Tư tưởng triết học và nghệ thuật
(TiaSang)- Các nhà triết học thời cận đại, từ Hegel đến Heidegger cũng đều công nhận rằng: những ý tưởng về mỹ học chỉ có thể đến sau các tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên, trên thực tế, những tư tưởng triết học, hay tôn giáo, đã có những ảnh hưởng quyết định lên các nền nghệ thuật, từ những tư tưởng ...
Tư tưởng về nghệ thuật của Platon và Aristote Một
tư tưởng khác của Platon cũng đã có ảnh hưởng trực tiếp đến quan niệm
cổ điển về đối tượng của nghệ thuật. Platon cho rằng: cái đẹp (khách
thể) là nguồn gốc của sự ham thích nó ở nơi con người (chủ thể). Chính
cái đẹp của đối tượng , tức của khách thể, đã cuốn hút người nhìn, và
gây nên sự ham thích ở nơi người nhìn, tức nơi chủ thể. Như vậy, có
nghĩa là: cái đẹp của đối tượng là có thật, độc lập với ta, và ở ngoài
ta. Điều mà, 22 thế kỷ sau, Kant đã phủ định với tác phẩm Phê phán năng
lực phán đoán (1790). Đối với Kant, cái đẹp chỉ có giá trị chủ quan và
không nằm trong đối tượng. Còn Aristote, thì mặc dầu không đồng ý
với những ý kiến trên của Platon, nhưng vì tôn trọng ông thầy của mình,
và vì bản thân không phải là một nghệ sĩ, nên vẫn chủ trương bắt chước
thiên nhiên, coi đó là mẫu mực, là sự thật khách quan (Aristote,
Poétique), ví dụ như thân thể con người là gương mẫu của cái đẹp của tỷ
lệ và của sự hài hòa (các tượng thần Apollon, thần Vệ nữ, v.v. là những
tác phẩm cổ điển Hy Lạp, mà khuôn mẫu là cơ thể hài hòa của con người). Trải
qua các thời kỳ và phong cách nghệ thuật ở phương Tây, từ nghệ thuật cổ
đại Hy-La, đến những bước đầu của nghệ thuật Kitô giáo; rồi từ thời
Trung cổ (với các phong cách Rômăng, Gôtíc), đến các thời kỳ Tiền Phục
Hưng, Phục Hưng, Nguyên khai Flamand, Cổ điển, Barốc, Lãng mạn, Hiện
thực tự nhiên, Ấn tượng, nghệ thuật chính thống luôn luôn tôn vinh sự
sao chép "giống như thật", trong tinh thần của Aristote, với mục đích
thể hiện y nguyên hiện thực, mặc dầu với một cái nhìn thẩm mỹ nhất
định, song hoàn toàn không "diễn dịch" hoặc phê phán hiện thực. Đó
là nguyên lý cơ bản của nền nghệ thuật coi trọng khách thể, có từ
Aristote, và đã tồn tại bền bỉ cho đến ngày nay, ít ra là ở một số nghệ
sĩ tượng hình. Người ta còn nhớ, cho tới những thập niên đầu của thế
kỷ XX, nền nghệ thuật hàn lâm, mà tiền thân là nền nghệ thuật cổ điển
của Pháp, vẫn ngự trị một cách chính thống ở khắp Âu châu, đặc biệt là
ở Pháp. Nghệ thuật Kitô giáo Chỉ riêng về cái đẹp, quan
niệm Kitô giáo cho rằng: mọi vật trên đời này đều đẹp, vì do đức chúa
Trời Ba Ngôi sáng tạo ra; chúng phản ánh cái đẹp toàn mỹ của Chúa. (Con
người được Chúa sáng tạo ra dựa theo hình ảnh của Chúa, nghĩa là mặc
dầu khác với Chúa, nhưng con người cũng có đủ những đức tính và khả
năng để tham gia vào công cuộc sáng tạo của Chúa, đặc biệt là sáng tạo
ra cái đẹp). Như vậy có nghĩa là, trong đạo Kitô, đức chúa Trời đã được
"nhân hóa" và do đó cái đẹp được thể hiện một cách cụ thể trên tất cả
các nhân vật, từ đức chúa Giê-Su, đến đức Bà Maria, đến Chư thánh, v.v.
