Sấm Trạng Trình toàn tập
Tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) Nguyễn Thiên Thụ sưu tập, chú giải LỜI NÓI ĐẦU Theo thời gian và cũng vì thời đại, chúng ta đã mất nhiều tài liệu và không được tiếp cận với các tài liệu xưa. Vì vậy mà tôi lập Sơn Trung thư trang để làm một thư ...
Tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585)
Nguyễn Thiên Thụ sưu tập, chú giải
LỜI NÓI ĐẦU
Theo thời gian và cũng vì thời đại, chúng ta đã mất nhiều tài liệu và không được tiếp cận với các tài liệu xưa. Vì vậy mà tôi lập Sơn Trung thư trang để làm một thư viện nhỏ với tinh thần vô vị lợi, tôi có thể giữ cho tôi và cống hiến cho moi người. Khi còn ở Việt Nam, tôi đã thu thập một số sách, một số tài liệu, trong đó có Sấm Trạng Trình. Xưa nay có rất nhiều bản khác nhau vì nhiều người sửa đổi. Không biết bản nào là bản chính, nên trước khi san định, nghiên cứu, chúng ta phải sưu tập tài liệu. Tại các thư viện Việt Nam nhất là tại Hà Nội có nhiều bản Sấm Trạng Trình chữ Nôm và các bản này cũng khác nhau.
Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký” là gốc của bản Quốc ngư Hoàng Xuân và Thời Tập. Bản AB.444 Viện Hán Nôm gốc của bản quốc ngữ Mai Lĩnh.`
Ngoài bản A còn có ít nhất ba dị bản về sấm Trạng Trình. Tài liệu liên quan hiện có 20 văn bản, trong đó 7 bản là tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội (trước đây là Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc gia Hà Nội. Trước 1975, tại miền Nam đã có khoảng 20 bản quốc ngữ, nay Hà Nội cũng in thêm vài bản. Bản tiếng quốc ngữ phát hiện sớm nhất có lẽ là Bạch Vân Am thi văn tập in trong Quốc Học Tùng Thư năm 1930 . Riêng tôi có một bản nôm.Từ lâu tôi đã có ý phổ biến nhưng chưa thực hiên được. Nay cơ duyên đã đến, ltôi cố gắng y sao chép dần để trình chư vị . Tôi tuyển chọn những bản xưa nhất và đáng tin cậy để tái bản trong thư trang của tôi. Tôi tập hợp các bản lại và gọi là Sấm Ký Toàn Tập.
Năm 2010, tôi đã đăng tải vào Sơn Trung Thư Trang. Nay tìm thêm vài tài liệu, tôi phổ biến ấn bản 2011 để cống hiến quý độc giả.
Ottawa ngày 20 tháng 7 năm 2011
Nguyễn Thiên Thụ
TỔNG QUAN VỀ SẤM KÝ CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491-1585)
I. TIỂU SỬ NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 ( 1491–1585) được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.
Ông sinh năm Tân Hợi đời vua Lê Thánh Tông, tức năm Hồng Đức thứ 22 (1491) tại làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định; thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lân, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số.
Lớn lên ông theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá). Ông sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên được thầy rất khen ngợi. Năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời vua Mạc Đăng Doanh lúc 45 tuổi, ông mới đi thi và đậu Trạng nguyên. Vua Mạc cất ông lên làm Tả Thị lang Đông các Học sĩ. Vì ông đỗ Trạng nguyên và được phong tước Trình Tuyền hầu nên dân gian gọi ông là Trạng Trình.
Làm quan được bảy năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan năm 1542.
Khi về trí sĩ, ông dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, do đó học trò gọi ông là “Tuyết giang Phu tử”. Bạn của ông là những tài danh lỗi lạc một thời như Bảng nhãn Bùi Doãn Đốc, Thám hoa Nguyễn Thừa Hưu, Thư Quốc công Thương thư Trạng nguyên Nguyễn Thiến. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Dữ- tác giả Truyền kỳ mạn lục, Thượng thư Bộ Lễ Lương Hữu Khánh,Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Quốc công Nguyễn Quyện, Thượng thư Bộ Hộ Trạng nguyên Giáp Hải, Tiến sĩ Trương Thời Cử,
Tiến sĩ Đinh Thời Trung, Hàn Giang Phu tử Nguyễn Văn Chính …
Ông mất năm Ất Dậu (1585) hưởng thọ 95 tuổi. Lễ tang ông có quan phụ chính triều đình là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng dẫn đầu các quan đại thần về viếng. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang nói lên sự trân trọng rất lớn của nhà Mạc với Trạng Trình. Trong buổi lễ tang ấy, Ứng vương đã thay mặt vua truy phong Nguyễn Bỉnh Khiêm tước Thái phó Trình Quốc công.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như tập thơ Bạch Vân, gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán (còn lưu lại) và hai tập Trình Quốc công Bạch vân thi tập và Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi, (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm) hiện còn lưu lại được một quyển của Bạch Vân thi tập gồm 100 bài và 23 bài thơ trong tập Bạch Vân Gia Huấn mang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý đối nhân xử thế lấy đức bao trùm lên tất cả, mục đích để răn dạy đời.
Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”. Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là “nhà tiên tri” số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là “Sấm Trạng Trình”.
Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (có tài liệu viết là “khả dĩ dung thân”) nghĩa là “Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài”. Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc “Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể” (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được).
Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê – Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông.
Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu:
“Lê tồn Trịnh tại”.
Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương lọai chí: “Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở”.
La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp khi về thăm đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm, có bài thơ Quá Trình tuyền mục tự (Qua thăm đền cũ Trình tuyền) đã xem Trình tuyền là người có tài “Huyền cơ tham tạo hóa” (nắm được huyền vi xen vào công việc của tạo hóa).
Tiến sĩ thời nhà Hậu Lê Vũ Khâm Lân đã làm bia ở đền Trạng Trình và nói rằng danh tiếng Trạng
Như núi Thái sơn, sao Bắc Đẩu
Nghìn năm sau như vẫn một ngày
II. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI SẤM KÝ
Trong quan niệm của tôi, công việc của người sau là sưu tập, hiệu đính và chú thích tác phẩm của tiền nhân để bảo tồn văn hóa cũ. Việc này đòi hỏi người biên khảo, dịch thuật phải trung thực, khách quan, thấy sao nói vậy, biết gì nói nấy.
Tôi mong rằng sẽ có một nhóm người khảo cứu hết các bản nôm trong thư viện. Một nhóm người khảo cứu tất cả các bản quốc ngữ đã xuất bản. Riêng tôi chỉ phụ trách nghiên cứu một số bản quốc ngữ trong tầm tay.
Hôm nay tôi làm việc này thật ra là chưa được hoàn hảo vì kiến thức còn hạn chế. Hơn nữa không có trong tay các bản nôm và đầy đủ các bản quốc ngữ. Tôi chỉ làm được những gì trong khả năng hạn hẹp của mình.
Dẫu sao thì vạn vật vô thường, mục đích của tôi là cố lưu lại những vốn cũ của tiền nhân, và giúp bạn đọc một số tài liệu mà tôi đã thu thập và nghiền ngẫm hơn nửa thế kỷ. Làm được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Vì thích nghiên cứu cổ văn cho nên tôi đã tìm hiểu các tác tác phẩm cổ. Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhân dân ta ca tụng vì khí tiết thanh cao và tài thơ văn. Thi văn của Ngài có thơ chữ Hán và thơ Quốc Âm. Thơ Quốc Âm gồm có thơ nôm và Sấm Ký. Câu chuyện Nguyễn Hoàng và con cháu họ Trịnh tìm đến Nguyễn Bỉnh Khiêm là chuyện thực, liên hệ đến lịch sử chứ không phải là giai thoại.
Tại thư viện Viễn Đông Bác cổ Hà Nội và Viện Khảo Cổ Sai gon đều có vài bản Sấm Trạng Trình bản nôm chép tay. Trước 1945, chúng tôi thấy các bậc cha chú đọc các bản Sấm Ký Quốc Ngữ. Trong khi vào Nam, tôi cũng mượn bạn bè các sách Sấm ký rồi chép lại vì trong thời gian chiến tranh, sách xưa đã tuyệt bản nên rất hiếm hoi, chỉ cho mượn trong thân hữu chọn lọc..
Sau 1975, xem danh mục thư viện thì thấy có tên sách, nhưng tôi không dám mượn vì e ngại công an theo dõi, và kết tội dùng sấm để “yêu ngôn hoặc chúng”. Tôi chỉ âm thầm tìm kiếm, và thu thập được một số.
