Freud và Phật giáo- Sự tương đồng đến kinh ngạc
(TiaSang)- Cho đến hôm nay, có thể nói nhân loại đã có 3 lần nhận ra mình bị “hớ”, đến mức nhiều chuẩn mực bị đảo lộn, thậm chí nhiều niềm tin bị sụp đổ sau 3 cuộc “cách mạng” ấy: Đầu tiên là thuyết nhật tâm, khi cả nhân loại đều tin một cách ...
(TiaSang)- Cho
đến hôm nay, có thể nói nhân loại đã có 3 lần nhận ra mình bị “hớ”, đến
mức nhiều chuẩn mực bị đảo lộn, thậm chí nhiều niềm tin bị sụp đổ sau 3
cuộc “cách mạng” ấy: Đầu tiên là thuyết nhật tâm, khi cả nhân loại đều
tin một cách vững chắc rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ, trên đó,
cả vũ trụ quay quanh mình thì Copecnic bảo không phải vậy, mặt trời mới
là trung tâm.
Lần
thứ hai là Darwin với học thuyết tiến hóa; khi ai cũng tin rằng con
người ta là một sản phẩm đặc biệt của tự nhiên, của Thượng Đế, không có
một mối quan hệ nào với động vật cấp thấp thì Darwin bảo không phải
vậy, con người là từ khỉ mà thành, chính xác hơn là một nhánh nào đó
của động vật linh trưởng mà thành. Rồi
bản năng sống, bản năng sinh tồn, bản năng chết, bản năng sợ hãi, bản
năng giận dữ nữa, ý thức chẳng bao giờ điều khiển được nó. Tại sao nói
trước đám đông tim bạn cứ đập liên hồi vậy? Tại sao con người ta lại sợ
rắn, đỉa, chuột, gián? Tại sao đèn đỏ ở ngã tư lại làm ta cồn cào bất
an? Và tại sao con người ta lại không thể kìm chế được sự giận dữ,
nhiều khi qua rồi mới thấy là vô cớ và kỳ cục? Vâng, đời sống tinh thần
của con người, mặc dù đã được Freud phân tích khá kỹ từ gần 100 năm
trước nhưng cho đến nay vẫn còn ẩn chứa rất nhiều bí ẩn, không phải là
không nhìn thấy mà giống như là con người đã không chịu nhìn nhận, mặc
dù ai cũng có thể nhìn thấy. Và
thật kỳ lạ, những điều Freud phân tích và khám phá ở trên gần như trùng
khớp với những khái niệm cơ bản nhất của Phật giáo, chỉ có điều tất cả
đều được diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ khác. Này
nhé, bản năng thì tăm tối và hình thành từ thuở con người còn là những
động vật bầy đàn hú hét trong rừng sâu. Nhà Phật cũng có khái niệm Vô
minh hình thành từ Vô thủy, thường được gọi chung là Vô thủy Vô minh.
Thật kỳ lạ, tại sao nhà Phật lại có cái khái niệm và sự diễn đạt chính
xác đến vậy về cái tối tăm trong đời sống tinh thần của mình hình thành
từ thời con người chưa là NGƯỜI, những điều mà khoa học đã tốn rất
nhiều công sức mới dần nhận ra cái phần tâm lý bí ẩn mà Freud gọi là vô
thức, bản năng. Mà Freud có được những suy nghĩ ấy chính lại nhờ vào sự
quyết liệt và dũng khí của Darwin. Từ hơn 2000 năm trước Phật Thích Ca
và các vị tổ sau này nhìn thấy điều gì trong tâm hồn con người rồi gọi
tên nó là “cái hầm sâu vô thủy vô minh”? “Cái hầm sâu này” dường như
Freud cũng chỉ mới bắt đầu cảm thấy chứ chưa thực sự hiểu cặn kẽ về nó,
thậm chí đã tìm ra phương pháp để “phá tan” cái hầm sâu vô thủy vô minh
ấy như Phật và các thiền sư nhà Phật đã làm để có được một cái nụ cười
tự nhiên, thanh thản, an lạc như thấm đẫm đến từng tế bào như vậy. Không
cần đến cái mục đích cuối cùng là sự giải thoát, giác ngộ, và cũng khó
mà yêu cầu Freud “đạt” đến chỗ mục đích cuối cùng như nhà Phật hay nêu;
chỉ với những khái niệm cơ bản, những mục đích đạt tới, những cách diễn
đạt, những phương pháp sử dụng để khảo sát đời sống tinh thần con
người... chúng ta đã thấy Freud và Phật giáo nhiều chỗ tương đồng đến
mức kinh ngạc. Này nhé, nhà Phật không ai không biết đến các khái niệm vạn pháp do tâm tạo và tu là chuyển nghiệp.
