Trương Vĩnh Ký và chuyến Âu‐du 1863‐1864
Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Ảnh khucquanhanh.vn Nguyễn Vy Khanh Sau khi ba tỉnh miền Đông mất vào tay người Pháp (Hiệp ước Bonard 5‐6‐ 1862, vua Tự Đức ký 16‐4‐1863), vua Tự Đức đã gởi sứ bộ Phan Thanh Giản sang Pháp điều đình xin chuộc lại các tỉnh đó. Phái đoàn do Phan Thanh ...
Nguyễn Vy Khanh
Sau khi ba tỉnh miền Đông mất vào tay người Pháp (Hiệp ước Bonard 5‐6‐ 1862, vua Tự Đức ký 16‐4‐1863), vua Tự Đức đã gởi sứ bộ Phan Thanh Giản sang Pháp điều đình xin chuộc lại các tỉnh đó. Phái đoàn do Phan Thanh Giản làm chánh sứ (‘Như Tây chánh sứ’), Phạm Phú Thứ phó‐sứ và Ngụy Khắc Đản bồi‐sứ, tổng cộng 65 người. Phái đoàn rời kinh thành Huế ngày 27‐6‐1863 trên chiếc tàu Echo và chính thức rời Sài‐Gòn ngày 4‐7 trên tàu chiến Européen (thuyền trưởng là Henri Rieunier), chuyến hải‐hành đi qua Tân‐ gia‐ba, Sumatra, Tích‐lan, Aden, Ai‐cập, Jérusalem, La‐mã, đảo Corse. Khi đến kinh Suez ngày 17‐8, lúc bấy giờ kinh chưa đào, phái đoàn đổi sang đi xe lửa từ Suez đến Alexandrie, được cựu phó vương Ismaïl‐Pacha tiếp đón, ở lại Ai‐cập đến cuối tháng 8‐1863 đổi sang tàu Labrador để đi Toulon. Ngày 13‐9‐1863, tàu đến Paris sau khi ghé Toulon và Marseille. Sau gần hai tháng chờ đợi, ngày 5‐11‐1863, phái đoàn mới được vào triều kiến Pháp hoàng Napoléon III ở điện Tuileries. Từ 10‐11 đến 22‐11‐1863 sứ bộ đến Tây‐ban‐nha thương thảo (Palanca đồng ký Hiệp ước 1862) rồi lên đường về, ghé Ý‐đại‐lợi. Ngày 2‐12‐1863, Trương Vĩnh Ký yết kiến Giáo hoàng Pio IX ở Roma. Ngày 18‐3‐1864 phái đoàn về tới Saigon và ngày 28‐3 đến kinh‐đô Huế. Chuyến đi được xem như thất bại vì vua Napoléon III và chính phủ Pháp đã không hứa hẹn gì về việc xét lại hiệp ước! Tháng Tư 1864, triều đình Pháp muốn bỏ rơi Cochinchine, chính Henri Rieunier đứng đầu nhóm thuyết phục nhà vua giữ lại (ký bút hiệu H. Abel xuất bản 2 tập La Question de Cochinchine au Point de vue des intérêts français và Solution pratique de la Question de Cochinchine ou Fondation de la politique française dans lʹExtrême‐Orient).
Về chuyến Âu‐du này, chánh‐sứ Phan Thanh Giản đã có một số bài thơ trong tập Lương Khê Thi Thảo. Phó‐sứ Phạm Phú Thứ khi trở về đến kinh thành Huế đã dâng lên vua Tự Đức tập Như Tây Sứ Trình Nhật Ký (còn được ghi là Giá Viên Biệt Lục, Tây Hành Nhật Ký và Tây Phù Nhật Ký). Phạm Phú Thứ viết tập Nhật Ký ghi chép việc từng ngày trong chuyến công du, Phan Thanh Giản và Ngụy Khắc Đản duyệt lại (1). Ông còn là tác‐giả tập thơ Tây Phù Thi Thảo liên hệ đến chuyến đi này.
Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn cho sứ bộ Phan Thanh Giản theo lời yêu cầu của chánh‐sứ họ Phan (2) và có viết một bài về chuyến đi bằng tiếng Tây‐ban‐nha ‐ ʺAlguna reflexions de su viaje por Europaʺ, một bài tiếng Pháp đăng trên tạp chí Paris (Novembre 1863) và theo tương truyền ông còn viết Nhựt trình đi sứ Lang‐sa (1863). Khoảng thời gian đó, một số tạp chí bác học Âu‐châu đã đăng bài của ông như Bulletin de la Société de géographie (1863) (3). Ông cũng được cử làm hội viên của Hội chuyên khảo về Con Người (Société dʹethnographie de Paris), và Hội chuyên học á‐châu (Société asiatique). Năm 1873, Trương Vĩnh Ký đại diện cho Việt‐Nam và là thành viên ban tổ chức Hội nghị quốc tế đầu tiên về Đông phương học (Congrès international des orientalistes) gồm 33 nước tham dự. Đến năm 1889, nhân Hội chợ quốc tế (Expo) tại Paris, Trương Vĩnh Ký lại đại diện Việt‐ Nam dự Hội nghị quốc tế về dân tộc học (Congrès international des sciences ethnographiques).
Jean Bouchot trong Pétrus J.B.Trương Vĩnh Ký 1837‐1898 (Saigon : Paulus Cua, 1927) cho biết rằng chính Trương Vĩnh Ký đã dịch bài diễn văn của Phan Thanh Giản đọc ở điện Tuileries. Trong buổi nói chuyện ở trú‐quán Việt‐Nam, Trương Vĩnh Ký đã so sánh khá lý thú hai nền chính trị Âu Á. Nhờ thông thạo ngoại ngữ, khi ở Pháp, Trương Vĩnh Ký đã làm quen được với giới trí thức bản xứ như Victor Hugo, Émile Littré, Duruy, BS Alexis Chavannes, Ernest Renan, Paul Bert,… Ngoài các viên chức triều đình và thành phố Paris, phái đoàn còn được gặp nhiều nhân vật tên tuổi thuộc nhiều giới, hai sứ thần Nhật‐bản và Úc‐đại‐lợi cũng như hậu‐duệ giám mục Bá‐Đa Lộc (Pigneaux de Béhaine) và gia đình những người Pháp: Ph. Vannier tên Việt là Nguyễn Văn Chân (vợ là bà Nguyễn Thị Liên và hai con trai Nguyễn Văn Lễ, gái Marie, v.v.), J.B. Chaigneau (con trai tên Michel Đức Chaigneau), v.v. (1). Riêng Henri Rieunier (thuyền trưởng Européen, sau lên đến chức bộ trưởng Hải quân) trở thành tâm giao với Trương Vĩnh Ký vừa là bạn vừa cùng chung nghiên cứu về ngôn ngữ và văn hóa Việt‐Nam, sau nhiều năm đồn trú ở Sài‐gòn, đã trở lại thăm Trương Vĩnh Ký và gia đình nhiều lần, những năm 1876, 1877 rồi 1885.
*
Các vị tiền bối của chúng ta đã nhận xét về Âu Tây như thế nào? Đâu là những cảm nghĩ đích thực của những người Việt đầu tiên đặt chân đến Âu‐châu? Chúng tôi đã tình cờ khám phá được một ấn‐ phẩm viết bằng tiếng Pháp, tựa là Impressions dʹun japonais en France suivies des impressions des Annamites en Europe (recueillies par Richard Cortambert (1836‐1884). Paris : Achille Faure, 1864. 208 pages), do Richard Cortambert thu thập và nhà xuất bản Achille Faure ở Paris ấn hành năm 1864 ‐ tức ngay sau chuyến Âu‐du của sứ bộ Phan Thanh Giản. Phần viết về Trương Vĩnh Ký từ trang 179 đến 205. Phần chính của tập sách ghi lại theo đề‐mục những cảm tưởng của sứ thần người Nhật‐bản có mặt ở Paris cùng thời với sứ bộ Việt Nam.
