh hùng Trotsky của Hồng Quân khi trước đã bị đánh đập tàn nhẫn, bị ném lên xe lửa và tống khứ đi miền Kazakhstan xa xôi. Stalin tố cáo Trotsky, một người tận tụy với lý tưởng Cộng Sản, là đã thông đồng với nhà độc tài Quốc Xã Adolf Hitler và bọn quân phiệt Nhật Bản để làm hại Liên Xô. Rồi từ năm 1934, cuộc thanh trừng nội bộ của Stalin bắt đầu với vụ ám sát Sergei Kirov, bí thư đảng của thành phố Leningrad. Sau đó, nhiều đối thủ của Stalin, kể cả Kamenev, Zinoviev, Rykov, Bukharin… và những kẻ chỉ bị nghi ngờ, đều bị bắt giam và hỏi cung bởi cơ quan mật vụ NKVD rồi sau đó bị xét xử. Vào năm 1936, Zinoviev và Kamenev bị kết tội phản bội và đều bị xử bắn. Tomsky cũng bị ra tòa và phải tự sát. Năm 1938 tới lượt Rykov và Bukharin chết trước đội hành quyết. Nhiều cựu đồng chí của Lenin đã được ân sủng bằng một phát đạn vào sau óc! 

Khi nắm vai trò lãnh tụ Đảng, Stalin cho rằng thời giờ quý báu đã bị phí phạm, tin rằng người Cộng Sản nên từ bỏ giấc mơ cổ xưa về một cuộc cách mạng toàn cầu, nên nhà độc tài này công bố chương trình xây dựng xã hội chủ nghĩa trong một quốc gia. Stalin nói: Chúng ta ở sau các quốc gia tiền tiến 50 hay 100 năm. Chúng ta phải bắt kịp khoảng cách này. Như vậy kể từ năm 1928, một cuộc Cách Mạng Cộng Sản thứ hai đã tới với đất nước Liên Xô, quét đi hàng triệu mạng sống. Stalin lên án đường lối bình đẳng về lương bổng, bỏ quan niệm cho công nhân quyền kiểm soát nhà máy và công bố rằng mỗi nhà máy phải do một giám đốc quản trị. Viên bí thư của Stalin là Lazar Kaganovich nói rằng nhà máy sẽ rung chuyển khi viên giám đốc đi qua! 

Vào năm 1928, Kế Hoạch 5 Năm Lần Thứ Nhất (the First Five-Year Plan) được trình cho Bộ Chính Trị, với mục tiêu phải sản xuất mọi thứ cần thiết cho một nền kỹ thuật tiến bộ đặt căn bản trên nền móng kỹ nghệ nặng. Các đảng viên cao cấp đã thảo luận về kế hoạch này. Những người chống đối bị coi là chủ bại. Thế rồi hàng triệu công nhân được vận chuyển tới các khu vực xây dựng kỹ nghệ. Họ sống trong các căn lều tạm bợ, chia nhau giường nằm theo ca ngủ để xây dựng nên nhà máy luyện kim lớn bậc nhất thế giới tại Magnitogorsk của miền núi Urals, khu kỹ nghệ Kuznetsk thuộc miền Siberia, và còn có nhiều khu kỹ nghệ khác như Krivoy-Rog, Kurk và Gornaia-Shoril chuyên về mỏ sắt, Krasnoiarsk, Irkutsk và Novosibirsk chuyên về thép và kỹ nghệ nặng, các nhà máy sản xuất máy nông nghiệp tại Chelyabinsk, Frunze, Pavlodar và Omsk,  đập thủy điện vĩ đại Dnieprostroy trên giòng sông Dnieper… Hoàn cảnh làm việc của công nhân và chuyên gia không đủ ăn, không đủ mặc, rất gian khổ, chẳng hạn các công nhân tại miền thảo nguyên Siberia phải thức dậy lúc 6 giờ sáng, làm việc trong thời tiết lạnh 45 độ âm. Các chỉ tiêu được đặt ra cho mọi ban ngành và khi không đạt được các mức ấn định đó thì giới công nhân không có ăn và giới quản lý bị hạ tầng công tác hoặc bị tù đầy, còn các chỉ tiêu khi hoàn thành chỉ được đền bù bằng các lời khen thưởng miệng hoặc các mảnh giấy chứng nhận. 

Các giám đốc nhà máy không những chỉ cạnh tranh với nhau để đạt mục tiêu quá lạc quan mà còn cố gắng làm gấp bội mục tiêu đó. Để vượt mức chỉ tiêu, nhiều giám đốc đã dùng các thủ đoạn như chặn bắt các đoàn xe tải, ăn cắp tiếp liệu đang thiếu chở trên các toa xe lửa… những thủ đoạn này được thi hành vì họ e ngại rằng nếu không đạt mục tiêu, họ sẽ bị xét xử là phá hoại. Thế nhưng các phiên tòa xét xử các kẻ phá hoại vẫn diễn ra. 53 kỹ sư trong đó có 3 người Đức bị tố cáo làm hư hỏng dụng cụ, gây ra các tai nạn, duy trì liên lạc với các tên tư bản chủ nhân cũ của các mỏ than Shakhty trong miền Donbas. Phiên tòa được mở ra trong một sảnh đường lớn (the Hall of Columns) của thành phố Moscow với tiếng hò hét tử hình dành cho các kẻ phá hoại. Trong số những người lớn tiếng đòi tử hình này, có con trai 12 tuổi của một bị cáo. Sau đó 5 bị cáo bị đem ra bắn bỏ. 

Stalin nói rằng các kẻ phá hoại như bọn Shakhtyites này hiện đang nằm sâu trong mọi ngành kỹ nghệ của chúng ta…, cách phá hoại bởi bọn tư sản là một trong các hình thức chống đối nguy hiểm nhất đối với Xã Hội Chủ Nghĩa đang phát triển. Kể từ nay hàng ngàn kỹ sư và các chuyên viên tư sản bị bắt, bị giam cầm, bị làm dê tế thầncho những khó khăn, những thất bại, là lý do để cắt nghĩa cảnh thiếu thốn bánh mì, thịt nguội… Thực ra, sự thiếu thốn thực phẩm này là do các chính sách sai lầm của chính quyền cộng sản. 

Đồng thời với chương trình kỹ nghệ hóa là cuộc đấu tranh giai cấp đối với giới nông dân. Cuộc cách mạng kỹ nghệ thường đòi hỏi một khối lượng lớn công nhân và lớp người này được tuyển mộ từ nông thôn. Như vậy trong Kế Hoạch 5 Năm Lần Thứ Nhất, 17 triệu nông dân được chuyển từ nông thôn về thành phố, họ là những người dân ít học, nghèo đói, bị xô đẩy để trở nên giai cấp công nhân mới của đất nước Liên Xô. Chín phần mười số nông dân này chỉ có trình độ 3 năm tiểu học. Giám đốc cơ xưởng máy kéo Stalingrad đã thấy công nhân đo chính xác bằng gang tay. Tại cơ xưởng Elektrozavod ở Moscow, một máy tiện của Mỹ trị giá $25,000 mỹ kim bị bỏ xó vì không ai biết xử dụng hay sửa chữa các hư hỏng nhỏ. 

