18/06/2018, 15:47

Thuyết âm mưu về người Do Thái

(một tập hợp các bài viết từ ttvnol.com) Tại sao dân Do Thái thống trị phương Tây? Jenna1987 dịch thuật, biên soạn Chính quyền Obama chính thức công nhận “mưu đồ Do Thái” Cuối cùng thì chính quyền Obama cũng mất cảm giác thực tại, khi mà tháng 4-5 năm ...

Zionist-octopus-over-White-House

(một tập hợp các bài viết từ ttvnol.com)

Tại sao dân Do Thái thống trị phương Tây? 

Jenna1987 dịch thuật, biên soạn

Chính quyền Obama chính thức công nhận “mưu đồ Do Thái”

Cuối cùng thì chính quyền Obama cũng mất cảm giác thực tại, khi mà tháng 4-5 năm nay đã chính thức thừa nhận “âm mưu Do Thái” ở Mỹ và thế giới. Điều đó làm cho ngay cả các tổ chức Do Thái cũng cảm thấy bị sốc. Những gì đồn thổi trước đó giờ được nghe từ chính Washington. Giờ người ta biết ai chính xác ai buộc phải vì ai mà cổ xúy LGBT và thừa nhận đám cưới đồng tính ở mức Liên bang.

Tờ “Washington Post”, ngày 21-5-2013 khi được đón tiếp bởi Ủy ban quốc gia của Đảng dân chủ, trong tháng lễ “Di sản Do Thái” đã viết, phó TTg Mỹ Biden khi đăng đàn phát biểu tại lễ này đã công nhận vai trò đặc biệt của Do Thái trong ý tưởng đám cưới đồng tính, mà lúc đó đã được thừa nhận ở một số bang Mỹ.

Bên cạnh đó, ông ta tuyên: “85% của mọi đổi thay diễn ra ở gần đây ở Hollywood và truyền thông đại chúng, trở thành có thể chỉ vì các chi nhánh Do Thái… đứng đầu những ảnh hưởng khổng lồ… thực sự khổng lồ…” Biden lưu ý, ảnh hưởng Do Thái trong lĩnh vực “… thay đổi luật pháp di cư, phong trào quyền dân sự và các thành tựu nữ quyền – feminism”.

Theo người đứng vai thứ 2 trong chính quyền Obama, “chúng ta (Mỹ) – là quốc gia vĩ đại với lòng vô cùng tôn kính cảm ơn sự đóng góp đem đến cho chúng ta từ di sản của người Do Thái và các nguyên lý Do Thái”.

Bài phát biểu cảm động của ông phó dường như quá đáng quá đối với cả người nghe bình thường. Vì thế, Johnathan Cheyt từ tờ tạp chí “New York” phỏng đoán rằng bài phát biểu của ông phó đã gián tiếp thừa nhận “âm mưu Do Thái”, và thậm chí làm cho người ta kích động chống Do Thái, các nhân vật Do Thái uy quyền khác ở Mỹ có mặt ở buổi lễ cũng chẳng thích thú gì với bài phát biểu quá hứng của Jô. Nhưng ông phó nghĩ hành động như thế chả làm kinh động các nhà lãnh đạo Mỹ và giới truyền thông, ngoài các bề trên kín đáo Do Thái ở Mỹ.

Có những điều tế nhị mà các bề trên biết và các “chuyên gia lịch sử” của họ biết và bằng mọi cách không muốn bị lật ngửa trong các văn kiện, tư liệu Nhà trắng và các nguồn chính thức, bởi nó có thể gây ra thái độ rất tiêu cực ngay cả đối với quá khứ xa xưa, thời vị TT Mỹ đầu tiên George Washington (1732-1799), khi ông này nói thẳng rằng: “Chúng hành động chống chúng ta có hiệu quả hơn quân đội kẻ thù của chúng ta. Chúng nguy hiểm hàng trăm lần hơn đối với tự do của chúng ta và vấn đề nghiêm trọng này chúng ta đang phải đối mặt. Chỉ có một điều xót xa, là các bang đã không tiêu diệt chúng từ lâu như kẻ gây họa cho xã hội và như kẻ thù nguy hiểm nhất đối với sự bình yên của nước Mỹ”. (nguồn: Max George Washington Appleton & Co.)

Gần 250 năm sau…

Dĩ nhiên loại như Jô, sẽ chả biết Washington là ai. Bởi nếu biết, hắn đã phải xấu hổ nhục nhã với ông tổ nước Mỹ lắm lắm. Tất nhiên Jô cũng chả biết, những Slogan vĩ đại về tự do dân chủ và nhân quyền cũng đã mục nát từ lâu. 

Jô chỉ biết có ông chủ Do Thái. Nhưng không phải lúc nào chó liếm chân chủ, cũng được chủ âu yếm thích thú, lại còn bị đá cho phát đau điếng, chúng ta biết rồi.

Nhưng hóa ra là từ Abraham Lincoln đến Barack Obama hiện nay, chẳng những lời răn dạy của các ông tổ sáng lập nước Mỹ đã bị đập vỡ, mà còn công khai qui phục Do Thái, công khai thừa nhận ảnh hưởng Do Thái là vô độ! 

Nhưng Jô chả có bất cứ quyền gì để làm như thế. Nếu ông tổ Washington có đội mồ sống dậy, tất phải vả cho vỡ mặt lũ hậu sinh hèn hạ ô nhục.

Tại sao giới bề trên DT thấy căng thẳng với những gì Jô phun ra? Kinh tế, chính trị, văn hóa, đời sống xã hội, mọi phong trào dân chủ nhân quyền, cho đến nữ quyền hay đồng tính… chẳng chừa cái gì mà Do Thái không thống trị. Nhưng nói ra điều ấy, là cấm kỵ. Bởi nó có thể gây ra làn sóng chống đối rộng khắp. Và có thể bị qui là “phát biểu căm hờn” hay anti-Semitic.

Chẳng riêng gì Washington, trong 2000 năm qua, mọi lãnh đạo thế giới này, vua, hoàng đế, sa hoàng… đều chẳng muốn thấy một lãnh thổ quốc gia Do Thái như Mỹ. Hóa ra, từ đầu thế kỷ XX,Mỹ đã bị môn đệ của quỷ Satan biến thành bệ phóng để hiện thực hóa “âm mưu thống trị thế giới” của Do Thái, thứ mà ông phó Jô vừa thú nhận tháng 5 vừa qua.

Để làm bằng chứng, về điều các nhà lãnh đạo thế giới không muốn, xin dẫn ra đây một số:

Napoleon Bonaparte (Pháp): “Sở hữu mọi làng mạc là bọn kẻ cướp Do Thái, chúng xây dựng lại chế độ nông nô, chúng là bầy quạ thực sự. Sự bần cùng là Do Thái gây ra, không phải từ một cá nhân đơn độc, mà từ toàn thể giống người này. Chúng giống như đàn sâu, hay châu chấu, ăn nước Pháp”.