(Xem các nền hội họa thời Trung cổ, Tiền Phục Hưng và Phục Hưng). Đây
là một trong những lý do khiến cho ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ điển Hy
Lạp đã bị lu mờ trong suốt thời trung cổ ở Âu châu, để nhường chỗ cho
nghệ thuật Kitô giáo phát triển rực rỡ, gần như liên tục, trong suốt
gần 20 thế kỷ với những kiệt tác thể hiện các truyện tích, và các nhân
vật trong Kinh Thánh. Những tư tưởng của St Augustin, Descartes, và Kant Sau Kant, Hegel đã
có những ý tưởng cực đoan hơn về mối quan hệ giữa thiên nhiên và nghệ
thuật, và ông đã có một thái độ khinh rẻ đối với tất cả những gì là của
thiên nhiên. Đối với ông cái đẹp của nghệ thuật mới đáng để cho ta chú
ý đến, vì nó là sản phẩm của trí tuệ con người. Còn cái đẹp của thiên
nhiên là cái đẹp của những vật vô tri, và do đó không có giá trị. Phải
chăng cũng vì vậy, mà Hegel đã đồng ý với Platon về nguồn gốc của cái
đẹp lý tưởng, là những ý tưởng tiên nghiệm của Thượng đế mà con người
còn nhớ được. Nói đến vai trò của chủ thể, không thể nào không đi
trở ngược lên đến St Augustin, người đã đem đến cho đạo Kitô một kích
thước mới: kích thước con người. Nhưng quan trọng hơn cả, là những tư
tưởng triết học của Descartes, với tác phẩm Diễn từ về phương pháp luận
(1637). Có thể nói rằng với tác phẩm này, phương Tây đã khám phá ra tầm
quan trọng của chủ thể, của cái tôi, trong nhận thức về thế giới xung
quanh, và đặc biệt là trong quan niệm về nghệ thuật và người nghệ sĩ. Không
biết Rubens (1577-1640), nhà họa sĩ trứ danh người Hà Lan, đã có dịp
đọc tác phẩm của Descartes chưa, nhưng ông đã là người họa sĩ đầu tiên
vẽ với một phong cách bay bướm và một cá tính mạnh mẽ, khác hẳn với
phong cách hội họa thời Phục Hưng. Có thể nói rằng, về một mặt nào đó,
ít ra về hình thức, Rubens là một họa sĩ đã đi trước tất cả những họa
sĩ cùng thời, báo hiệu sự ra đời - hơn một thế kỷ sau - của phong cách
Barốc và phong cách lãng mạn. Chủ nghĩa lãng mạn
Thực
ra, nhìn với quan niệm của người ngày nay, thì những tư tưởng của
Platon và Aristote về nghệ thuật, là những tư tưởng chống nghệ thuật,
chứ không phải là những tư tưởng tôn vinh nghệ thuật, nhưng ở thời của
Platon, triết học có một uy quyền rất lớn trong xã hội, và tiếng nói
của các triết gia có thế lực như Platon, Aristote, là quyết định, nhất
là đây lại là những nhà giáo dục, có đầy đủ thẩm quyền và phương tiện
để truyền bá những điều mình phán quyết. Ở thời Platon, không có gì qua
mặt được triết học. Điều này, xét cho cùng, cũng chỉ là đúng thôi (nếu
ta nhận thức được tầm quan trọng của triết học trong đời sống và trong
các lãnh vực văn hóa, nghệ thuật), nhưng thái độ của Platon đã rất cực
đoan: dựa vào định kiến cho rằng nghệ thuật, từ hội họa đến thi ca, đều
chỉ là sự bắt chước, hay sao chép thiên nhiên, và không có gì là thực
cả, cho nên cũng không có giá trị thực, ông đã có một thái độ khinh
miệt đối với cả nghệ thuật, lẫn thi ca. Điều kỳ lạ, là trong nhiều thế
kỷ, phương Tây đã tôn vinh những tư tưởng ấy, để rồi phải hứng chịu
những hậu quả tiêu cực của chúng, mà mãi sau này mới nhận ra được.
