Tố Hữu là nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Trải qua một khoảng thời gian dài hơn nửa thế kỷ, tiếng thơ ông đã có tác động sâu xa đến tư tưởng và tình cảm của độc giả nhiều thế hệ. Con đường thơ ấy là hành trình đi tìm và bắt gặp sự kết hợp diệu kỳ giữa Cách mạng và dân tộc trong nghệ thuật thơ ca.
1. Tiểu sử
Tên khai sinh : Nguyễn Kim Thành
Ngày sinh : 4-10-1920.
Ngày mất: 9- 12 -2002
Quê quán: Hội An, tỉnh Quảng Nam (dù nhiều tài liệu, sách báo thường ghi ông sinh tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế)
Tố Hữu sỉnh trưởng trong một nhà nho nghèo, cho ông tuy không đỗ đạt và phải chật vật để kiếm sống bằng nhiều nghề nhưng lại ham thơ và thích sưu tầm ca dao, tục ngữ. Từ thưở nhỏ, ông đã được cha dạy làm thơ theo những lối cổ. Bà mẹ Tố Hữu là con một nhà nho, thuộc nhiều ca dao, dân ca xứ Huế và rất giàu tình thương con. Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học (Huế). Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin, Maxim Gorky… qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với ý tưởng cộng sản. Ông trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Đòan thanh niên Dân chủ ở Huế và được kết nạp vào Đảng Cộng sản năm 1938.
4/1939, ông bị bắt, bị tra tấn và giam tại nhiều nhà tù miền Trung như Lao Bảo, Huế, Ban Mê Thuột…
1942, ông vượt ngục Đắc Lay (Kon Tum), vượt hàng trăm cây số đường rừng, thóat khỏi sự vây lùng của kẻ thù tìm về hoạt động bí mật ở Hậu Lộc, Thanh Hóa. Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông là chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa của thành phố Huế, lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố quê hương, nơi đầu não của bộ máy chính quyền phong kiến. Năm 1946, ông là bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa.
Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:
1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam;
1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam;
Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức;
Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư;
Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương;
Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị;
1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng cho tới năm 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.
1958, ông tham gia dập tắt phong trào Nhân văn-Giai phẩm đòi dân chủ của các văn nghệ sĩ miền Bắc.
Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng Ban Thống nhất Trung ương, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khoá II và VII.
Ông mất 9h15′ ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện 108 (Hà Nội).
2. Các giải thưởng
Giải nhất giải thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 (tập thơ Việt Bắc)
Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái Lan năm 1996 cho tập thơ "Một tiếng đờn".
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (đợt 1, 1996)
Huân chương Sao Vàng (1994)
Nguồn: http://vi.wikipedia.org/