Trong hoàn cảnh này, người công nhân Nga xông vào nền Kỹ Nghệ như xông ra trận. Để quảng cáo, chính quyền Nga đã đưa ra các vị anh hùng lao động. Một người thợ mỏ vùng Ukraine tên là Alexei Stakhanov được ca ngợi đã đào được 102 tấn than trong một quy định 7 tấn. Thực ra, đây là một cách lường gạt vì các người bạn của Alexei đã làm giúp anh ta rất nhiều công việc phụ. Alexei Stakhanov đã được Stalin gắn huân chương và được quảng cáo khắp nơi với khẩu hiệu Không một thành trì nào mà người Bôn-Xê-Vích không thắng nổi. 

Các thành tích tương tự như của anh hùng lao động Alexei Stakhanov được báo chí khắp nơi nói tới, ca ngợi hết lời trong khi các điều kiện làm việc của người công nhân thật sự rất khốn khổ, nhiều khi rất nguy hiểm. Thế nhưng các người công nhân không được phép phản đối vì nghiệp đoàn là công cụ của chính quyền, họ chỉ bất tuân lệnh một cách thụ động bằng cách làm việc cầm chừng, sản xuất ra các món hàng xấu, không đạt phẩm chất, họ lẩn trốn việc làm… Vì thế các luật lệ mới được đặt ra. Các kẻ vắng mặt trong cơ xưởng bị trừng trị. Kể từ năm 1930, một hệ thống giấy phép đi đường được áp dụng theo đó không một người dân một tỉnh này được phép đi qua tỉnh khác nếu không có giấy phép di chuyển của công an. 


2. Đấu tranh giai cấp
 

Tại nông thôn kể từ cuộc Cách Mạng Tháng Mười, đã có rất ít các công trình tập thể, hàng triệu nông dân bỏ ruộng đất, về thành phố làm công nhân khiến cho không còn người sản xuất ra thực phẩm. Kết quả là hàng triệu người chết đói. Giới nông dân là giai cấp mà Đảng Cộng Sản không bao giờ tin tưởng và Lenin đã nói vào năm 1917 rằng giới nông dân sẽ trở về với lối sống tư sản khi mà làn sóng cách mạng đã đi qua! 

Nông dân Nga được chia ra làm ba hạng: nghèo hay bần cố nông, trung nông vàkulak hay phú nông. Giới bần cố nông rất nghèo, không có tài sản, phải làm mướn cho chủ đất để kiếm sống nên theo lý thuyết Mác Xít, lớp người này là đồng minh của giới công nhân và của Đảng. Giới trung nông sản xuất đủ ăn cho chính họ còn giớiphú nông vào thời trước cuộc Cách Mạng, là những người cho vay tiền trong làng xã. Họ là những người bị coi là đã bóc lột các kẻ khác, thế nhưng không có tài liệu chính thức dùng cho sự phân chia ba giai cấp nông dân này. Các  đảng viên cộng sản đã tranh luận về cách xác định một người kulak hay phú nông là hạng người có 2 con bò hay 3 con bò, và người kulak đó đã mướn người làm công trong bao nhiêu ngày một năm. Ngoài ra còn có loại kulak có ý thức hệ (ideological kulak) và thật là khó khăn khi phải xác định kẻ thù của giai cấp. Thế nhưng, Stalin đã phát động một phong tràođấu tranh giai cấp và người cộng sản phải nhận diện ra các kẻ thù của giai cấp vô sản

Tại nước Nga trước cuộc Cách Mạng Cộng Sản, hai phần ba thực phẩm sản xuất do các phú nông và các địa chủ. Sau cuộc Cách Mạng thành công, giới địa chủ và phú nông đã bị loại đi, các nông dân tầm thường chỉ làm ra một số lượng nhỏ lương thực và họ ăn hết số lượng này, không còn phần dư cho các giới khác. Vào năm 1928, các thành phố của Liên Xô bắt đầu đói! Khủng hoảng thực phẩm đã làm cho giới lãnh đạo cộng sản cao cấp phải bàng hoàng. Bộ Chính Trị đồng thanh biểu quyết các biện pháp khẩn cấp. Hàng ngàn thanh niên thành phố được di chuyển về nông thôn, hợp tác với các thanh niên cộng sản địa phương, họ họp thành các toán đi kiểm kê, lục lọi, xâm chọc các vựa lúa, các đống rơm… là những nơi bị nghi ngờ cất dấu ngũ cốc của nông dân. 

Andrean Chernenkov sống trong làng Don Cossak thuộc Starocherkassk, là một thanh niên đánh cá của một gia đình nghèo. Anh ta đã tham gia vào toán thanh niên cộng sản đi lục lọi và đã nhớ lại rằng chúng tôi qua làng bên cạnh để xâm chọc tìm thực phẩm, khi trở về nhà đêm hôm đó, tôi thấy mẹ tôi đang khóc ngất. Bà nói con ở đâu từ nãy đến giờ. Trong khi con đi khỏi, bọn chúng tới nhà ta, ăn cướp hết ngũ cốc và bây giờ nhà ta chẳng còn gì ăn. 

Trước các vụ lục soát nông phẩm, nông dân đã phản kháng. Họ đã chôn lúa dưới đất, dấu trong các đống rơm, bán lúa gạo lén lút, đốt bỏ hoặc ném thực phẩm xuống sông vì giận dữ. Đã xẩy ra nhiều vụ hôi của, mất trật tự và làm loạn. Hàng ngàn đảng viên và người chỉ điểm bị ám sát. Các nông dân nào không theo đúng các quy định của nhà nước Liên Xô đều bị mất quyền đi bầu, mất quyền sở hữu và quyền canh tác đất đai. Vào năm 1929 tại Liên Xô, các thành phố thiếu lúa mì và thịt, người dân phải sống theo chế độ phân phối thực phẩm. Người ta đổ lỗi cho người dân đã chống lại Nhà Nước bằng hai mặt trận lúa gạogia súc trong khi đó các báo chí nói về chương trình tập thể ruộng đất (mass collectivisation) mà mục tiêu là giới nông dân. 

Nikolai Bukharin là người chống đối Stalin về lý thuyết, đã nói: Ông ta sẽ làm cho những kẻ nổi dậy chết chìm trong biển máu. Ngày 27/12/1929, nhân dịp được các báo chí Liên Xô ca tụng Stalin là nhà Mác Xít vĩ đại bậc nhất, chưa từng thấy, Stalin đã tuyên bố rằng chúng ta phải triệt tiêu giới phú nông kulak… Chúng ta phải đánh chúng thật mạnh sao cho chúng không đứng lên nổi

Trong công tác tiêu diệt giới phú nông kulak, một báo cáo của công an ghi vào tháng 2/1930, mô tả rằng tại vùng Smolensk, các đảng viên cấp thấp đã duy trì khẩu hiệuăn, uống hết, tất cả là của chúng ta. Các kẻ đi đánh phá giới phú nông đã ăn uống tại chỗ mọi thực phẩm mà chúng kiếm được, chúng tước bỏ giầy dép nơi bàn chân trẻ em, lột bớt quần áo và chiếm đoạt tài sản của cha mẹ các em nhỏ. Một ông già dùng máy ảnh chụp cảnh nhà bị tan nát sau lần đánh tư sản này, ông ta đã bị bắt và bị bắn bỏ ngay chiều hôm đó. Trước các cảnh tượng này, một đảng viên cộng sản trẻ đã phải thốt lên: chúng ta không còn là con người nữa, chúng ta là súc vật!. Đã có hàng ngàn hoàn cảnh tương tự như kể trên. Các phú nông bị đánh tư sản đã bị chuyên chở tới các khu vực xây dựng kỹ nghệ bằng các chuyến xe lửa có ghi là than trắng

