Theo bước chân Hậu hiện đại
(TiaSang)- Vào thập niên 60 của thế kỉ trước, khuynh hướng hậu hiện đại đã được các nghệ sĩ và giới trí thức áp dụng rộng rãi tại New York, sau đó được các triết gia và lí thuyết gia châu Âu triển khai vào thập niên 70. Nhưng mãi đến đầu những năm 80 hậu hiện đại như là một lí thuyết, mới ra ...
(TiaSang)- Vào thập niên 60 của thế kỉ trước, khuynh hướng hậu hiện đại đã được các nghệ sĩ và giới trí thức áp dụng rộng rãi tại New York, sau đó được các triết gia và lí thuyết gia châu Âu triển khai vào thập niên 70. Nhưng mãi đến đầu những năm 80 hậu hiện đại như là một lí thuyết, mới ra đời tại Pháp; rồi du nhập trở lại vào Hoa Kì để tạo thành một trào lưu tác động rộng rãi đến nhiều lãnh vực: văn học-nghệ thuật, chính trị-xã hội... trên khắp thế giới. Từ châu Âu, châu Úc cho đến châu Mỹ Latin và cả châu Á: Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc... Đứng trước trào lưu mang tính toàn cầu ấy, Việt Nam không thể đứng ngoài.
Dù
chậm, nhưng ngay từ đầu thế kỉ XXI, các nhà phê bình và dịch thuật ta
cũng đã kịp giới thiệu lí thuyết văn nghệ này đến với người đọc. Nhiệt
tình hơn cả có thể kể vài tên tuổi: Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc Tuấn,
Nguyễn Văn Dân, Phương Lựu, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Phan Tấn Hải...Và
mới nhất, các vấn đề lí thuyết và thực tiễn sáng tác hậu hiện đại đã
trình làng khuôn mặt khá đậm nét của mình cho người đọc bằng bộ sách
hai tập dày cộm). Thơ hậu hiện đại Việt, kẻ khai mào
Vậy mà, mãi đến hôm nay, đại đa số giới chữ
nghĩa ta vẫn còn dị ứng với/sợ hãi cái “từ” hậu hiện đại. Nghe nói và,
hãi! Từ thành phần thủ cựu đến kẻ [tự nhận] cách tân, thế hệ đàn anh
hay các người viết trẻ, nhà phê bình cho đến kẻ sáng tác... Thử xem 2
phát biểu mới nhất:
“Chủ nghĩa “hậu hiện đại”, chủ nghĩa “Tân hình
thức” ngày nay cũng đang ế khách và tàn lụi dần ở phương Tây (...) Theo
một bài báo của một GS Mỹ thì hằng năm mới có một người mua sách này ở
các hiệu sách(?). Còn ở ta nó là một món hàng mới, không dễ gì nó vượt
qua rào cản người đọc ở nước ta” (Mai Quốc Liên, 2006).
“Nhiều bạn
trẻ đồng hành của tôi mải mê dồn sức lực dồi dào và quý giá nhất đời
người vào những cách tân đã lỗi thời ở nước ngoài (...) như “hậu tân
thi trào” đã được chôn vùi ở Trung Quốc từ thập niên 80 của thế kỉ
trước (...) hay hình thức thơ đã thải hồi ở phương Tây như “thơ hậu
hiện đại”, “thơ dự phóng”, “thơ trình diễn” (...) hoàn toàn xa lạ với
văn hóa người Việt cặm cụi chịu thương chịu khó” (Lê Thiếu Nhơn, 2006).
Trong lúc Hoàng Ngọc Tuấn dự cảm "chẳng bao lâu nữa lối viết hậu
hiện đại sẽ trở nên phổ biến ở Việt Nam" thì Lê Chí Dũng, một giảng
viên Đại học kết luận đinh đóng rằng: "chủ nghĩa hậu hiện đại, với tư
cách là một trào lưu văn học, không có tiền đồ ở Việt Nam (Báo Thể
thao-văn hóa, 2004).
Làm sao có thể khẳng định như vậy, khi hạt giống hậu hiện đại chưa được gieo đúng cách vào cánh đồng văn học Việt Nam?
Có thể nói không ngoa rằng, Bùi Giáng là nhà thơ đầu tiên sáng tác theo cảm thức hậu hiện đại, hoặc gần như thế.
Sáng
tác của Bùi Giáng giai đoạn sau, nhất là các bài thơ mà tỉ lệ từ Hán
lấn át. Có khi bài thơ chỉ là một chuỗi liên hệ âm, thanh, vần, phép
nói lái trong ngôn ngữ nối tiếp hoặc chồng chéo lên nhau, lồng vào nhau
như thể một ma trận chữ vô nghĩa; rồi cả chuỗi hình ảnh, ý nghĩ dẫm đạp
lên nhau, xô đẩy, nhảy cóc rối tù mù. Bùi Thy Sỹ điên chữ là vậy. Tất
cả nói lên điều gì? Ngôn ngữ không thể khám phá ra cái gì cả! Và làm
thơ như thể là một nhập cuộc vào trò đùa bất tận, trò đùa qua/trong sự
bất lực đến tận cùng của ngôn ngữ; ở đó, thi sĩ phó thác mình cho ngôn
ngữ thao túng, dồi tung.