Freud cũng nói đến rất nhiều khái niệm số phận của mỗi người là do
chính người đó, qua sự điều khiển của vô thức mà hình thành nên số phận
của anh ta. Có người sống với người vợ nào rồi cũng ly dị, chơi với bạn
nào rồi cũng bị bạn phản. Freud đã phân tích khá kỹ rằng chính vô thức
đã thôi thúc ở bên trong anh ta để cuộc ly dị xảy ra, cuộc phản bội của
bạn hình thành thì anh ta mới thỏa mãn mà không hề tự biết điều đó. Thì
ra ta đi đâu cũng gặp người khó tính, người ích kỷ, người thủ đoạn là
do chính bởi ta tạo nên họ chứ không phải họ có sẵn đó và ta chỉ gặp.
Những khái niệm này là vô cùng gần với Phật giáo, số phận của ta là do
chính nhân duyên nghiệp chướng ta tạo nên mà thành. Nhà Phật hay kể một
câu chuyện rất hay để minh hoạ là: Có một cô con dâu không chịu nổi bà
mẹ chồng khó tính, mới quyết định xin thầy cho loại thuốc nào đó cho bà
chết đi. Vị thầy bảo, để cô không phải bị truy tố, ông sẽ cho một loại
thuốc uống hằng ngày mà bà mẹ chồng sẽ chết sau một năm không để lại
một dấu vết nào, chỉ với một điều kiện, đừng làm cho bà giận, bà chỉ
cần giận một lần thôi là thuốc sẽ không hiệu quả. Cô con dâu từ đó cho
bà uống thuốc và cố không làm bà giận, mà khi con người ta không giận
thì chỉ có vui trở lên. Sau một năm cô con dâu đến gặp thầy và khóc xin
sao cho mẹ chồng đừng chết nữa, vì cô đã rất yêu mến mẹ chồng và bà mẹ
chồng cũng rất yêu mến cô. Vị thầy cười bảo, thuốc đó là củ sâm, chỉ có
tốt chứ không độc, và báo cho cô biết mọi chuyện đã thay đổi kể từ khi
chính cô thay đổi cách sống, thay đổi thái độ của cô với bà mẹ chồng. Tu
là chuyển nghiệp, tức sửa chữa mình thì sẽ thay đổi số phận. Đi đến
cùng của khái niệm này ta sẽ thấy quả thật là “Vạn pháp do tâm tạo”.
Thế giới này xét cho cùng là thế giới ở trong ta, thế giới ta nhận
thức. Thế giới được ta quan sát là quan trọng hơn rất nhiều cái thế
giới thực mà con người khó có thể nắm bắt. Cái tâm ta đối diện với mặt
trăng quan trọng hơn rất nhiều bản thân cái mặt trăng khô khốc bụi đất,
hoặc mặt trăng có chị Hằng chú Cuội ở trên. Thượng Đế có thật hay không
không quan trọng bằng thái độ của chúng ta khi đối diện với một Thượng
Đế thật hoặc không có một Thượng Đế nào cả. Có
nghĩa là, với Phật giáo, thì cái tâm của mình là một thế giới cần được
khám phá hơn bất cứ điều gì khác. Các tầng mức giác ngộ, các tầng thánh
quả, chính là các tầng mức hiểu biết về cái tâm của mình. Và
Freud cũng vậy, cả sự nghiệp của ông là sự nghiệp khám phá những góc
khuất sâu kín, tối tăm thậm chí bỉ ổi, thối tha nhất mà không ai dám
thừa nhận trong tâm hồn con người. Kéo con người đừng nhìn ra ngoài nữa
mà hãy nhìn vào cái động lực, trên đó từng mỗi hành vi hình thành là
mục đích của cả Freud và Phật giáo. Quán nhân duyên, biết mỗi sự việc
xảy ra (quả) là từ cái nguyên nhân (nhân) nào đưa đến là trí tuệ cao
nhất mà mỗi Phật tử đều mưu cầu. Làm
chủ sanh tử há không phải là làm chủ bản năng đấy sao? Các tổ Thiền
tông cũng thường bảo, phá tan được cái hầm sâu vô thủy vô minh ấy thì
kiến tánh thành Phật! Có một điều cần chú ý là, nhà Phật hay nói lìa
tri kiến, sở tri chướng, tức những hiểu biết, kiến thức, nhận thức luôn
là những trở ngại trên con đường đạt đến sự giác ngộ. Chỗ này thì Lão
Tử và Đạo Đức Kinh lại có một tương đồng khác nữa. Nếu hiểu bản năng
chính là Vô minh thì ta sẽ hiểu một tầng nghĩa khác của nó, đó chính là
sự hiểu biết không bao giờ, và sẽ không bao giờ, chế ngự được bản năng.