Vào mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng Sản Liên Xô công bố rằng một nửa dân chúng nông thôn đã được tập thể hóa nhưng thực ra tại miền quê, tình trạng rối loạn vẫn tiếp tục. Người ta cho rằng đã có 14 triệu trâu bò và một phần ba số heo trên toàn quốc đã bị giết do chủ nhà vì họ không muốn tặng không cho các nông trường tập thể. Thảm cảnh vẫn là kết quả của cách tập thể hóa cưỡng bách. Tại rất nhiều địa phương, người dân chết đói hàng loạt. Người ta ăn chuột, côn trùng và vỏ cây. Người dân đào lên các con ngựa chết đã bị đem chôn. Da giầy được xay thành bột. Tại các khu vực Kiev, Kharkov, Dniepropetrovsk và Odessa, vào mỗi buổi sáng có các xe tải đi lượm xác người chết đói. Có nhiều câu chuyện rùng rợn về ăn thịt người và thịt người được bán ngoài chợ. Các người sắp chết bị kéo về gần các hố lớn, chờ chôn tập thể. Đôi khi cán bộ giúp đỡ miếng ăn cho người sắp chết đói thì bị chỉ trích là làm phí phạm bánh mì và cá

Tại miền Kazakhstan thuộc Trung Á, chương trình tập thể hóa đã khiến cho dân chúng địa phương giết đi hàng triệu súc vật và hàng ngàn người trốn qua biên giới Trung Hoa. Cũng có hàng ngàn người khác chạy lên các thảo nguyên bao la và rồi bị chết đói. Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Liên Xô đã trù liệu tiêu diệt từ 5 tới 6 triệu phú nông kulak nhưng nhiều đảng viên cộng sản địa phương đã làm quá tiêu chuẩn này nên về sau, Stalin đã nói với Churchill rằng chương trình diệt phú nông(dekulakization) đã tiêu diệt 10 triệu người. Từ nay, có hàng triệu con người hoạt động trong các trại lao động cải tạo để thực hiện các công trình kỹ nghệ rất lớn lao như đào kênh, khai thác gỗ rừng, đào hầm mỏ trong miền Siberia băng tuyết. Nhà văn Ilya Ehrenburg đã viết về giới phú nông như sau: không có ai trong bọn họ có tội gì cả nhưng họ thuộc vào một giai cấp bị coi là phạm đủ thứ tội

Mặc cho người dân chết đói, chính quyền Liên Xô vẫn xuất cảng thực phẩm. Trên nhiều cánh đồng, khoai tây chất thành đống và để cho hư thối trong hàng rào dây kẽm gai. Tại một số vựa lúa, người dân Nga nhìn thấy chồng chất các bao lương thực, họ đã xông vào ăn cướp chẳng hạn như vào tháng 5 năm 1933 tại Sahaydaky. Những người này hoặc bị bắn bỏ, hoặc bị cầm tù bởi vì trong cuộc đấu tranh giai cấp, cứu cánh biện minh cho phương tiện. Lev Kopolev là một thanh niên dùng que sắt đi xâm chọc vựa lúa của dân chúng vào thời gian đó, về sau trở thành nhà văn bất đồng chính kiến, đã phải viết và thú nhận rằng mùa xuân năm 1933 thực là khủng khiếp. Tôi nhìn thấy hàng ngàn người đói, kể cả đàn bà và trẻ em, da bọc xương, mắt không hồn… thế nhưng mục tiêu lớn lao của chúng tôi là chiến thắng toàn cầu của chủ nghĩa Cộng Sản và vì mục tiêu này, mọi phương tiện đều đáng làm, kể cả nói dối, ăn cướp, tiêu diệt hàng ngàn và ngay cả hàng triệu nhân mạng

Hơn 5 triệu người dân miền Ukraine và một phần tư dân số miền Kazakhstan đã bị chết vì nạn đói, và còn các nạn nhân thuộc nhiều vùng đất khác. Giới nông dân đã là một mục tiêu của Stalin trong phong trào đấu tranh giai cấp./.      

II. Joseph Stalin (1879 – 1953) Tên Đồ Tể Của Liên Xô

1. Léon Trotsky   

Buổi chiều ngày 20 tháng 8 năm 1940, Léon Trotsky tiếp một người trẻ mà ông đã quen biết từ lâu, tên là Frank Jackson, tại căn nhà của ông ở gần thành phố Mexico. Trời mùa hè tại xứ Mễ Tây Cơ rất nóng nực nhưng Jackson vẫn mặc một áo choàng dài.    

Sau một câu chuyện ngắn lúc 5 giờ 30 chiều, khi Trotsky quay người đi, chăm chú lục tìm vài giấy tờ thì Jackson rút từ trong áo choàng ra một chiếc búa sắc, bổ thẳng vào sau óc nhà Đại Cách Mạng Cộng Sản người Nga. Nghe thấy tiếng la thất thanh, các cận vệ của Trotsky vội nhào tới, tóm chặt được kẻ sát nhân. Trong lúc gần bất tỉnh, Trotsky còn cố gắng bảo cận vệ: Đừng giết nó. Hãy bắt nó khai.    

Léon Trotsky được chở ngay tới bệnh viện cấp cứu. Trong lúc hấp hối, ông đã thều thào lời cuối cùng: Tôi sắp chết vì cú đánh của một kẻ sát nhân chính trị…  Hãy nói lại với bạn bè của chúng ta… Tôi tin chắc ở vinh quang… Hãy tiến lên.…    

Tin Léon Trotsky bị giết đã bay tới Joseph Stalin ở cách xa vài ngàn dậm. Kẻ sát nhân là một điệp viên của Liên Xô, theo lệnh của Stalin, đã lần theo dấu vết của Trotsky, đạt được sự tin cẩn và đã ám hại một kẻ dám thách đố quyền lực, đối đầu với nhà độc tài Nga tại Điện Kremlin, nhà lãnh đạo phong trào Cộng Sản Quốc Tế.   

Léon Trotsky tham gia đảng Cộng Sản Bolshevik hơi trễ, vào tháng 6 năm 1917, nhưng là một con người thông minh, tháo vát và có tài, nên chẳng bao lâu đã trở nên một nhân vật thân cận với Lenin. Do biệt tài về quân sự, Trotsky đã tổ chức thành công đạo Hồng Quân, quét sạch các lực lượng phản cách mạng Bạch Vệ trong cuộc Nội Chiến Nga, đẩy lui các thế lực ngoại quốc gồm các nước Anh, Pháp, Nhật, Hoa Kỳ và Tiệp Khắc. Léon Trotsky đã từng nắm giữ chức Ủy Viên Ngoại Vụ và Ủy Viên Chiến Tranh. Ông ta là biểu tượng của tinh thần Cách Mạng Cộng Sản Nga, là lý tưởng của giới trẻ, đầy nhiệt huyết. Trotsky cũng tự hào về sự xuất sắc của mình, về lòng tận tụy đối với chế độ Cộng Sản, nhưng ông ta là một người thiếu niềm nở, thiếu lòng trắc ẩn đối với kẻ khác. Ông ta thường chỉ trích các kẻ kém thông minh, kém tận tụy hơn mình.   