Mobuchum Okuma (nhà khoa học Nhật): “Do Thái trên khắp thế giới phá hoại chủ nghĩa yêu nước và nền tảng sức mạnh quốc gia”.
Ivan Franco (Ukraine): “Khi tôi đọc rất nhiều sách Mác-xít, CNXH, chủ nghĩa tự do và dân chủ, đằng sau mỗi thứ đó tôi đều thấy sự xảo quyệt mà Do Thái sắp đặt”.

Peter the Great (hoàng đế Nga 1672-1725): “Tôi muốn thấy đất nước tôi là của Mohammet và đa thần hơn là Do Thái. Cái giống này lừa lọc và gian trá. Chúng phải không được phép định cư và gây ra vấn đề cho chúng ta. Bất chấp lệnh của tôi, chúng vẫn cố đút lót các cận thần của tôi, với mục đích đòi công bằng. Tôi nhổ tận gốc lũ quỷ xứ, thay vì dung thứ chúng. Sẽ không có buôn bán hay trú ngụ nào ở Nga cho chúng, cho dù chúng có cố gắng đút lót hối lộ bao nhiêu đi chăng nữa”.

Elizabeth Petrovna (Russian empress. 1709-1761) : “DT cư trú ở những phần khác nhau của Nga. Từ đó chúng ghét Christ và tôi chẳng trông mong gì tốt đẹp. Đối với tình cảnh này, tôi đã công bố sắc lệnh sau đây: Tất cả DT, đàn ông phụ nữ, bất kể hoàn cảnh và sự giàu có, cùng tất cả tài sản phải bị quét sạch ra khỏi biên giới. Từ bây giờ trở đi, không cho phép dưới bất cứ hoàn cảnh nào đi vào Nga, trừ khi cải sang tín ngưỡng Christian Hy lạp;”

Ivan IV (Sa Hoàng 1530-1584) : “Juda tiến vào Nga với các con buôn không đứng đắn, từ đó chúng gây ra nhiều tai họa, chở thuốc độc đã nấu vào Nga và người Christians xa lánh Christianity”.

Marcus Cicero (nhà diễn thuyết Roma. TCN) 

“Dân DT thuộc về lực lượng bóng tối và ghê tởm. Ai mà biết được bè lũ này đông đảo như thế nào, chúng cố kết cùng nhau và có thể tỏ ra có sức mạnh như thế nào nhờ sự đoàn kết của mình.”

Diodorus Siculo (sử học Hy Lạp 30 TCN):

“Những người bạn của vua Antiochus Syria (223-187 TCN) khuyên nhà vua trục xuất dân DT, những kẻ không muốn sống hòa hợp với người khác và coi họ là kẻ thù”.

Lucius Seneca (triết gia Roman, 4 TCN): “Sắc dân này (DT) – là bệnh dịch hạch. Nó có thể có được ảnh hưởng như thế đến chúng ta – kẻ thắng cai trị bằng luật của mình.”

Những đại gia đình đang thống trị thế giới

Chỉ cần gõ cụm từ “The Large Families that rule the world” vào google, dễ tìm được hàng loạt trang cùng nói 1 chủ đề: kẻ nào đang thống trị thế giới ngày nay.

Ví dụ trong số kết quả có Pravda.ru: http://english.pravda.ru/business/fi…e_the_world-0/

Một số người đã bắt đầu nhận ra rằng có những tập đoàn tài chính lớn đang thống trị thế giới. Không kể đến các mưu đồ chính trị, xung đột, các cuộc cách mạng và chiến tranh. Nó không phải là tình cờ. Tất cả mọi thứ đã được lên kế hoạch từ lâu.

Một số gọi nó là “lý thuyết âm mưu” hay New World Order. Dù sao, điều chính yếu để hiểu các sự kiện chính trị và kinh tế hiện nay là một hạt nhân hẹp các gia đình, những kẻ đã tích lũy được nhiều của cải và quyền lực.

Chúng ta đang nói về 6, 8 hoặc có thể 12 gia đình thực sự đang thống trị thế giới. Biết rằng điều đó là một bí ẩn khó làm sáng tỏ.

Chúng ta sẽ không xa sự thật bằng cách trích dẫn Goldman Sachs, Rockefellers, Loebs Kuh và Lehmans ở New York, Rothschild Paris và London, Warburgs của Hamburg, Paris và Lazards ở Israel, Moses Seifs ở Rome.

Nhiều người đã nghe nói về Nhóm Bilderberg, Khai sáng (Illuminati) hoặc Hội tam điểm. Nhưng tên của những gia đình, những kẻ đang vận hành thế giới này và kiểm soát các quốc gia, các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, NATO hay IMF là gì?

Để cố gắng trả lời câu hỏi này, chúng ta có thể bắt đầu với những điều đơn giản nhất: tóm tắt những nhà băng lớn nhất thế giới, và xem ai là cổ đông và ai đưa ra quyết định.

Các nhà băng lớn nhất thế giới hiện nay là: Bank of America, JP Morgan, Citigroup, Wells Fargo, Goldman Sachs và Morgan Stanley.

Bây giờ chúng ta xem xét các cổ đông của họ là ai.

Bank of America:
State Street Corporation, Vanguard Group, BlackRock, FMR (Fidelity), Paulson, JP Morgan, T. Rowe, Capital World Investors, AXA, Bank of NY, Mellon.

JP Morgan:
State Street Corp., Vanguard Group, FMR, BlackRock, T. Rowe, AXA, Capital World Investor, Capital Research Global Investor, Northern Trust Corp. và Bank of Mellon.

Citigroup:
State Street Corporation, Vanguard Group, BlackRock, Paulson, FMR, Capital World Investor, JP Morgan, Northern Trust Corporation, Fairhome Capital Mgmt và Bank of NY Mellon.

Wells Fargo:
Berkshire Hathaway, FMR, State Street, Vanguard Group, Capital World Investors, BlackRock, Wellington Mgmt, AXA, T. Rowe và Davis Selected Advisers.

Chúng ta có thể thấy rằng có nhóm hạt nhân có mặt và lặp lại trong tất cả các nhà băng: State Street Corporation, Vanguard Group, BlackRock và FMR (Fidelity). Để tránh lặp lại tên của họ, bây giờ chúng ta sẽ gọi họ là “tứ đại gia”.

Goldman Sachs:
“Tứ đại gia”, Wellington, Capital World Investors, AXA, Massachusetts Financial Service và T. Rowe.

Morgan Stanley:
“Tứ đại gia”, Mitsubishi UFJ, Franklin Resources, AXA, T. Rowe, Bank of NY Mellon e Jennison Associates. Rowe, Bank of NY Mellon và Jennison Associates.

Chúng ta có thể chỉ mới xác định tên của các cổ đông lớn. Để đi xa hơn, chúng ta có thể cố gắng tìm hiểu về các cổ đông của những công ty này và các cổ đông của các ngân hàng lớn trên toàn thế giới.

Bank of NY Mellon:
Davis Selected, Massachusetts Financial Services, Capital Research Global Investor, Dodge, Cox, Southeatern Asset Mgmt. và … “tứ đại gia”.