Sống giữa xã hội đang chiến tranh leo thang
ác liệt, hàng ngày và khắp xung quanh, tai nghe tiếng bom đạn nổ, mắt
chứng kiến đổ vỡ của quê hương, văn chương bất lực và ngôn ngữ bất lực;
thay vì rời bỏ cuộc chơi như anh chàng Rimbaud xưa từng làm hoặc khóc
than sự “sinh nhầm thế kỉ” như phản ứng tiêu cực của vài nhà thơ lãng
mạn, Bùi Giáng quyết chơi tới cùng với nó.
Bồ câu mái đậu một con
Đường vui cố quận hao mòn bữa nay
Anh xin em giỡn một ngày
Rồi xin rỡn mãi suốt ngày hôm sau.
Cho
nên, đọc Bùi Giáng, dù ông bàn chuyện nghiêm túc, nghiêm trọng chúng ta
cứ như thấy ông đang đùa; hoặc cho dù ông đang buồn bã ủ dột, người đọc
vẫn cứ cảm thấy vui. Bùi Giáng luôn biết nói điều hệ trọng bằng một lối
khinh khoái nhẹ nhàng. Một Lão niên Thy sỹ vui vẻ, như ông tự nhận! Đó
là một trong những thái độ căn bản của nghệ sĩ hậu hiện đại.
Trở
lại với hiện trạng về nhìn nhận thơ của sinh hoạt văn học Việt Nam hiện
thời. Bởi chưa tiếp cận hệ mĩ học của trào lưu văn nghệ này, nên cả
giới sáng tác lẫn phê bình cứ giật mình thột mỗi khi nhắc đến hậu hiện
đại. Từ đó sáng tác hậu hiện đại Việt không thể mon men gần chứ chưa
nói nhập dòng chính lưu. Tôi nói: thơ hậu hiện đại chứ không là nhà thơ
hậu hiện đại. Bởi một nhà thơ có thể đăng/in sáng tác chính thống
(phi-hậu hiện đại) ở các loại báo chính lưu, nhưng với các bài thơ hậu
hiện đại của chính mình thì không! Cũng có nhóm thơ hay các cá nhân nhà
thơ tự/bị đặt mình vào tư thế của kẻ sáng tác ngoài lề, thế đối trọng
với các quan điểm được thừa nhận của người cùng thời, cách quyết liệt.
Như là định mệnh của người nghệ sĩ hậu hiện đại.
Sáng tác phẩm của
họ chủ yếu in photocopy hay được đăng trên báo điện tử, trong lẫn ngoài
nước. Đây là thời điểm thích hợp nhất cho sáng tác hậu hiện đại Việt
xuất hiện và dọc ngang thể hiện mình. Hàng loạt Website văn học xuất
hiện: Tienve, Evan, Gio-o, Tapchitho... 3, 4 năm qua.
Nếu nói rằng
nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930-45 (đặc biệt là Thơ Mới và tiểu
thuyết) gắn liền với sự ra đời và phát triển của báo chí tiếng Việt,
thì thơ hậu hiện đại Việt hình thành và gắn kết chặt chẽ với Website.
Là giải pháp/lối thoát cho những thi sĩ không được lề thói sinh hoạt
văn nghệ kiểu cũ dung nạp.
Nhà văn hậu hiện đại viết như thế nào?
“Các
nhà văn hậu hiện đại cũng không còn kêu gọi nỗ lực cách tân nữa, dù họ
vẫn tiếp tục tạo nên những cái mới. Đối với họ cách tân là thuộc tính
cố hữu của nghệ thuật, chứ không phải là một mục tiêu cách mạng nữa
(...). Họ cũng không quá khổ công tạo nên những kĩ thuật hoàn toàn mới,
thay vào đó, họ thoải mái tái sử dụng tất cả những gì sẵn có trong kho
tàng văn chương nhân loại, từ văn phong đến kĩ thuật” (Hoàng Ngọc Tuấn,
2003).
Tái sử dụng là sáng tạo. Phỏng nhại (pastiche), châm biếm
(irony), nhại giễu (parody), lắp ghép ngẫu nhiên (collage)... là sáng
tạo. Tất tần tật cái trên trần đời này đều có thể trở hành chất liệu
cho nhà văn sử dụng. Xoá bỏ mọi trung tâm và giải-khu biệt hóa
(de-differentiation): cao hay thấp cấp, cũ/mới, thanh cao/dơ bẩn, đặc
tuyển/đại chúng... chủ nghĩa hậu hiện đại đang mở ra một khả thể vô hạn
cho nhà văn trong nền văn chương của sự đầy tràn (The Literature of
Replenishment, John Barth, 1980).
Cảm thức như thế, mang tinh thần
sáng tạo như thế, nhà văn hậu hiện đại trong hiện trạng của mình không
tránh khỏi vai trò kẻ ngoài lề nổi loạn, bởi luôn “bài bác” những khuôn
sáo tư duy, những quan điểm đã được thừa nhận của thời đại mình
(I.P.Ilin, 1996).