Ngày 21 tháng 01 năm 1924, Vladimir Ilyich Lenin qua đời. Các đồng chí thân cận nhất của Lenin tụ họp tại Điện Kremlin để từ biệt lần cuối người Cha của cuộc Cách Mạng Cộng Sản Nga. Trong số các nhân vật của Bộ Chính Trị hay cơ quan điều hành Đảng Cộng Sản Nga, người ta thấy có mặt: Grigori Zinoviev, bí thư đảng của thành phố Petrograd, nơi mà sau này đổi thành Leningrad; Lev Kamenev, bí thư dảng của thành phố Moscow; Alexei Rykov, nguyên chủ tịch Hội Đồng Kinh Tế Tối Cao, Nikolai Bukharin, lý thuyết gia của Đảng kiêm chủ nhiệm; và Joseph Stalin, Tổng Bí Thư Đảng. Một nhân vật sáng chói, rất quan trọng, lại không có mặt vào lúc quan trọng này: Léon Trotsky. Các bác sĩ điều trị trước đó đã yêu cầu Trotsky nghỉ ngơi tại tỉnh điều dưỡng Sukhumi, bên bờ biển Hắc Hải.    

Léon Trotsky bị các đồng chí Bộ Chính Trị không ưa do cá tính và cũng do đường lối chính trị của ông. Hai năm về trước, nước Nga đã thực hiện được một phần công cuộc ổn định kinh tế bằng cách chấp nhận vài thay đổi nhỏ trong lý thuyết Cộng Sản, cho phép người dân dùng một hình thức tư bản ở tầm cỡ thấp. Đây là một số chính sách ôn hòa, được áp dụng sau cuộc Nội Chiến tàn phá, sau khi xã hội bị rối loạn. Các nhà lãnh đạo Bộ Chính Trị e sợ rằng Trotsky với bản tính cứng rắn, đầy lý tưởng, sẽ không chấp nhận bất cứ sự nhân nhượng nào về hình thức kinh tế tư bản, mà lại muốn thực hiện thật nhanh việc tập thể hóa nông nghiệp và quốc hữu hóa mọi kỹ nghệ quốc gia. Các nhân vật lãnh đạo chính quyền Nga kể trên muốn cùng nhau tước bỏ quyền hành của Trotsky trước khi ông này ra tay.    

Để chứng tỏ Léon Trotsky thiếu quan tâm tới Đảng và Đất Nước, vắng mặt trong ngày lễ an táng Lenin trọng đại, Stalin đã gửi một điện văn cho vị Bộ Trưởng Chiến Tranh trong đó có đại ý như sau: Vì tình trạng sức khỏe của đồng chí, toàn thể Bộ Chính Trị nghĩ rằng đồng chí nên tiếp tục tĩnh dưỡng tại Sukhum…  Vì lễ an táng nhằm ngày 26-1, đồng chí chắc sẽ không trở về kịp. Thực ra, buổi lẽ an táng đó được trù liệu vào ngày 27.   

Léon Trotsky sinh năm 1879 tại Ukraine, có cha mẹ giòng dõi Do Thái với họ là Bronstein. Năm 1900, ông đã bị đi đầy tại Siberia vì các hoạt động cách mạng nhưng sau đó, ông đã vượt thoát ra khỏi nước nhờ làm một thông hành giả mang tên Trotsky. Năm 1905, Trotsky tìm cách trở lại nước Nga nhưng rồi cũng phải bỏ chạy ra nước ngoài. Đầu năm 1917, Trotsky tới thành phố New York, Hoa Kỳ, làm chủ nhiệm tờ báo có tính xã hội tên là Novy Mir (Thế Giới Mới). Khi cuộc Các Mạng Cộng Sản Nga bùng nổ, Trotsky trở về nước Nga, phục vụ Lenin, đã nắm giữ các chức vụ quan trọng như ủy viên ngoại giao, ủy viên chiến tranh, lãnh đạo Hồng Quân Liên Xô rồi khi Lenin qua đời, một cuộc tranh giành quyền lực đã xẩy ra giữa Trotsky và Stalin.   

Năm 1929, Trotsky bị thua trước Stalin, phải bỏ nước Liên Xô, đi sống lưu vong và cuối cùng tới cư ngụ tại Mễ Tây Cơ. Trotsky đã viết ra nhiều cuốn sách, lên án chế độ độc tài cai trị của Stalin. Một số sách của Trotsky đã được dịch qua tiếng Anh như cuốn Cuộc Cách Mạng bị phản bội (The Revolutioln Betrayed-1937). Các cuốn sách khác gồm: Bào chữa cho đường lối khủng bố (Defense of Terrorism-1921), Lenin(1925), Cuộc đời của tôi (My Life-1930) và Lịch sử Cuộc Cách Mạng Nga (The History of the Russian Revolution-1932).  

2. Joseph Stalin   

Stalin ra đời vào ngày 21 tháng 12 (theo lịch cũ) năm 1879 tại Gori, một thị trấn gần thành phố Tbilisi thuộc tiểu bang Georgia là một miền núi ở phía tây nam của nước Nga. Tên thật của Stalin là Iosif Vissarionovich Djugashvilli. It người được biết về tuổi trẻ của Stalin. Cha của Stalin là ông Vissarion Ivanovich Djugashvilli, một người thợ giầy, được lối xóm biết đến là một gã hay say rượu, thường đánh đập con. Mẹ của Stalin là bà Ekaterina Ghedadze Djugashvilli, một nông dân thất học, sùng đạo, làm nghề giặt quần áo để phụ giúp gia đình. Gia đình Djugashvilli sống trong một căn nhà cũ, chật hẹp. Ba người con đầu đã chết sau khi sinh, nên Stalin là con duy nhất còn sống sót. Khi Stalin còn trẻ, người cha bỏ gia đình, tới ngoại ô thành phố Tbilisi, làm việc trong một xưởng đóng giầy rồi chết vào năm 1891. Cậu Iosif khi lên 6 hay 7 tuổi, đã bị bệnh đậu mùa khiến cho trên mặt có các đốm rỗ.   

Do sự cố gắng của bà mẹ, năm 1888, Stalin được gửi theo học trong 5 năm tại một trường học nhỏ, thuộc nhà thờ tỉnh Gori. Stalin tỏ ra là một học sinh xuất sắc nên sau đó được học bổng, theo học một chủng viện tại thành phố Tbilisi vào tuổi 14. Tại nơi học mới này, Stalin giỏi về đọc sách, tranh luận và chăm chỉ, nhưng cũng được các bạn cùng lớp nhớ lại sau này là một con người ganh ghét, ít khi tha thứ cho kẻ nào chống đối lại mình.   

Stalin đã theo học tại chủng viện cuả Nhà Thờ Chính Thống Giáo xứ Georgia và trong thời gian này, đã lén lút đọc các sách bị cấm đoán, nói về cuộc Cách Mạng Pháp, đã tìm hiểu nhiều truyện của Victor Hugo, mô tả các tình trạng xã hội của nước Pháp và đã đọc cả các tài liệu của Karl Marx, một nhà triết học xã hội cấp tiến người Đức. Vào thời kỳ này, có ít người biết tới lý thuyết cách mạng của Karl Marx nhưng các tập sách mỏng viết về Mácxít đã được các người lưu vong từ Moscow và St. Petersburg mang đến Tbilisi và các tỉnh nhỏ.   