State Street Corporation (1 trong 4 “tứ đại gia”):
Massachusetts Financial Services, Capital Research Global Investor, Barrow Hanley, GE, Putnam Investment và … “tứ đại gia” (cổ đông của chính nó!).

BlackRock (1 trong 4 “tứ đại gia”):
PNC, Barclays e CIC.

Ai đứng sau PNC? FMR (Fidelity), BlackRock, State Street, v, v.
Và ai đứng sau Barclays? BlackRock.

Và chúng ta có thể mất nhiều giờ đi qua thiên đường thuế tại quần đảo Cayman, Monaco hoặc nơi cư trú hợp pháp của công ty Shell ở Liechtenstein. Một mạng lưới nơi các công ty luôn luôn là giống nhau, nhưng không bao giờ có tên của một đại gia.

Tóm lại: 8 công ty tài chính lớn nhất nước Mỹ (JP Morgan, Wells Fargo, Bank of America, Citigroup, Goldman Sachs, US Bancorp, Bank of New York Mellon và Morgan Stanley) được kiểm soát 100% bởi 10 cổ đông và chúng ta có 4 công ty luôn luôn hiện diện trong tất cả các quyết định: BlackRock, State Street, Vanguard và Fidelity.

Ngoài ra, Cục Dự trữ liên bang Mỹ – FED (cũng là 1 nhà băng có tên gọi như vậy) bao gồm 12 nhà băng, được đại diện bởi một hội đồng quản trị 7 người, trong đó bao gồm các đại diện của “tứ đại gia”, mà lần lượt có mặt trong tất cả các thực thể khác.

Tóm lại, FED được điều khiển bởi bốn công ty tư nhân lớn: BlackRock, State Street, Vanguard và Fidelity. Các công ty này kiểm soát chính sách tiền tệ của Mỹ (và thế giới), mà không có ai kiểm soát chúng hay có lựa chọn “dân chủ”. Các công ty này làm ra và tham gia vào cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay trên toàn thế giới và để đạt được mục đích trở thành giàu có hơn.

Để kết thúc, nhìn vào một số các công ty bị kiểm soát bởi nhóm “tứ đại gia” này:

Alcoa Inc.
Altria Group Inc.
American International Group Inc.
AT&T Inc.
Boeing Co.
Caterpillar Inc.
Coca-Cola Co.
DuPont & Co.
Exxon Mobil Corp.
General Electric Co.
General Motors Corporation
Hewlett-Packard Co.
Home Depot Inc.
Honeywell International Inc.
Intel Corp.
International Business Machines Corp
Johnson & Johnson
JP Morgan Chase & Co.
McDonald’s Corp.
Merck & Co. Inc.
Microsoft Corp.
3M Co.
Pfizer Inc.
Procter & Gamble Co.
United Technologies Corp.
Verizon Communications Inc.
Wal-Mart Stores Inc.
Time Warner
Walt Disney
Viacom
Rupert Murdoch’s News Corporation.,
CBS Corporation
NBC Universal

Cùng một “tứ đại gia” kiểm soát phần lớn các công ty châu Âu trên thị trường chứng khoán.

Ngoài ra, tất cả những kẻ điều hành các tổ chức tài chính lớn như Quĩ tiền tệ quốc tế – IMF, Ngân hàng Trung ương châu Âu – ECB và Ngân hàng Thế giới – WB, đã được “đào tạo” và vẫn là “nhân công” của “tứ đại gia”, kẻ thành lập ra các tổ chức này.

Tên của các gia đình kiểm soát “tứ đại gia”, không bao giờ xuất hiện. Nhưng chắc chắn là Do Thái.

Tài phiệt tài chính đứng đầu mọi cuộc chiến tranh!

Giới tài phiệt ngân hàng, khẳng định ảnh hưởng của họ trong các ngành công nghiệp bằng cách cung cấp dòng tín dụng cần thiết để sản xuất trong/ngoài nước, dân sự/quân sự. Trong trường hợp bán hàng quân sự, các chính phủ khác nhau mua thì phải trả trước/đặt cọc tại các ngân hàng bảo lãnh cho thương vụ. Các hãng định giá thì trông chờ vào sự hợp tác với các công ty sản xuất để cung cấp một dòng cam kết bảo lãnh trọng về tín dụng, và cân nhắc nó khi lượng giá vấn đề rủi ro của công ty. Lãi suất tín dụng lớn làm cho các công ty sản xuất thu được lợi nhuận thấp (nôm na là phải trả lãi quá nhiều) khi phải vay mượn tiền từ các tổ chức tài chính.

Ngoài ra các tổ chức tài chính còn cung cấp dịch vụ tư vấn/cố vấn cho bộ phận tài chính các công ty công nghiệp làm sao để họ có thể tạo cán cân thu chi cho có hiệu quả nhất, làm sao để đầu tư tiền, tài sản của họ cho sinh lợi và cung cấp cho họ hiểu biết về việc mua, sát nhập, loại bỏ, liên doanh với các công ty khác, về rủi ro đầu tư mạo hiểm, về ngoại hối, và tạo điều kiện tiếp cận với thị trường vốn khi công ty muốn phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Các ngân hàng cũng quản lý phần tài sản trả lương của các công ty và rốt cục là tất cả các nguồn tài chính cần thiết để hoàn thành dự án/công trình của các công ty. Điều hiển nhiên là các dịch vụ này không phải là miễn phí.

Kẻ lớn nhất trong thị trường vũ khí là Boeing, không chỉ chế tạo máy bay dân sự, máy bay quân sự, hệ thống phòng thủ tên lửa, thông tin liên lạc vũ trụ, mà còn có các nhà băng đỡ đầu mà nhờ đó có thể cung cấp cho các khách hàng các giao dịch thương mại/tài chính của nó. Hơn 30 ngân hàng ở Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á-Thái Bình Dương đã nhận gửi dịch vụ của họ cho Boeing.

Northrop Grumman, làm ăn hoàn toàn trong lĩnh vực công nghệ quốc phòng, nó được các ngân hàng sau cung cấp tài chính: Bank of America, JP Morgan Chase, Deutsche Bank (đứng thứ 27), Credit Suisse First Boston (đứng thứ 31), Lehman Brothers Holding (đứng thứ 83) và những nhà băng khác.

Lockheed Martin, nhờ có nhiều mối quan hệ có ảnh hưởng với chính phủ, nên là nhà thầu số 1 của các hợp đồng quốc phòng, Lockheed chế tạo F-16 và các loại máy bay chiến đấu, tên lửa Patriot, vệ tinh và một mảng các hệ thống khác. Một trong những kẻ bảo lãnh và là đại diện thân thuộc của Lockheed Martin là JP Morgan Chase. Morgan cung cấp bảo lãnh, bảo hiểm tài sản của nó ra khắp thế giới.

Công ty Raytheon, một nhà sản xuất quân sự lớn khác được giúp đỡ bởi Citigroup, Bank of America, Credit Suisse First Boston, và JP Morgan Chase.

General Dynamics, sản xuất xe bọc thép Stryker, xe tăng M1 Abrams và gần đây là MRAP (Mine Resistant Ambush Protected), nhận dịch vụ chủ yếu từ Bank of America và JP Morgan Chase.