Chỉ có sự không biết, thiền định ở mức độ “vô nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt,
thân, ý” (không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý-Bát Nhã Tâm Kinh); hoặc “tâm như tường bích” (tường đá) (Bồ Đề Đạt Ma); hoặc Vô Sở trụ (kinh Kim Cang);
tức ở cái chỗ mà tâm con người ta không đứng, không dựa trên bất cứ
điều gì cả, tức chỗ không biết cái gì cả, không ý thức cái gì cả, thì
hầm sâu vô minh sẽ bị phá, đó là lúc mà Bản Năng sẽ không còn “quấy
rầy” con người nữa, con người thực sự mất đi phần CON để trở thành một
NGƯỜI đúng nghĩa. Đó
là nói phần khác nhau trong giải quyết vấn đề, giữa Freud và Phật giáo,
sau khi nhìn thấy sự tác động mạnh mẽ của bản năng đến đời sống tinh
thần của con người. Freud thì lôi nó ra đặt nó trên mặt bàn của ý thức,
và ông đã chữa được nhiều bệnh tâm thần cho con người. Phật giáo thì
không vậy, thật ra lôi tất cả ra dưới ánh sáng của ý thức cũng là đường
lối của nhiều tông phái Phật giáo, tuy nhiên, cái mục đích cuối cùng
của Phật giáo thì phải phá tan cái hầm sâu “Vô thủy vô minh” ấy. Làm
sao phá, đó là một chuyện vô cùng lớn và không thể bàn trong một bài
báo. Ở đây, chỉ với những cái nhìn ban đầu, chỉ với những bước đi đầu
tiên nhằm tìm thấy những góc khuất trong đời sống tinh thần con người
chúng ta đã thấy với công cụ “Phân tâm học” do Freud lập nên, có lẽ sẽ
là điều kiện tốt nhất để mỗi Phật tử, và để mỗi người có thể nhận ra
những động cơ sâu kín nhất trong mình, vẫn thường thôi thúc mình hành
động thế này chứ không phải thế khác, tạo nên “quả” này chứ không phải
“quả” khác. Để rồi từ đó hình thành nên một con người thực sự thông
tuệ, không còn bị những bản năng tăm tối hoặc vô thức vớ vẩn nào đó
điều khiển nữa. Đó há không phải là mục đích cao nhất mà nhân loại vẫn
mưu cầu từ hàng chục ngàn năm qua đấy sao?
Và
lần thứ ba là Freud với Phân tâm học; khi ai cũng chắc như đinh đóng
cột rằng ý thức của con người ta (trong đó có trí tuệ, nhận thức và sự
hiểu biết) là thiêng liêng và mạnh mẽ, nó quyết định mọi hành vi của
con người ta, là điểm khác biệt giữa con người và động vật khác; thế
nhưng Freud, với sự phân tích tâm lý của con người ta một cách xuất sắc
và trung thực của mình đã bảo rằng: Không phải vậy! Vô thức và bản
năng, những thứ rất gần, nếu không nói là giống hệt với động vật, mới
là những điều quyết định rất nhiều đến hành vi của con người! Có thể ví
von để dễ hình dung, ý thức như cái con rối mà vô thức và bản năng là
kẻ đứng sau giật dây, điều khiển mọi chuyện. Điều này thì “khó chịu”
chẳng khác gì khi nghe Darwin bảo con người ta vốn là từ con khỉ mà
thành. Nó khó chịu đến mức con người thường ngụy tạo nên những cái vỏ,
cái áo mỹ miều để khoác lên cái động lực rất bản năng chẳng khác với
con khỉ, con chó là mấy. Mặc cảm Edip, cái mặc cảm của kẻ giết cha và
lấy mẹ của con người thời bầy đàn kéo dài hàng triệu năm (cần nhớ rằng
con người văn minh mới chỉ có chừng 20.000, nếu không nói là chỉ 10.000
năm trở lại đây thôi) đến giờ vẫn còn ám ảnh đâu đó trong vô thức con
người và tạo nên những hành vi, căn bệnh tâm thần mà chỉ có nhờ Freud
với sự Phân tâm mới có thể chữa hết được. Rồi bản năng tính dục, cái
chuyện vặt mà ai cũng xấu hổ khi nói đến ấy thì Freud lại bảo rằng
chính nó đã khiến cái thế giới này hình thành, nó khiến cái xã hội con
người này cứ như sôi lên sùng sục suốt mấy ngàn năm qua; bao cuộc chiến
tranh, bao kẻ tội đồ, bao thánh nhân, bao triết gia, bao nhà thơ, bao
của cải... là cũng từ cái nguồn năng lượng vĩnh viễn không bao giờ chịu
vơi cạn ấy mà hình thành. Đè nén nó là như lấy giấy mà gói lửa. Không
tin ư? Bạn hãy cứ hỏi con mắt bạn khắc biết, tại sao cái bóng hồng giữa
đám đông kia lại hút ánh nhìn của bạn đến vậy?