Năm 1894, Sa Hoàng Alexander III qua đời, kế nghiệp là Sa Hoàng Nicholas II (trị vì 1894-1917), là người muốn tiếp tục các chính sách đàn áp bao gồm việc nghiêm ngặt kiểm duyệt báo chí, lùng bắt và hành hạ các nhà hoạt động chính trị, tước bớt quyền hành của chính quyền điạ phương, ngược đãi các sắc dân và tôn giáo thiểu số. Mặc dù nước Nga thời đó đã tiến bộ một phần nào về kinh tế và kỹ thuật nhưng không thể giải quyết được các vấn đề xã hội. Hàng triệu người thiếu ăn, nông dân đòi hỏi có thêm đất đai, giới công nhân tại thành thị bất mãn vì lương bổng thấp với giờ làm việc dài.   

Năm 1898, Stalin tham gia vào nhóm cách mạng Mácxít bí mật trong tu viện và vào thời gian này, các tài liệu cộng sản được lén lút trao đổi tại nhiều loại trường học thuộc thành phố Tbilisi. Tháng 5 năm 1899, Stalin bị đuổi khỏi trường vì đã phổ biến các tư tưởng cách mạng. Sau khi rời khỏi chủng viện, Stalin xin được một chân thư ký tại Sở Nghiên Cứu Vật Lý Địa Chất và trong vòng một năm, Stalin đã giúp công rất nhiều vào việc tổ chức cuộc biểu tình Tháng 5 gần Tbilisi để phản đối các tình trạng làm việc của công nhân. Tháng 3 năm 1901, mật vụ của Sa Hoàng đã lùng bắt một số người theo đảng xã hội tại Tbilisi và Stalin đã thóat khỏi cuộc bố ráp. Stalin đành từ bỏ việc làm, tham gia vào phong trào cách mạng Mácxít và để tránh bị bắt giữ, ông ta đổi tên là Koba, tên một vị anh hùng trong truyền thuyết của xứ Georgia.   

Tháng 9 năm 1901, Stalin được đọc các bài cách mạng do Lenin viết ra nên cũng bắt chước, viết ra các bài báo có cùng quan điểm với Lenin cho tờ báo Mácxít của xứ Georgia có tên là Brdzola (Tranh Đấu). Tháng 11 năm 1901, Stalin được bầu vào Ủy Ban của Đảng Công Nhân Dân Chủ Xã Hội Nga (the Russian Social Democratic Workers Party). Stalin đã thực hiện nhiều hoạt động cách mạng bí mật tại miền núi Caucasus, dưới nhiều tên giả: David, Soso, Chiijikov, Nijeradze, Ivanovich. Ông cũng tổ chức được nhiều cuộc đình công của giới công nhân tại vùng mỏ dầu Batum, giúp công vào việc thiết lập một nhà in nhỏ tại nơi này và thành lập nhóm dân chủ xã hội.   

Stalin bị bắt và bị tống giam vào năm 1902 vì các hoạt động cách mạng. Tháng 3 năm 1903, nhiều nhóm dân chủ xã hội của miền Caucasus đã hội họp lại để lập nên Liên Đoàn Xứ Caucasus (All-Caucasian Federation) và mặc dù Stalin vắng mặt, Liên Đoàn vẫn bầu Stalin vào ủy ban điều hành. Tháng 11 năm 1903, Stalin bị tống đi dầy tại Siberia và cũỉng vào năm 1903 này, Đảng Lao Động Dân Chủ Xã Hội Nga, nơi bao gồm nhiều tổ chức dân chủ xã hội, đã bị phân chia làm 2 nhóm chính: Lenin đứng đầu nhóm Bolshevik (có nghĩa là đa số), chủ trương kỷ luật chặt chẽ, rút ngắn giai đoạn tư sản, có ủy ban trung ương chỉ huy và ấn định các đườỉng lối cùng kiểm soát mọi tầng lớp đảng viên, trái ngược với nhóm Menshevik (có nghĩa là thiểu số) do Martov điều khiển, cho rằng các nhà xã hội nên cộng tác với giới tư sản và mở rộng cửa đón nhận tất cả các cảm tình viên cũng như các người cấp tiến và dân chủ tư sản khác.   

Tháng 1 năm 1904, Stalin vượt ngục từ Siberia, trở lại miền Tbilisi và tham gia vào nhóm Bolshevik. Trong thời gian từ 1904 tới 1905, Stalin đã tổ chức nhiều vụ đánh cướp ngân hàng hay các xe chở tiền và hành động này được Lenin coi là quan trọng, cần thiết cho các nhu cầu của Đảng mặc dù một số người Mácxít khác lại coi đó là các hành vi ăn cướp, không xứng đáng với nhà cách mạng xã hội. Stalin đã tham dự vào các đại hội của Đảng Dân Chủ Xã Hội Nga họp tại Tampere, London và Stockholm trong các năm từ 1905 và 1906, và chính tại Phần Lan, Stalin đã gặp gỡ Lenin. Cũng vào thời gian này, Stalin kết hôn với Ekaterina Svanidze, người chị của một bạn học khi trước nơi chủng viện và bà vợ này đã chết vì bệnh lao phổi vào năm 1907. Họ có một con trai tên là Jacob, sau này bị quân Đức bắt làm tù binh và chết trong kỳ Thế Chiến II. Trong khoảng từ 1906 tới 1913, ngoài các chuyến du hành ra nước ngoài ngắn hạn, Stalin dành phần lớn thời giờ cho phong trào cách mạng, cho việc tổ chức đảng tại tỉnh Baku. Ông cũng bị bắt nhiều lần, vượt ngục nhiều lần và đã ở tù 7 năm trong khoảng từ 1907 tới 1917.   

Năm 1912, Stalin tới Crakow làm việc với Lenin và bà vợ của ông ta trong vài tháng rồi đến thành phố Vienna, theo một khóa học Mácxít liên quan tới vấn đề quốc gia. Kết quả của cuộc du khảo này của Stalin là cuốn sách nhan đề Thuyết Mácxít và vấn đề quốc gia (Marxism and the National Question). Cũng vào năm này, Stalin được chọn vào Ủy Ban Trung Ương của Nhóm Bolshevik. Sau khi từ Vienna trở về Nga, Stalin lại bị mật vụ của Sa Hoàng bắt được và bị đầy tới làng Turukhansk, thuộc Siberia, ở phía trên Cực Khuyên (the Arctic Circle). Stalin đã bị giam chặt tại nơi này cho tới cuộc cách mạng của Alexander Kerensky vào tháng 3 năm 1917, khi mọi tù nhân chính trị đều được trả tự do, Stalin trở về St. Petersburg. Cũng chính vào thời gian lưu đầy tại Siberia, ông lấy biệt hiệu là Stalin, hay Con Người Thép. 
 

3. Các năm đầu của chính quyền Xô Viết   

Năm 1917, bùng nổ Cuộc Cách Mạng Cộng Sản Nga. Stalin cùng với Lev Kamenev trở về thành phố St. Petersburg. Stalin là một đảng viên Bolshevik thâm niên. Vai trò của Stalin trong cuộc Cách Mạng Tháng 8 Nga không có gì đặc sắc so với Lenin và Trotsky nhưng sau chiến thắng, Stalin đã được cử làm Ủy viên các sắc tộc (commissar of Nationalities). Chính trong chức vụ này, Stalin đã đàn áp thẳng tay các phong trào quốc gia của những dân thiểu số, kể cả sắc dân quê hương Georgia của ông ta, vì thế người dân nước Nga đã gọi Stalin là tên đồ tể.   