Giá trung bình của máy bay chiến đấu trên thị trường là khoảng $80 triệu, ví dụ giá sản xuất F-35 (JSF) do Lockheed Martin chế tạo khoảng $50 triệu. Giá của Stryker khoảng $2 triệu. Giá xe tăng Abrams khoảng $4,3 triệu. Giá MRAP khoảng $2 triệu và cuối cùng giá 1 quả tên lửa Patriot khoảng $2 triệu.

Đó là lý do tại sao chẳng hạn, Lockheed Martin, báo cáo dự kiến sẽ tăng 34% lợi nhuận quý II 2007, bởi Lockheed có thu nhập cao hơn từ máy bay chiến đấu và hệ thống điện tử, trong khi phải trả lương thấp hơn (International Business Times 2007). Thu nhập cả năm của Lockheed sẽ là $41,1 tỷ, nhờ chiến tranh Afghan, Iraq và những cuộc xung đột khắp thế giới. Và như Washington Post cho biết, còn bao nhiêu những công ty vũ khí khác khác thu lời từ những xác chết trên chiến trường. “General Dynamics tìm thấy lợi nhuận trên chiến trường-” (2006).

Tướng Smedley Butler (1881 – 1940), marine nhiều công danh nhất trong lịch sử nước Mỹ, đã một lần đã viết rằng, chiến tranh là cái máy phản lực: “Lợi nhuận làm ăn thông thường ở Mỹ là 6, 8, 10 và đôi khi 20%. Nhưng trong chiến tranh lợi nhuận-ah! Đó là vấn đề khác, 20, 60, 100 và thậm chí cả 1800%. Khi một công ty sản xuất dân sự chuyển sang sản xuất quân sự, lợi nhuận của nó lên như pháo thăng thiên.”

Không hẳn là chiến tranh, ví dụ chống khủng bố cũng đem đến lợi nhuận lớn cho những công ty này. Để lấy làm ví dụ, người ta đọc được qua tin tức, Lockheed Martin – nhà tài trợ chính của cuộc đảo chính Chile năm 1973 – được Trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa tệ nạn (CDC-Disease Control and Prevention) chọn tiếp tục cung cấp hàng hỗ trợ cho Chi nhánh văn phòng phối hợp sẵn sàng chống khủng bố và phản ứng nhanh. chỉ riêng phần thưởng này, 5 năm hợp đồng ước lượng giá đã $135 triệu.

Gắn bó khăng khít với chiến tranh Iraq, là công ty Halliburton của ông phó diều hâu Cheney (xếp hạng 291) hay còn gọi là quí ngài điều hành “Biệt đội thần chết”, có tài sản $16,82 tỷ, được tham gia vào việc thăm dò/sản xuất dầu khí và tái thiết Iraq sau khi chiếm đóng. Halliburton có quan hệ chặt chẽ với Hoàng gia Saudi và được bảo trợ bởi JP Morgan Chase, HSBC Mỹ, Bank USA, Royal Bank of Scotland và Citigroup như là đại diện quản trị. Citigroup điều hành ngân hàng Saudi-American (SAMBA) cho đến năm 2003, và ngầm điều khiển nó sau khi xâm lược Iraq. Thủ tướng Pakistan, Shaukat Aziz – được Tổng thống Musharraf bổ nhiệm – là giám đốc quản lý của SAMBA trong những năm 90. Cả đứng đầu Saudi Arabia và Pakistan trong việc thu lời từ cuộc chiến Iraq.

Shaw Group là nhà cung cấp các hệ thống ống dẫn, kỹ thuật và dịch vụ xây dựng ở Iraq. Kết hợp với công ty quốc tế được bảo trợ này là Bank of America, JP Morgan Chase, Ngân hàng Hoàng gia Canada (thứ 77) và Ngân hàng Nova Scotia, Canada (hạng 127).

Bechtel là một công ty kỹ thuật và xây dựng khổng lồ hoạt động tại Iraq, và được đỡ đầu chủ yếu là từ Bank of America và Export-Import Bank. Công ty này đã có và có quan hệ chặt chẽ với các chính quyền Mỹ khác nhau – cả cộng hòa và dân chủ – và cũng với gia đình hoàng gia Saudi. Riley Bechtel, chủ sở hữu chính của nó đã bổ nhiệm G. W. Bush làm cố vấn.

Để chuẩn bị các cấp độ khác nhau của chính phủ và công chúng cho các cuộc chiến tranh – tại Afghanistan và Iraq – những hãng quốc tế khổng lồ này sử dụng các Thùng ý tưởng (think-tanks) như Hội đồng Quan hệ đối ngoại, và trả rất nhiều tiền. Và cũng như vậy, thường xảy ra là các quan chức nhận hối lộ và công chúng bị ném bom những bịa đặt dối trá hay giả mạo về nguy cơ gì đó qua các phương tiện truyền thông.

Để tăng cường mối liên hệ giữa chính phủ, vốn đầu tư tài chính và cánh công nghiệp, và trao đổi những kinh nghiệm và thủ đoạn giữa họ với nhau, các quan chức cấp cao, các viên quản trị và điều hành được luân chuyển lên xuống liên tục từ các ngân hàng đến các ghế trong chính phủ đến các công ty và ngược lại. Ví dụ, 2 viên quản trị chính điều hành Bechtel sang làm ngoại trưởng và bộ trưởng quốc phòng trong chính quyền Reagan. George Schultz, cựu chủ tịch Bechtel, cựu ngoại trưởng Mỹ là một kẻ ủng hộ mạnh mẽ cuộc chiến chống Iraq và cũng như thế, Dick Cheney “rời” Halliburton để làm phó tổng thống trong chính quyền G. W. Bush. Ví dụ khác, tháng 2 2001, Northrop thông báo rằng Lewis W. Coleman, cựu Chủ tịch chứng khoán LLC – Bank of America, trở thành thành viên của ban giám đốc Northrop.

Và để nhấn mạnh giới tài phiệt đã làm thế nào để điều khiển chính phủ, ở đây chúng ta đã đề cập đến những gã tài chính khổng lồ như Citigroup – kẻ có số lớn tài sản đến vụ cướp bóc Ngân hàng TW Haiti – JP Morgan Chase và HSBC Holdings, kiểm soát Federal Reserve Cartel qua cổ phần của ngân hàng.

Trong khi cuộc sống bình thường của dân chúng căng thẳng bởi tất cả các loại thuế, thì đặc biệt là những công ty khổng lồ này lại được giảm thuế lớn. Tham nhũng đã trở thành không thể kiềm chế được trong tất cả các lĩnh vực và ở mọi cấp độ của xã hội. Ví dụ trong việc buôn bán vũ khí quốc tế, khoảng $2,5 tỷ được chi trả như hối lộ. Vốn tài chính để mở mang đầu tư ra các thị trường mới bằng cách hối lộ lớn, nếu không phải bằng vũ lực tàn bạo.