Trương Vĩnh Ký đã ghi nhận như sau về chuyến đi Âu châu: ʺTôi trở về với tâm hồn sung sướng vô cùng. Thành phố Ba‐ lê, một đô thị uy nghi nhứt hoàn cầu mà tôi có dịp thăm viếng vào năm 1863, và tôi cũng đã gập gỡ nhiều thân hữu danh tiếng và bác học, nhứt là văn học và khoa học. Khi xa rời những buổi học tập cao quý đó, tôi đã thu thập nhìều kinh nghiệm và nhiều kiến thứcʺ (4). Như vậy, Trương Vĩnh Ký muốn dựa vào kẻ mạnh về khoa học và giáo dục, để làm việc với ước mong dân tộc Việt‐Nam tiến bộ và hướng về phía trước! Và trong bản tường trình của Richard Cortambert mà chúng tôi giới thiệu đây, khi được hỏi ʺnếu nước Pháp (Gallia), cứ địa của văn học, chẳng phải là đất nước của trí thức ông và như thế thì đó cũng là quê hương thật sự của ôngʺ, Trương Vĩnh Ký đã đáp lại rằng ʺcon người ta có hai quê hương, một của lý trí và một của con tim; người ta nâng niu quê này nhưng đồng thời tha thiết với quê kia, và có cả hai, ông nhận chân rõ rằng trong tâm hồn ông rằng ông được sinh ra ở vùng Đông‐phương; rằng đó là quê hương đích thực của ôngʺ.
Trương Vĩnh Ký đã hội kiến Victor Hugo là người đã dám chống lại guồng máy và chính trị của Louis‐Napoléon Bonaparte và có vẻ đã tiếp thu quan điểm của nhà văn này về các thuộc địa. Sự tiếp xúc với văn minh Âu‐châu có thể đã cho Trương Vĩnh Ký những kỳ vọng về khả năng canh tân và phát triển phong hóa và văn minh Việt Nam bằng cách tiếp nhận văn hóa và kỹ thuật phương Tây, cùng lúc làm sống lại các thành tố văn hóa cố hữu của Đông‐phương. Sau này, vào năm 1880, Trương Vĩnh Ký từng nhắn gửi học trò trong đó có Diệp Văn Cương (Chủ bút tờ Phan Yên Báo 1868) và Nguyễn Trọng Quản (tác‐giả Thầy Lazarô Phiền, truyện đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ năm 1887), khi Trương Minh Ký dẫn đoàn sinh viên sang Alger (Bắc Phi) du học; ông đã tiễn dặn họ: ʺ Hãy đi đi và hãy trở về, như những con chim, biết tha những cọng cỏ khô làm tổ hạnh phúc cho dân tộc mìnhʺ. Trương Vĩnh Ký và các hậu sinh đã thực sự tin tưởng ở quá trình tiếp thụ văn hóa Pháp sẽ giúp Việt Nam đạt được văn minh tiến bộ và độc lập.
Khi chúng tôi giới thiệu văn bản đây về Trương Vĩnh Ký thì các nhà nghiên cứu sử như Nguyễn Thị Chân Quỳnh và Vũ Ngự Chiêu cũng như trong nước chưa thấy nhắc đến tài liệu này. Bản văn đã được viết lại, thanh lọc, dĩ nhiên theo cảm quan và nhận thức của Richard Cortambert, người ghi lại các cuộc gặp gỡ và đối thoại, nhưng những gì đã xảy ra và các ý chính thế nào cũng vẫn được ghi nhận và diễn tả. Câu văn dài của thời đó (nhiều