Cuộc nội chiến tại nước Nga kéo dài từ 1918 tới 1921, là thời gian Stalin làm ủy viên quân sự (military commissar) tại mặt trận Tsaritsyn (Stalingrad) chống lại đạo quân Bạch Vệ, tại các mặt trạân Ba Lan và tại nhiều trận tuyến khác, và Stalin đã tỏ ra là một nhà chiến lược và chiến thuật có khả năng đặc biệt. Cũng vào năm 1918 hay 1919, Stalin cưới cô Nadezhda (Nadya) Alliluyeva, một thiếu nữ còn nhỏ tuổi, đã làm thư ký cho ông ta. Năm 1932, Nadya do thiếu thận trọng, đã cãi cọ với Stalin để bênh vực cho một phụ nữ bị tống xuất tới trại cải tạo dành cho các tù nhân chính trị, rồi sau đó, Nadya còn không tuân lệnh Stalin, đã trao đổi thư từ với một người bạn. Tất cả những người dính líu đến vụ liên lạc thư tín này đều bị hành quyết. Nadya tự sát vào ngày 7-11-1932. Với người vợ thứ hai, Stalin có một con trai và một con gái: con trai Vasily trở nên một tướng không quân, bị chết vì một tai nạn xe hơi sau khi Stalin đã qua đời. Người con gái tên là Svetlana, một cô giáo kiêm thông dịch viên tiếng Anh. Svetlana đã sang Hoa Kỳ năm 1967, dọn qua nước Anh năm 1982, trở lại Liên Xô năm 1984 và rồi lại quay về sống tại Hoa Kỳ năm 1986.   

Năm 1919, Stalin đã đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền và được chỉ định làm Ủy Viên Thanh Tra các Công Nhân và Nông Dân (commissar of the Workers and Peasants Inspectorate). Trong cơ chế đảng, Stalin đã leo dần lên các cấp bậc cao hơn, trở thành 1 trong 5 nhân viên của Bộ Chính Trị và Ủy Ban Tổ Chức Đảng. Cũng chính trong thời gian của cuộc nội chiến, Đảng Lao Động Dân Chủ Xã Hội Nga được đổi tên thành Đảng Cộng Sản Nga (the Russian Communist Party). Năm 1922, Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản đã bầu Stalin làm Tổng Bí Thư. Vào thời bấy giờ, chức vụ Tổng Bí Thư Đảng đã bị các đảng viên cao cấp và lão thành Nga coi thường, cho là chỉ xứng đáng với một viên chủ sự, giữ hồ sơ. Nhưng Stalin đã cố gắng giành lấy vai trò tầm thường đó vào lúc ban đầu, vì ông ta đã nhận ra được tiềm năng vô giới hạn về quyền lực của vai trò đó. Stalin bắt đầu xếp đặt các người tin cẩn vào các chức vụ then chốt trong đảng và chính quyền, và những người này chỉ biết trung thành với Stalin.   

Trong nhiều năm, Lenin đã đánh giá cao Stalin vì tài tổ chức, vì khả năng cắt giảm các thủ tục hành chính và phối hợp các cộng sự viên. Stalin còn được coi là một chính trị gia chuyên giải quyết các rắc rối, một tay búa rìu quen chặt bỏ những kẻ chống đối. Thế rồi, địa vị và vai trò của Stalin trong chính quyền và trong tổ chức đảng đã cho phép ông ta toàn quyền thao túng về hành chính, huấn luyện, thăng thưởng, bổ nhiệm chức vụ cũng như dùng các biện pháp kỷ luật. Cho nên mặc dù còn là một nhân vật chưa được nhiều người ngoài biết tới và ngay cả trong hàng ngũ đảng viên, nhưng Stalin đã có quyền hành tuyệt đối, chỉ sau Lenin.   

Từ năm 1922, đảng Bolshevik đã thắng cuộc nội chiến và bắt đầu xây dựng lại đất nước Nga đã bị tàn phá. Các nhà lãnh đạo Cộng Sản Nga vào năm này đã lập nên một quốc gia mới, gọi là Liên Hiệp Các Nước Cộng Hòa Xã Hội Xô Viết (the Union of Soviet Socialist Republics) hay gọi tắt là Liên Xô (the Soviet Union). Tới tháng 5 năm 1922, Lenin bị tai biến mạch máu não khiến cho ông gặp khó khăn khi di chuyển, thì ảnh hưởng quyền lực của Stalin cũng lớn mạnh lên. Trong khi sức khỏe của Lenin suy kém dần, thì chính quyền Xô Viết do tam đầu chế là Grigori Zinoviev, Lev Kamenev và Joseph Stalin điều hành. Vào lúc này, Lenin đã thấy rõ sự bất lực của tam đầu chế và tiềm năng quyền lực của Văn Phòng Tổng Bí Thư Đảng đang tăng dần. Tháng 12 năm 1922, Lenin đã viết ra một tài liệu, được coi là di chúc cuối cùng, gồm có đoạn sau: Đồng chí Stalin đang trở thành Tổng Bí Thư Đảng đã tập trung vào trong tay quá nhiều quyền lực và tôi không tin chắc rằng đồng chí đó luôn luôn biết cách dùng quyền lực với đầy đủ thận trọng. Tháng sau, Lenin thêm vào tài liệu kể trên câu viết: Stalin thì quá tàn nhẫn… Tôi đề nghị các đồng chí tìm cách đưa Stalin ra khỏi chức vụ và chỉ định… một người khác… kiên nhẫn hơn, trung thành hơn, lễ độ hơn… Sau khi Lenin qua đời, lời dặn dò đó đã bị các nhân vật như Kamenev và Zinoviev cất dấu đi vì họ đang cần Stalin trong việc gạt bỏ Trotsky.   

 
4. Thanh toán các đối thủ   

Từ năm 1917, các người Bolshevik đã thành lập nên một tổ chức mật vụ được gọi tên là Cheka với cơ sở là nhà tù Lubyanka, với mục tiêu được công bố rõ ràng là dẹp tan tất cả các thành phần chống đối cách mạng cộng sản trong xã hội Xô Viết. Dập theo khuôn mẫu của lực lượng mật vụ Okhrana của các Sa Hoàng, thường bắt giữ các nhà cách mạng rồi tống đi đầy mà không hề xét xử, tổ chức mật vụ Cheka trong 18 tháng đầu đã bắt giam hơn 90,000 người và hành quyết hơn 11,000 nạn nhân. Đây là một công cụ của chế độ đã được Stalin xử dụng một cách tàn nhẫn, khủng khiếp, cho các tham vọng cá nhân và để thỏa mãn căn bệnh hoang tưởng (paranoia) trước những kẻ chống đối. Tổ chức mật vụ của Liên Xô về sau còn mang các danh xưng là GPU, OGPU, NKVD, NKGB và KGB, và trong thời kỳ thanh trừng 1934-39, 15 triệu người bị bắt giữ, hơn 3 triệu dân Liên Xô đã chết trước các đội hành quyết, chết vì bị tra tấn không thương tiếc hay trong các trại tù cải tạo nằm rải rác nhiều nơi trên đất nước.   