Trước đây, chính phủ Mỹ thông báo rằng họ sẽ cho phép bán khoảng $60 tỷ vũ khí cho Israel, Ai Cập, Ả Rập Saudi và vùng Vịnh với cái cớ mối đe dọa Iran, (ABC News). Trong cùng ngày đại sứ Hoa Kỳ ở Liên Hợp Quốc đã cáo buộc Saudi Arabia và đồng minh Mỹ trong khu vực, phá hoại nỗ lực kiềm chế bạo lực ở Iraq. Nói cách khác, điều quan trọng là kiếm tiền lớn và lớn hơn nữa từ lợi nhuận buôn bán vũ khí ngọt ngào, không có vấn đề gì với cuộc sống đắng cay của hàng triệu người Iraq và hàng ngàn người Mỹ đang sa lầy trong cuộc chiến Iraq.

Có câu hỏi: những đồng tiền này đến từ đâu? Câu trả lời là – ngoại trừ trong trường hợp của Israel – những đồng tiền này đến từ việc bán rẻ tài nguyên thiên nhiên của các nước lạc hậu và vay mượn với lãi suất cao từ cùng các ngân hàng quốc tế, mà không bao giờ có thể trả được, vì tiền lãi ngày càng chồng chất lên tiền lãi. Và trong chủ đề ngân sách chính phủ Mỹ, đó là tiền của người nộp thuế mà thay vì được sử dụng cho các phúc lợi xã hội lại bị đem ra phục vụ cái mồm ngày càng tham lam của con quái vật chiến tranh. Khoảng 41% hay hơn ngân sách chính phủ Mỹ hàng năm $650 tỷ đến với các cuộc chiến tranh.

Mối liên hệ giữa vốn đầu tư tài chính, chính phủ, và cánh công nghiệp tác động to lớn về mọi mặt đến xã hội và thiên nhiên. Chúng kéo xã hội đến bản năng động vật của chúng. Chúng phá hủy một quốc gia và cho vay tiền để xây dựng lại nó, một lần nữa phá hủy nó và lại xây dựng lại nó – thậm chí là trên giấy – tất cả chỉ để đạt được lợi nhuận sau lợi nhuận, vớ bẫm nhiều chiều, và quan trọng nhất là qua việc tăng cổ phần nắm giữ của chúng bằng cách thao túng cung-cầu của những hàng hóa đặc biệt như dầu mỏ.

Một lần nữa trong trường hợp của Iraq, “Bộ trưởng Iraq sẽ có thể vay hàng tỷ đô la để mua nhiều trang thiết bị cần thiết từ các nhà cung cấp nước ngoài, nhưng chỉ được bằng cách thế chấp doanh thu dầu mỏ quốc gia qua 1 ngân hàng được quản lý bởi 1 ngân hàng New York của nhà băng đa quốc gia JP Morgan Chase. (CorpWatch)

Để đi đến kết luận, mối liên hệ giữa vốn đầu tư tài chính, chính phủ và giới công nghiệp có thể mô tả dưới tên TỔ HỢP TÀI CHÍNH-CÔNG NGHIỆP. Nhưng thuật ngữ này không phản ánh toàn bộ các khía cạnh của liên minh làm ăn này, bởi vì giới công nghiệp và chính phủ Mỹ, chính họ bị kiểm soát bởi các nguồn vốn tài chính hay giới tài phiệt.

Nhà băng Do Thái cho vay cách mạng Mỹ

Cuộc đời Haym Salomon (1740-1785) được ca ngợi như anh hùng hy sinh cho cách mạng Mỹ, thí dụ như nguồn Wikitree http://www.wikitree.com/wiki/Salomon-1

Đọc nó, rõ ràng hắn ta là 1 kênh cho các quỹ của Do Thái Illuminati kiếm tiền bằng cách tài trợ cuộc Cách mạng Mỹ.

Tất cả các cuộc cách mạng lớn ( Anh, Mỹ, Pháp và Nga ) đều được nhà băng Do Thái thiết kế và trục lợi, sử dụng các công cụ hội kín Tam điểm, một giáo phái Satan dựa trên các phép thuật Do Thái.

Các cuộc cách mạng được thiết kế để quét đi những trật tự cũ dựa trên nền tảng Kitô giáo, bằng tiền Do Thái cho vay với lãi suất cắt cổ cho tất cả các bên, và để lại một xã hội hỗn loạn để các nhà băng Do Thái trục lợi 1 lần nữa, dù cách mạng có thành công hay không cho đến khi chúng thống trị cả thế giới bằng NOW.

Napoleon là 1 gian hùng được chúng dựng lên trong đống tro tàn cách mạng Pháp 1789. Hắn ta sử dụng tiền bạc vay của Do Thái phá tan hoang châu Âu suốt bao nhiêu năm. Nhưng cuối cùng, chính hắn cũng nhận ra. Chúng ta nghe những câu cay đẳng của Napoleon và Washington

“Sở hữu mọi làng mạc là bọn kẻ cướp Do Thái, chúng xây dựng lại chế độ nông nô, chúng là bầy quạ thực sự. Sự bần cùng là Do Thái gây ra, không phải từ một cá nhân đơn độc, mà từ toàn thể giống người này. Chúng giống như đàn sâu, hay châu chấu, ăn nước Pháp”.

“Chúng hành động chống chúng ta có hiệu quả hơn quân đội kẻ thù của chúng ta. Chúng nguy hiểm hàng trăm lần hơn đối với tự do của chúng ta và vấn đề nghiêm trọng này chúng ta đang phải đối mặt. Chỉ có một điều xót xa, là các bang đã không tiêu diệt chúng từ lâu như kẻ gây họa cho xã hội và như kẻ thù nguy hiểm nhất đối với sự bình yên của nước Mỹ”.

Bài cũ cứ lặp đi lặp lại suốt mấy thế kỷ. Thời đại ngày nay, bài cũ đó biến đổi đi một chút

Mối liên hệ giữa vốn đầu tư tài chính, chính phủ, và cánh công nghiệp tác động to lớn về mọi mặt đến xã hội và thiên nhiên. Chúng kéo xã hội đến bản năng động vật của chúng. Chúng phá hủy một quốc gia và cho vay tiền để xây dựng lại nó, một lần nữa phá hủy nó và lại xây dựng lại nó – thậm chí là trên giấy – tất cả chỉ để đạt được lợi nhuận sau lợi nhuận, vớ bẫm nhiều chiều, và quan trọng nhất là qua việc tăng cổ phần nắm giữ của chúng bằng cách thao túng cung-cầu của những hàng hóa đặc biệt như dầu mỏ.

Ở Mỹ, Do Thái lập ra các nhà băng để làm cách mạng Mỹ. Điều này giải thích lý do tại sao phần lớn các thành viên sáng lập, tổng thống và các nghị sĩ đã (và đang cả ngày nay ) là hội viên Tam Điểm, và tại sao biểu tượng Masonic ở khắp mọi nơi.