Những
ý tưởng của Platon và Aristote về quan hệ giữa khách thể và chủ thể
(một đằng là cái đẹp, hay đối tượng vẽ, một đằng là người nghệ sĩ, hay
người thưởng thức nghệ thuật), cũng như về sự bắt chước, hay sao chép
thiên nhiên, về đại thể, cũng đã được nghệ thuật Kitô giáo lấy lại và
tiếp tục phát triển trong suốt 20 thế kỷ, mặc dầu trên một số điểm,
nhất là trong lãnh vực siêu hình học, quan niệm của Kitô giáo có khác
với quan niệm của các triết gia Hy Lạp.
Người
đầu tiên đã đưa ra được những luận cứ để chống lại cách nhìn của
Aristote, coi nghệ thuật chỉ là sự sao chép thiên nhiên, chính là Kant,
triết gia người Đức. Theo Kant, tác phẩm nghệ thuật không phải là bản
sao của thiên nhiên, mà ngược lại: "Thiên nhiên chỉ đẹp khi nó giống
như tác phẩm nghệ thuật, và tác phẩm nghệ thuật chỉ đẹp khi nó giống
như thiên nhiên" (Kant, Phê phán năng lực phán đoán, 1790). Điều đặc
biệt quan trọng đã được Kant vạch ra, và đã có một ảnh hưởng vô cùng to
lớn lên nghệ thuật, đó là: cái đẹp không nằm trong đối tượng, dù cho đó
là một cảnh thiên nhiên, hay một tác phẩm nghệ thuật, mà tuỳ thuộc vào
sự phán đoán của người nhìn ngắm nó, tức chủ thể.
Vào
những năm cuối thế kỷ XVIII, chủ nghĩa lãng mạn ra đời, đem đến nhiều ý
tưởng mới mẻ chống lại chủ nghĩa cổ điển. J.J. Rousseau (1712-1778) đã
là một trong những người đầu tiên đưa ra định nghĩa: "Nghệ thuật không
phải là sự miêu tả hay sao chép thế giới ta nhìn thấy, mà là cả một sự
trào dâng của cảm xúc và của sự đam mê".
Caspar David Friedrich, Le naufrage (1824)
Khởi đầu từ trong văn
học, chủ nghĩa lãng mạn đã thâm nhập vào hội họa ngay từ đầu thế kỷ
XIX ở một số nước Âu châu, đặc biệt là ở Đức, Anh, và Pháp. Nó không
những đã giải phóng người nghệ sĩ tạo hình khỏi những ràng buộc của
những quy tắc cổ điển, mà còn mở ra cho họ cả một chân trời mới, một
thế giới mới: thế giới của nội tâm với những khát vọng về tự do và nhân
quyền, của óc tưởng tượng, và khôi phục lại cho họ vai trò then chốt
của chủ thể. Những họa sĩ lãng mạn, tiêu biểu cho trường phái này,
như: Friedrich (Đức); Constable, Turner (Anh); Delacroix, Géricault
(Pháp), đều có những tác phẩm nổi tiếng. Ở mối họa sĩ, người ta đều
nhận thấy được một cá tính mạnh mẽ, một phong cách riêng biệt. Nhìn
chung, trào lưu lãng mạn, và tiền thân của nó là phong cách Barốc - mà
người đi mở đường tiêu biểu nhất, trước hẳn phong trào Barốc đến hơn
một thế kỷ, là Rubens (1577-1640) - đã có một ảnh hưởng sâu sắc, giàu
tính chất sáng tạo, lên hầu hết các nền nghệ thuật tạo hình, từ Âu châu
sang tới Bắc Mỹ, bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX trở đi. Ảnh hưởng đó vẫn
còn bền bỉ cho tới ngày nay, trong tất cả các ngành nghệ thuật - đặc
biệt là trong xu hướng biểu hiện - dù là trong hội họa, điêu khắc, hay
trong kiến trúc vì những tư tưởng lãng mạn trong nghệ thuật tạo hình
không mâu thuẫn với những quan niệm mới mẻ mà hội họa hiện đại đã đem
đến, bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX.