Trong 2 năm 1922-24, Lenin, nhà lãnh đạo Cộng Sản Nga 54 tuổi, đã bị tai biến mạch máu não, nên đảng Cộng Sản và chính quyền Xô Viết do tam đầu chế Zinoviev, Kamenev và Stalin điều hành. Ngày 21 tháng 1 năm 1924, Vladimir Ilyich Lenin qua đời tại Gorki, gần thành phố Moscow. Trong đám tang của Lenin và với sự vắng mặt của Trotsky, Stalin đã cố gắng phô trương sự trung thành với Người Cha của Cách Mạng Cộng Sản Nga, đã tuyên bố trước báo chí Liên Xô: Đồng chí Lenin, chúng tôi xin thề với đồng chí rằng chúng tôi sẽ không tiếc gì thân sống trong việc củng cố và bành trướng sự đoàn kết của những người lao động trên Thế Giới. Sau đó, Stalin cùng với các người đồng minh tạm, tìm cách cô lập và loại Trotsky khỏi chính quyền.   

Vào dịp Đại Hội Đảng kỳ thứ 13 tổ chức vào tháng 5 năm 1924, đã có các lời đồn về di chúc của Lenin, nhưng tam đầu chế, trong đó Stalin đã kiểm soát được Đảng, quốc gia và lấn át được bộ chính trị, đã giữ kín bản di chúc kể trên, ngoại trừ một số ủy viên trung ương đảng có biết. Và khi đề cập tới lời nhận xét của Lenin trước Ủy Ban Trung Ương Đảng, Zinoviev đã nói rằng: chúng tôi sung sướng mà nói rằng một điểm mà đồng chí Lenin e ngại, đã tỏ ra không có căn cứ. Tôi muốn nói điều nhận xét về đồng chí Tổng Bí Thư của chúng ta. Trong mấy năm qua, các bạn đã chứng kiến chúng tôi làm các công việc cùng với nhau, và giống như tôi, các bạn cũng vui lòng khi xác nhận rằng nỗi e ngại của đồng chí Lenin không thành sự thật. Trong khi đó, Léon Trotsky đã không phản kháng việc che dấu di chúc của Lenin vì ông ta tin chắc rằng tam đầu chế do các đồng chí loại hai sẽ sớm bị sụp đổ.   

Sau đó, Stalin, Kamenev và Zinoviev cùng đoàn kết lại, mở một trận tuyên truyền chống Trotsky. Họ công bố các tài liệu trước Cách Mạng của Trotsky phản đối các chương trình Bolshevik của Lenin, coi đó là các bằng chứng chống lại Lenin. Chương trình phát triển nhanh kinh tế của Trotsky bị coi là một cuộc phiêu lưu cánh tả, sẽ sớm dẫn tới các thảm họa kinh tế. Tháng 1 năm 1925, Trotsky bị bắt buộc phải từ chức Bộ Trưởng Chiến Tranh.   

Khi đã cô lập được Trotsky về chính trị, Stalin tìm cách gạt bỏ các đồng minh tạm, để một mình nắm giữ quyền lực. Các xung đột này một phần vì sự xung khắc cá tính, một phần vì sự tranh giành quyền lực và cũng vì các bất đồng chính trị tức là việc tranh luận giữa các cánh tả và cánh hữu của chủ nghĩa Bôn Xê Vích (Boshevism). Trong cuộc tranh cãi vào thời bấy giờ, Stalin đại diện cho cánh hữu của Đảng và cùng với lý thuyết gia Nikolai Bukharin, họ đã cảnh cáo các kẻ cách mạng phiêu lưu, đồng thời biện hộ cho các chính sách thận trọng hơn và kiên nhẫn hơn của Lenin, tức là chính sách kinh tế mới NEP (New Economic Policy).   

Từ cuộc Cách Mạng Tháng 8 của Liên Xô, theo một kinh điển của giáo điều Cộng Sản thì sự thành công của chương trình Lênin-nít tùy thuộc vào cuộc cách mạng trên toàn thế giới, nhờ đó, các nền kinh tế tiến bộ hơn của các nước Tây Phương sẽ giúp công cho chế độ Xô Viết. Để theo đuổi mục đích này, phong trào Đệ Tam Quốc Tế hay Commintern được thành lập năm 1918, có mục đích đoàn kết lại các đảng cộng sản trên thế giới và hun đúc các cuộc cách mạng ngoại quốc. Những người tin tưởng nhiệt thành vào công cuộc cách mạng thế giới là Trotsky, Kamenev và Zinoviev, lúc đó đang là lãnh tụ của Phong Trào Đệ Tam Quốc Tế. Nhưng sau cuộc Thế Chiến Thứ Nhất, các cuộc nổi dậy Cộng Sản đã không xẩy ra thành công như dự liệu mà còn bị dập tắt như tại các nước Đức, Hungari và Trung Hoa. Năm 1925, Stalin từ bỏ hy vọng đặt vào các cuộc cách mạng cộng sản thế giới mà lại đề nghị chương trình xã hội chủ nghĩa trong một quốc gia (Socialism in One Country), một điều trái ngược với các ý kiến của Kamenev và Zinoviev.   

Để lôi kéo các thành phần bảo thủ hơn trong Bộ Chính Trị, Stalin đã có được sự ủng hộ của các nhân vật: Mikhail Tomsky, lãnh tụ nghiệp đoàn; Nikolai Bukharin, lý thuyết gia của Đảng và Alexei Rykov, chủ tịch của Hội Đồng Các Ủy Viên Nhân Dân (the Council of People’s Commissars). Chủ trương của Stalin cũng hấp dẫn được quần chúng vì cho rằng chỉ một mình Liên Xô, cô đơn và không được trợ giúp, cũng có thể xây dựng nên một xã hội mới, dùng làm ngọn hải đăng cho thế giới. Kamenev và Zinoviev đã chống lại chủ trương cô lập này nhưng rồi vào cuối năm 1925, họ đã bị bất lực trước tập đoàn các nhà lãnh đạo mới gồm Stalin, Rykov, Bukharin và Tomsky. Tới lúc này Zinoviev và Kamenev mới thấy rõ con người của Stalin, bèn tìm cách hợp tác với Trotsky để giành quyền lãnh đạo, nhưng đã quá muộn. Cả 3 nhân vật chống đối đã bị loại ra khỏi Đảng. Trotsky phải bỏ xứ, đi sống lưu vong vào tháng 1-1929 còn Kamenev và Zinoviev về sau, được phép hối lỗi và được chấp thuận tạm thời trở lại Đảng.   

Sau khi đã đẩy được Trotsky ra khỏi nước và khiến cho hai đối thủ kia phải im hơi lặng tiếng, Stalin mới quay trở lại tấn công Bukharin, Rykov và Tomsky. Trước kia, Stalin thường chế riễu và chỉ trích các chương trình kỹ nghệ hóa và tập thể hóa nông nghiệp của Trotsky, thì vào năm 1928, Stalin lại nhận các chương trình đó là do mình sáng tạo ra. Bukharin, Rykov và Tomsky bèn đả phá Stalin trong Bộ Chính Trị, cảnh cáo rằng tập trung nền kinh tế vào kỹ nghệ nặng sẽ làm tổn hại tới việc sản xuất ra các sản phẩm tiêu dùng, sẽ gây chống đối trong giới công nhân, và việc tập thể hóa nông nghiệp sẽ làm cho nông dân đói ăn và nổi loạn. Thế rồi trong các cuộc bỏ phiếu, các người trung thành với Stalin đã loại ba nhân vật kể trên ra khỏi các chức vụ then chốt. Tới lúc này, Stalin đã hoàn toàn loại được tất cả các kẻ chống đối ra khỏi Đảng. Stalin đã trở nên một nhà độc tài, kiểm soát tất cả Đảng, quốc gia và toàn thể khối Cộng Sản Quốc Tế. Stalin đã cai trị một cách tuyệt đối đất nước Liên Xô gồm 160 triệu dân, các kẻ không theo đúng đường lối của Đảng đều bị bắt, bị đưa đi lưu đầy trong các trại lao động cải tạo, đồng thời các cơ quan thông tin tuyên truyền cộng sản cũng không ngừng mô tả Stalin là Lenin của ngày nay, một thiên tài, một vị cứu rỗi, một vị thánh sống.   