 Và điều đó cũng giải thích lý do tại sao, sau khi phục vụ mục đích của nó, Mỹ đang bị suy yếu. Trong cuộc khủng hoảng miệng vực tài chính hiện tại, những lời của James Wardner âm vang rõ ràng :

“Tôi ở đây để nói với bạn rằng sự tàn tạ của tiêu chuẩn sống Mỹ đã được lên kế hoạch từ đầu… ở cấp cao nhất của chính phủ Mỹ – một kế hoạch để phá sản, một kế hoạch để tạo ra bất ổn và đảo lộn, một kế hoạch để làm cho người Mỹ thành nông nô trong trật tự thế giới mới! ” – THE PLANNED DESTRUCTION OF AMERICA (1993)

Nhân loại đang trong sự kìm kẹp của giáo phái Satan mà hầu hết các “lãnh đạo” của chúng tôi thuộc về nó. Điều gì có thể là sai ?

Trong ngôi đền người Mỹ Do Thái anh hùng, Haym Salomon đã thành huyền thoại. Cuộc đời hắn ta ngắn gọn là đầy biến động, và ảnh hưởng đến hình ảnh nước Mỹ là rất lớn.

Cục Bưu chính Mỹ ban hành một con tem ca ngợi Salomon như một “anh hùng tài chính của cuộc cách mạng Mỹ. ” Tượng đài tưởng niệm Salomon, George Washington và Robert Morris được dựng lên ở East Wacker – Chicago và Beverly Hills – California, là nơi đất nhà của tổ chức gọi là Hội người Do Thái yêu nước và Hội Bạn bè của Haym Salomon.

đài tưởng niệm Salomon, George Washington và Robert Morris

đài tưởng niệm Salomon, George Washington và Robert Morris

Sinh ở Lissa, Ba Lan, năm 1740, Salomon đã có nhiều năm di chuyển khắp tây Âu và Anh, nói ttrôi chảy một số thứ tiếng và chúng phục vụ tốt cho phần còn lại của cuộc đời mình.

Đến New York năm 1772, hắn ta nhanh chóng khẳng định mình là một thương gia và buôn chứng khoán nước ngoài (broker) thành công. Nổi bật là làm quen với Alexander MacDougall, lãnh đạo của Hội các con trai nữ thần tự do ở New York (Sons of Liberty), Salomon đã trở thành nhà hoạt động vì lòng yêu nước. Hội các con trai của nữ thần tự do là một hội Tam điểm, mà lập ra đảng chè Boston hay còn gọi là trà đảng (tea Party), cái đảng này một cánh hoạt động của nhà băng Do Thái Illuminati.

Như mọi khi, lúc chúng sắp đặt xong mọi thứ thì chiến tranh nổ ra vào năm 1776, Salomon có hợp đồng cung ứng cho quân đội Mỹ ở trung tâm New York. Năm 1777, hắn lấy Rachel Franks, người có anh trai Isaac là một trung tá dưới quyền George Washington. Ketubah – bản ghi chép cưới xin của họ hiện để ở Hội lịch sử Do Thái Mỹ.

Lửa cách mạng bùng lên thiêu rụi nhiều chỗ ở New York, binh lính Anh bắt và giam cầm Salomon. Sau hắn được thả và người Anh hy vọng sẽ sử dụng kỹ năng ngôn ngữ của hắn để giao tiếp với lính đánh thuê Đức của họ.

Thay vào đó, Salomon ngấm ngầm khuyến khích lính đánh thuê đào ngũ. Lại bị bắt lần nữa vào đầu năm 1778, Salomon bị tịch thu tài sản. Một tòa đánh trống đầu kết án hắn bị treo cổ. Nhưng Salomon đã trốn thoát có thể là với sự giúp đỡ của Sons of Liberty và chạy trốn không một xu dính túi đến Philadelphia. Vợ và con của cũng đi ngay sau đó.

Ở Philadelphia, Salomon tiếp tục hành nghề môi giới. Bộ trưởng Pháp bổ nhiệm hắn làm chân trả lương chung cho các lực lượng Pháp chiến đấu chống Anh cùng phía Mỹ. Chính phủ Hà Lan, và Tây Ban Nha cũng đề nghị hắn bán chứng khoán để hỗ trợ các khoản cho vay đối với Quốc hội Lục địa.

Năm 1781, Quốc hội Mỹ đã thành lập Văn phòng Tài chính để cứu Mỹ từ đống đổ nát tài chính. Salomon liên minh với Giám đốc Tài chính William Morris và trở thành một trong những nhà broker hiệu quả nhất trong hối phiếu để đáp ứng chi phí của chính phủ liên bang. Cá nhân Salomon vẫn cho các thành viên của Quốc hội Lục địa và các viên chức liên bang khác vay tiền, tính lãi và hoa hồng thấp hơn giá thị trường. James Madison đã thú nhận rằng: “Tôi có một thời gian… là một người hưu trí dựa trên sự ủng hộ của Haym Salomon, một nhà môi giới Do Thái.”

Trong khi hỗ trợ nước Mỹ, Salomon cũng đóng vai trò nổi bật ở Philadelphia và các vấn đề của cộng đồng Do Thái, là thành viên của ông hội đồng quản trị thánh Mikveh Israel Philadelphia, thủ quỹ của Hội Philadelphia vì du khách nghèo, và tham gia tòa án giáo đoàn Do Thái đầu tiên. Salomon đã giúp đứng đầu cuộc chiến thành công bãi bỏ lời thề cấm người Do Thái và không Kitô hữu giữ chức vụ công ở Pennsylvania.

Salomon hoạt động trong bối cảnh của một xã hội, và một thời đại, mà thời đó coi mọi Do Thái đều như những kẻ cho vay nặng lãi và cào tiền.

Năm 1784, viết như “Một người môi giới Do Thái”, Salomon phản đối cáo buộc rằng các thương gia Do Thái trục lợi. Salomon nghĩ rằng là bất công khi buộc tội như thế là “bừa bãi về người Do Thái của thành phố này nói chung… vì những lỗi lầm của một vài người”. Sự Salomon bảo vệ hăng hái các đồng sự của mình đã đưa Salomon lên thành huyền thoại.

Salomon liều lĩnh cả cơ đồ của mình, cam kết cho vay trên danh nghĩa cách mạng, trên tự do tôn giáo. Mặc dù thất bại tài chính vào cuối đời, nhưng tên Salomon gắn liền với chủ nghĩa lý tưởng và sự thành công của cuộc Cách mạng Mỹ, và sự đóng góp của Do Thái để thực hiện cho lý tưởng tự do Mỹ.

Solomon là mỏ tiền, nguồn cung cấp thực phẩm và trang thiết bị cho binh lính Washington. Tướng George Washington biết rằng ông ta luôn luôn có thể dựa vào Haym Salomon để đảm bảo nguồn tiền để chiến đấu với quân đội cựu Lục địa.