Những
năm đầu thế kỷ XX, hội họa hiện đại đã ra đời với một loạt ý tưởng và
quan niệm mới mẻ về mặt thẩm mỹ: màu sắc, nét vẽ (Van Gogh, Gauguin,
Cézanne); cách đưa đối tượng lên phía trước (Cézanne), cách tái tạo lại
đối tượng trong một cấu trúc (trường phái lập thể: Picasso, Braque...).
Cách thể hiện nhịp điệu và sự chuyển động (Boccioni, Mondrian, Marcel
Duchamp...). Song, ngoài ra còn có những ý tưởng có tính chất triết
học, hoàn toàn đi ngược lại với những quan niệm cổ điển, và đã có một
ảnh hưởng quyết định lên nghệ thuật, như: phủ nhận sự sao chép đối
tượng (phong cách biểu hiện, dã thú, lập thể), thậm chí phủ nhận tất cả
những hình tượng gợi nhắc đến thế giới tự nhiên (hội họa trừu tượng).
Thọat
tiên, là những tìm tòi của Cézannes- một trong những họa sĩ trừu tượng
đầu tiên, từ những nét cọ giàu nhịp điệu, từ cấu trúc khoẻ mạnh của các
hình thể và màu sắc, từ cách đưa đối tượng lên phía trước, đến sự phủ
nhận gần như hoàn toàn đối tượng vẽ (bức họa Vườn Lauves, 1906). Van
Gogh cũng đã đem đến những ý tưởng mới mẻ về nét vẽ, nhịp điệu, và màu
sắc. Điều đáng chú ý, là ông đã một mình một ngựa, đi theo con đường
sáng tạo riêng của mình và đã khẳng định được một cá tính rõ rệt.
Gauguin cũng đưa ra những ý tưởng độc đáo về tính chất bí ẩn của màu
sắc, và nhất là tính độc lập của màu sắc trên tác phẩm so với màu sắc
thật của đối tượng. Các họa sĩ biểu hiện như Munch và Kirchner cũng
đã sử dụng một ngôn ngữ mới, mạnh mẽ, với những nét vẽ giàu nhịp điệu
và với những màu sắc dữ dội. Năm 1907, tác phẩm Les Demoiselles
d'Avignon của Picasso ra đời, mở đường cho phong cách lập thể, với tham
vọng thể hiện đối tượng không phải như mắt ta nhìn thấy từ một điểm
nhìn, mà từ nhiều góc cạnh. Song, hội họa trừu tượng mới là dòng hội
họa phủ nhận triệt để nhất đối tượng sao chép, và nhất là nó phủ nhận
tất cả những hình tượng tồn tại trong thế giới tự nhiên (Kandinsky,
Mondrian, Malevitch... 1910). Có thể nói rằng, đây là một luật chơi
mới, một thách thức mới. Tác phẩm trừu tượng, theo đúng nghĩa của nó,
phải chứng minh được rằng: cái đẹp nghệ thuật do trí tưởng tượng của
con người sáng tạo ra hoàn toàn độc lập với thế giới tự nhiên. Đương
nhiên, không phải ai vẽ tranh trừu tượng cũng đều phải nghĩ như thế,
nhưng tiêu chuẩn là như thế, và luật chơi là như thế. Nói chung, tất
cả các họa sĩ và các trường phái kể trên đều đã có những tuyên ngôn về
xu hướng nghệ thuật của mình, trước hay sau khi các tác phẩm ra đời. Điều
mới mẻ nhất, có thể nhận thấy được trong các đổi thay về quan niệm thẩm
mỹ, ít nhất từ 50 năm nay, là: trong hội họa trừu tượng, cùng với một
dòng tranh thiên về nhịp điệu (Pollock, Hartung, Zao Wou Ki...), có một
dòng tranh thiên về ký hiệu ra đời gần như cùng một lúc (Soulages,
Sugai, Tuan...). Có thể nói rằng, đây tuy không phải là một "cặp khái
niệm" đối nghịch, nhưng về mặt thẩm mỹ, hai khái niệm này khác hẳn
nhau, như ngày và đêm.Tuy
nhiên, cái đẹp của ký hiệu và cái đẹp của nhịp điệu không phải là hai
khái niệm đối nghịch duy nhất trong nghệ thuật, mà còn nhiều cặp khái
niệm