Vào ngày 21 tháng 12 năm 1940, ngày sinh thứ 60 của Stalin, 450 nhà văn gồm các nhà trí thức, các nhà báo, các sinh viên … đã tề tựu tại nơi sinh của Stalin, một căn nhà nhỏ tại Gori, để tìm hiểu, làm thơ phú và viết bài ca tụng Stalin. Cơ quan điện ảnh Tiflis cũng khởi đầu quay một cuốn phim nói về cuộc đời của vị Lãnh Tụ để trình chiếu tại mọi nẻo đường của đất nước Liên Xô. Cũng tại Liên Xô, đã phát hành 1 triệu cuốn sách kể lại tiểu sử của Stalin do Chủ Tịch Mikhail Kalinin viết. Ngoài ra còn đang in loại sách vẽ nhà Lãnh Tụ bởi Ủy Viên Quốc Phòng Kliment E. Voroshilov và Ủy Viên Nội Vụ Laurentius Pavlovich Beria. Trong số báo Sự Thật (Pravda) 12 trang do cơ quan thông tin của Đảng Cộng Sản Moscow phổ biến, chỉ có một cột không đề cập tới Stalin. Bài tham luận của số báo này, với tiêu đề Stalin của chúng ta (Our Own Stalin), đã viết: Các công nhân kim khí tại Detroit, các người thợ đóng tầu của Sydney, các nữ nhân viên thuộc các nhà máy dệt Thượng Hải, các thủy thủ trên bến cảng Marseille, các nữ nông dân Ai Cập, các nhà nông Ấn Độ bên bờ sông Ganges – tất cả đều nói đến Stalin với lòng yêu mến. Stalin là niềm hy vọng về tương lai của các công nhân và nông dân trên toàn Thế Giới. Và các người Cộng Sản thường khoe khoang rằng Liên Xô từ nay là một nước dân chủ nhất trên địa cầu.    

Vì danh dự của Stalin, Hội Đồng các Ủy Viên Nhân Dân đã lập ra 29 giải thưởng hạng nhất hàng năm, trị giá mỗi giải 100,000 đồng Rúp (20,000 mỹ kim) để tặng cho các thành quả phát minh về Khoa học, Y khoa, Luật pháp, Kịch nghệ, Khoa học Quân sự… đồng thời 4,150 Học Bổng Stalin cũng được công bố. Cũng vào lúc này, Chủ Tịch Đoàn của Xô Viết Tối Cao đồng thanh trao tặng Đồng Chí Stalin Huy Chương Lenin với danh hiệu Anh Hùng Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa (Hero of Socialist Labor).    

Các lời tuyên truyền, đề cao của Liên Xô mô tả Stalin là một con người to lớn, oai vệ, nhưng thực ra, ông ta là một người có tầm vóc thấp lùn (short stature), mang các nét nhân chủng của giống người Transcaucasian: tóc đen, mắt đen, sọ ngắn, mũi lớn. Cá tính của Stalin khác thường: ông ta là một con người thô lỗ, tàn ác và trong một số trường hợp, mang tính hoang dã (primitive). Sự đa nghi, giảo quyệt và hay trả thù một cách tàn bạo của ông ta lên tới cao độ của bệnh hoang tưởng (paranoia). Ngay từ thời mới hoạt động cách mạng, các đồng chí của Stalin đã nghi ngờ người bạn của mình giao nạp tên tuổi các đồng chí cho mật vụ của Sa Hoàng để đổi lấy sự giải thoát. Là một con người thích khoa trương và không có duyên, các lời phát biểu và bài diễn văn của Stalin đọc lên nghe giống như các sách dạy giáo lý, thiếu sức mạnh và lý luận của Lenin, nhưng trong cách tranh luận của Stalin lại chứa đựng tính phản kháng một cách khủng khiếp. Stalin là một nhân vật có năng lực rất lớn và một khả năng ghi nhớ từng chi tiết. Bằng quyền lực và khủng bố, Stalin đã tạo nên một hệ thống chính trị mới mà xưa nay chưa từng thấy với các đặc tính: kiểm soát bằng công an, tập trung quyền hành vào trung ương và độc tài cá nhân. Các sử gia cho rằng chế độ Stalin là một trong các dẫn chứng xấu xa nhất của thể chế độc tài.    

  
    

5. Kế hoạch 5 năm và thời kỳ thanh trừng   

Chính sách của Stalin đã được Đại Hội Đảng kỳ thứ 14 chấp nhận năm 1925, tới năm sau, Stalin đã hoàn toàn kiểm soát được chính quyền, rồi từ năm 1928, Stalin đã bắt đầu kế hoạch 5 năm nhằm phát triển kinh tế. Stalin tuyên bố: Chúng ta ở sau các nước tiên tiến từ 50 tới 100 năm. Chúng ta phải đốt khoảng cách này trong 10 năm. Chính quyền bắt đầu loại bỏ các cơ sở tư doanh, phá vỡ hệ thống gia đình, con cái được dạy dỗ phải tố cáo cha mẹ với công an và mỗi người dân phải rình rập những người lối xóm. Công an chìm được cài vào mọi cơ sở kỹ nghệ, nông nghiệp, hành chính, giáo dục … Kỹ nghệ chú trọng vào việc chế tạo các máy móc nông nghiệp và công nghiệp, trong khi việc sản xuất thực phẩm, quần áo và các đồ gia dụng bị coi nhẹ. 
Kế hoạch 5 năm của Stalin được tập trung vào kỹ nghệ nặng, đặc biệt là than, thép, điện khí hóa và kỹ thuật hóa. Các trung tâm kỹ nghệ lớn được thiết lập tại miền núi Urals và miền Siberia. Ngoài các thành phố mới thành lập nổi tiếng như Magnitogorsk của miền Urals, Kuznetsk thuộc miền Siberia, còn có các khu kỹ nghệ khác như Krivoy-Rog, Kurk và Gornaia-Shorii chuyên về mỏ sắt, Krasnoiarsk, Irkutsk và Novosibirsk chuyên về thép và kỹ nghệ nặng, Frunze, Pavlodar và Omsk sản xuất máy nông nghiệp… Các đập nước lớn cũng được xây dựng như đập thủy điện Dnieprostroy trên sông Dnieper. Hàng triệu công nhân bị chuyển tới các khu xây dựng này, kể cả các tù nhân cải tạo thường xuyên bị canh gác bởi công an, họ phải làm các đường lộ, đường xe lửa, đào kênh, xây nhà máy… Hoàn cảnh làm việc của công nhân và nông dân không đủ ăn, không đủ mặc, rất gian khổ, chẳng hạn các công nhân tại miền thảo nguyên Siberia phải thức dậy lúc 6 giờ sáng, làm việc trong thời tiết lạnh 45 độ âm. Các chỉ tiêu được đặt ra cho mọi ban ngành và khi không đạt đư
0