Trong chiến dịch Yorktown, Solomon cho Washington vay 350 ngàn bảng và sử dụng hầu như toàn bộ số tiền có hoặc được ủy nhiệm, từ cộng đồng Do Thái để cho vay, nên được coi là người hùng tài chính của cuộc Cách mạng Mỹ. Vào cuối của cuộc chiến tranh, năm 1783, một phần nhỏ của số tiền được hoàn trả nhưng hầu hết nó không bao giờ được hoàn trả. Cuộc đời Salomon là không phải tất cả là thắng lợi. Một tay buôn tiền thành công trong những năm đầu 1780, và qua đời vào năm 1785 để lại một vợ và bốn đứa con nhỏ với các khoản nợ lớn hơn tài sản của ông ta. Khi con trai Salomon kiến nghị Quốc hội để đòi tiền nợ của cha mình, các ủy ban khác nhau đã từ chối thừa nhận tuyên bố của gia đình. Năm 1936, Quốc hội đã bỏ phiếu để xây dựng một đài tưởng niệm Salomon ở Columbia, nhưng kinh phí xây dựng thực tế không bao giờ được cấp.

Người Do Thái bị trục xuất 47 lần trong 1000 năm – Tại sao?

Tại sao lại thường xuyên như vậy? Tại sao lại bị ở tất cả các quốc gia và các nền văn hóa? 
Tại sao không có dân tộc nào khác có được kỳ tích bị trục xuất bằng 1 phần nhỏ như thế?

Hay sống khép kín trong các ghetto kín cổng cao tường, chỉ có duy nhất 1 lối vào. Theo tôn giáo bị coi là quái thai dị dạng, phản động chưa từng có thứ dị giáo nào so được và hay… làm cách mạng.

Henry Ford, ông tổ của ngành công nghiệp ô tô Mỹ và thế giới có lẽ hiểu rõ nhất và có một phần câu trả lời về sự ngược đãi người Do Thái? Tài sản của Henry Ford không những bị đám nhà băng Do Thái nuốt trọn. Chúng còn biến quỹ Ford, với ý định ban đầu tử tế, thành nơi cấp tiền làm cách mạng khắp thế giới. Chúng làm Henry Ford, một người Mỹ có tài năng thực sự, làm giàu từ lao động sáng tạo của mình ô danh.

“Cái thiên tài của người Do Thái là sống dựa vào người, không dựa vào đất đai, hay sản xuất các hàng hóa từ nguyên liệu thô, mà dựa vào người. Người khác trồng trọt trên đất đai, người Do Thái, nếu có thể, sẽ sống dựa vào người trồng trọt. Người khác làm nghề buôn bán và sản xuất, người Do Thái sẽ khai thác những thành quả của công việc họ. Đó là tài năng đặc biệt của Do Thái. Nếu tài năng này được mô tả là ký sinh trùng, thì thuật ngữ có vẻ là hợp lý.”

“Dân tộc của người DT là duy nhất sở hữu các bí mật của tất cả phần thế giới còn lại… không có chính phủ nào trên thế giới phục tùng họ trọn bộ như Mỹ. ‘Anh quốc cũng như thế… Đức cũng như vậy’ khi họ là Do Thái quốc tế, kẻ đã làm được điều này.”

“Người Mỹ là những kẻ (bây giờ người ta biết thế) bẩn thỉu, đê tiện, tham lam, độc ác. Tại sao? Bởi quyền lực-tiền bạc Do Thái tập trung ở đây.” – Ông Henry Ford.
Chỉ tính ở châu Âu, những người Do Thái đã bị trục xuất 47 lần trong 1.000 năm qua. Dưới là trích đoạn từ sách Đạo Do Thái của quỉ Sa tăng – The Synagogue of Satan của Andrew Carrington Hitchcock nói về một số lần người Do Thái bị trục xuất:

Mainz, 1012
Pháp, 1182
Upper Bavaria, 1276
Anh, 1290
Pháp, 1306
Pháp, 1322
Saxony, 1349
Hungary, 1360
Bỉ, 1370
Slovakia, 1380
Pháp, 1394
Áo, 1420
Lyons, 1420
Cologne, 1424
Mainz, 1438
Augsburg, 1438
Upper Bavaria, 1442
Hà Lan, 1444
Brandenburg, 1446
Mainz, 1462
Lithuania, 1495
Bồ Đào Nha, 1496
Naples, 1496
Navarre, 1498
Nuremberg, 1498
Brandenburg, 1510
Phổ, 1510
Genoa, 1515
Naples, 1533
Ý, 1540
Naples, 1541
Prague, 1541
Genoa, 1550
Bavaria, 1551
Prague, 1557
Đức Giáo Hoàng, 1569
Hungary, 1582
Hamburg, 1649
Vienna, 1669
Slovakia, 1744
Mainz, 1483
Warsaw, 1483
Tây Ban Nha, 1492
Ý, 1492
Moravia, 1744
Bohemia, 1744
Moscow năm 1891

Còn trong cuốn sách L’antisémitisme son histoire et ses causes (Chống Xê-mít trong lịch sử và các nguyên nhân của nó), xuất bản năm 1894, của tác giả người Do Thái Bernard Lazare, nêu ra ý kiến sau về việc người Do Thái bị trục xuất:

Nếu đó là thù nghịch, thậm chí là ác cảm, đối với người Do Thái tại một thời kỳ và ở một quốc gia, thì sẽ dễ dàng để làm sáng tỏ nguyên nhân của sự tức giận này, nhưng sự phân biệt đối xử này ngược lại là đối tượng của lòng căm thù cho tất cả các dân tộc tự lập. Do đó, kể từ khi những kẻ thù của người Do Thái có chủng tộc đa dạng nhất, họ sống ở các nước rất xa nhau, bị cai trị bằng pháp luật rất khác nhau, chi phối bởi các nguyên tắc đối nhau, không cùng một tinh thần đạo đức, hay phong tục tập quán, được cổ vũ bởi khuynh hướng khác nhau mà không cho phép họ phán xét bất cứ điều gì theo cùng một cách, vì thể mà nguyên nhân chung của việc chống Xê-mít luôn luôn tự nằm tại chính Israel và không phải trong những người chiến đấu chống lại Israel.

Giáo sư Jesse H. Holmes viết trên American Hebrew, nói rõ ý kiến cũng tương tự như sau:
Thật khó có thể là một tai nạn khi mà sự phản kháng chống lại người Do Thái lại thấy ở khá nhiều khắp mọi nơi trên thế giới, những nơi người Do Thái và người không Do Thái có mối liên hệ. Và như người Do Thái là yếu tố chung của hoàn cảnh này thì dường như, trên tất cả, nguyên nhân sẽ được tìm thấy ở trong họ chứ không phải là trong các nhóm rất đa dạng và khác nhau cảm nhận thấy sự phản kháng này.

Do Thái Zionist đứng sau nạn diệt chủng người Armenia

Trong các năm 1915-1923, cuộc diệt chủng người Armenia đã làm cho hơn 1 triệu đến 3,7 triệu người Armenia bị thiệt mạng bàn tay của đạo quân “Young Turks” theo những cách dã man tàn bạo nhất. Nhưng Do Thái đã nhúng tay và đóng vai trò hàng đầu ở đây. Ngoại trừ Holocaust giả dối do Zionist dựng lên để cướp bóc nước Đức hàng trăm tỷ USD và dựng lên Israel, diệt chủng Armenia là lớn nhất và đầy đủ tư liệu nhất trong lịch sử nhân loại, xét trên góc độ qui mô và mức độ tàn bạo. Những tư liệu như thế có thể tìm thấy rất nhiều trên mạng.

Kế hoạch 1915-1923 diệt chủng Armenia, nơi 1,5 triệu người Armenia bị giết hại một cách dã man trong vùng đất tổ tiên của họ ở Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại, thực sự Thổ mới được dựng lên ở đây vào năm 1910 hoặc 1912.

Có cuốn sách ” Nhóm lợi ích bên trong của cuộc cách mạng Ottoman – Inner Folds of the Ottoman Revolution” viết bởi Mevlan Zadeh Rifat ở Thổ Nhĩ Kỳ và được xuất bản năm 1929, tác giả, một thân vương Thổ Nhĩ Kỳ (Sultan), tuyên bố rằng “diệt chủng Armenia đã được quyết định trong tháng 8 năm 1910 và tháng 10 năm 1911, bởi Young Turk gồm toàn bộ người Do Thái Balkan di cư ở dạng giáo phái hỗn tạp Do Thái-Hồi, trong đó có Talaat, Enver, Behaeddin Shakir, Jemal, và Nizam đóng vai như là người Hồi giáo. Chúng gặp nhau ở nhà khách/chi hội ở Salonika (một chi nhánh Tam điểm Rothschild tài trợ)”. Chủ nghĩa hỗn tạp có nghĩa là một sự kết hợp các hình thức khác nhau của niềm tin hay thực tiễn; mà Tam điểm phù hợp với mô tả đó. Khi mà Tam điểm bắt đầu cuộc cách mạng 1897 ở Pháp với tiếng rú “tự do, tình anh em, bình đẳng”, thì Young Turks sử dụng khẩu hiệu tương tự của chúng trong cuộc cách mạng năm 1908.

Báo cáo hội thảo/thuyết trình năm 1994 của Joseph Brewda Viện Schiller mang tên “Palmerson phát động Young Turks để kiểm soát lâu dài Trung Đông – Palmerson launches Young Turks to permanently control Middle East” tuyên bố kẻ sáng lập ra Young Turks là một gã Do Thái chính cống tên Emmanuel Carasso. Ông nói: “Carasso thiết lập hội bí mật Young Turk trong những năm 1890 ở Salonika, khi đó là một phần của Thổ Nhĩ Kỳ, và nay thuộc Hy Lạp. Carasso cũng là bậc thủ lĩnh lớn của Hội Tam điểm Ý, được gọi là “Phục sinh Macedonia”. Trụ sở Tam điểm cũng là sở chỉ huy Young Turks, và tất cả các thủ lĩnh Young Turk hàng đầu đều là hội viên Tam Điểm.”

Hơn nữa Brewda còn nói: “Trong chế độ Young Turk, Carasso tiếp tục đóng vai trò thủ lĩnh hàng đầu. Hắn đến gặp Sultan, nói với quân vương rằng ông đã bị lật đổ. Hắn ta chịu trách nhiệm quản thúc Sultan. Hắn vận hành mạng lưới gián điệp Young Turks trong khu vực Balkan. Và hắn cũng chịu trách nhiệm cung cấp mọi nguồn lương thực cho đế chế trong WW-I”. Thật là mỉa mai sau 4 bốn thế kỷ kể từ khi Sultan Thổ hoan nghênh dân Do Thái châu Âu bị trục xuất vào Thổ Nhĩ Kỳ, thì những gã Do Thái chính cống thuộc tổ chức bí mật và Zionism lại đá Sultan ra khỏi ngai vàng đầu thế kỷ 20, phá hủy đế chế Ottoman, và ăn mừng chiến thắng của chúng bằng cách giấu mặt tàn sát gần như toàn bộ người Kitô giáo Armenia, một triệu rưỡi người Armenia, nửa triệu người Hy Lạp, nửa triệu người Kitô Assyria và Arameans.
Sultan không phải là vị vua duy nhất bị lật đổ, các cuộc cách mạng và những gã BUÔN VUA đã làm đảo lộn khắp lục địa Á-Âu thế kỷ XVIII-XX đã làm ít nhất 9 ông vua châu Âu bị giết, kể cả Sa Hoàng.
Năm 1982, sau khi quân đội Israel xâm lược Lebanon, chúng ăn mừng chiến thắng của mình bằng cách giấu mặt tàn sát trẻ em và phụ nữ trong trại tập trung Palestine Shattila, ở Lebanon, bằng cách cho đám chiến binh dân quân Phalanger người Lebanon vào trại trong hai ngày để giết chóc dân của mình. 80% người tỵ nạn trong trại bị giết hại. Gần như tất cả số bị chết là người già, phụ nữ và trẻ em và tất cả họ không hề mang vũ khí. Không có một khẩu súng, một con dao nào thấy có trong sở hữu của họ, các nhân chứng Palestine tuyên bố như vậy.

Tất cả những điều này đều theo tri giác Talmud, sách thánh Quỉ Satan của dân Do Thái, nó khuyến khích dân Do Thái giết chóc, trực tiếp hay gián tiếp, bởi những câu nói như thế này: “Mỗi Do Thái kẻ tràn ngập máu người vô thần, là đang làm công việc như hiến tế thần Satan”. Talmud: Bammidber Raba c21 & Jalkut 772. Trong mắt Talmudists tất cả không Do Thái là vô thần. Và “Đây là luật để giết bất cứ ai phủ nhận Torah. Kitô hữu thuộc về những kẻ từ chối Torah.” Talmud: Coschen Hamischpat, Hagah 425. Câu cú thực sự rất ngắn gọn.

Đức Giêsu đến, đổ máu mình để cứu vớt nhân loại và chấm dứt hiến tế con người và động vật thực hiện bởi Talmudist Do Thái tin sự đổ máu của những người vô tội là một điều kiện tiên quyết của các vị thần thuộc loài bò sát của chúng, đặc biệt trước khi bắt tay vào sự nghiệp. Chúng đã sắp đặt các vụ giết chóc và tàn sát hàng triệu và hàng triệu sinh mạng để các thần thánh ma quỷ của chúng thỏa cơn khát máu và ban cho chúng một quê hương mới ở gần phía đông. Rõ ràng, hiến tế hàng trăm triệu sinh mạng trong nửa đầu của thế kỷ 20 (trong đó có cả người Do Thái của Holocaust Đức Quốc xã) đã làm dịu các vị thần của chúng và mong muốn của chúng đã được ban.
Quay lại với Young Turks. Ông Brewda viết: “Một lĩnh vực quan trọng khác là báo chí. Khi nắm quyền, Young Turks làm một số tờ báo, bao gồm cả ‘The Young Turk’, có biên tập viên không ai khác hơn người một Do Thái Nga đứng đầu, Vladimir Jabotinsky. Jabotinsky đã được dạy dỗ như một tài năng trẻ ở Ý”.

Ông Brewda, bỏ qua khả năng Talaat có thể là một Do Thái bí mậ

0