Tại miền Nam, Sấm Trạng Trình in bằng quốc ngữ từ sau 1945 cho đến 1975 cũng có gần hai chục quyển. Sau 1975, tại Hà Nội cũng có một vài quyển gọi là. Thư viện Viễn Đông Bác Cổ nay là thư viện khoa học Xã hội có gần 20 bản Sấm Ký nôm. Thỉnh thoảng có vài người giới thiệu sơ sài mà không trích dẫn câu nào. Nhà nghiên cứu không dám đi sâu vào sợ bị gán cho cái tội duy tâm thần bí, tuyên truyền phản động thì muôn kiếp phải sống trong lao tù.
Ông TrầnVăn Giáp chuyên về chữ Nôm, ông biên tập các nhan đề sách chữ Nôm và Hán thành bộ ” Tìm Hiểu Kho Sách Hán Nôm 2 quyển”, nhưng ông không kê khai lấy danh hiệu một bản dù trong thư viện có hàng chục bản “Sấm Trạng Trình”. Theo nguyên tắc nghiên cứu, ông cứ ghi tên sách, số hiệu sách nhưng ông có thể nói là sách ghi vậy nhưng e không phải của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông đỏ quá hay ông sợ cộng sản quá, không dám ghi lấy tên sách và số hiệu sách vì sợ dân chúng sẽ vào lục tìm. Ông muốn giấu sách nếu không nói là muốn đốt sách, chôn sách. Ông phủ nhận sự hiện hữu của Sấm Trạng Trình. Ông viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Ông là người nổi tiếng học rộng, nghiên cứu dịch kinh, chuyên về lý học, tinh thông khoa tính Thái Ất, cho nên người ta lợi dụng cái học của ông truyền tụng nhiều câu sấm nói là của ông, để tuyên truyền và mê hoặc mọi người.” (1)
Thiết tưởng con người ta trong xã hội có người không tin bói toán, không tin thần thánh, nhưng một số rất tin. Bói toán mà sai thì cũng đương nhiên vì đó là khoa học không chính xác, Ta cần xem thời tiết nhưng các bản tin thời tiết không phải lúc nào cũng đúng, nhưng không phải vì thế mà dẹp bỏ ngành thiên văn, khí tượng và nghiên cứu không gian. Đừng có theo tây phương vài năm, theo cộng sản vài giờ mà cho mình là có óc khoa học.
Karl Marx và các ông cộng sản đề cao khoa học, luôn làm ầm ỉ về thành tích khoa học trong khi bên tư bản người ta im lặng làm mà thành quả vượt Liên Xô, Trung Quốc! Marx tự hào là khoa học nhưng những tiên đoán, những ước vọng, những chính sách vĩ đại của Lenin, Stalin và Mao đã sụp đổ thảm thương! Ông thầy mu ruà ờ Lăng Ông Bà Chiểu, hay ông thầy tử vi ở chùa Trấn Quốc chỉ ăn vài ngàn bạc hay chục ngàn bạc Việt Nam mà không làm hại ai, còn lão tổ Karl Marx tiên đoán tầm bậy gây cho cái chết hàng trăm triệu người!
Ai bảo người Pháp mê tín? Tại Pháp có mấy ngàn hay mấy chục ngàn thầy bói, và hàng chục người viết về Nostradamus, có ai cấm đóan hay chê bai dân Pháp? Ai bảo nước Mỹ dị đoan lạc hậu? Nghe nói người Mỹ có lúc đã dùng “thiền” để liên lạc với tàu vũ trụ đó sao? Trong chiến tranh Việt Nam khoảng 1970, một người Mỹ có đến hỏi giáo sư Bửu Cầm ở Sài gon:
“Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng là gì” Có phải có thủy chiến ngoài các đảo không?
( Trong khoảng 70-90, tôi thường đến thăm GS Bửu Cầm được thầy thuật lại việc trên) và gần đây ông Nguyễn Văn Hiệp có thuật việc CIA lấy cắp bản ghi chép của thiếu tướng Nguyễn Văn Chức về tiên đoán của ông đạo Nhỏ.
Người ta khoa học văn minh như thế mà còn nghiên cứu huyền học, dùng chiêm tinh còn chúng ta được kiến thức khoa học bao lăm, nhất là cái khoa học xuyên tâm liên và bèo hoa dâu mà lên mặt khinh thế ngạo vật ư?
Ở đâu cũng có kẻ gian dối. Đâu có phải vì bọn bán thuốc ê, vì bọn lang băm lấy cơm khô trộn mật làm thuốc mà ta đốt sách y, bắt nhốt và giết tất cả người hành y? Ví như có kẻ làm giả sấm ký, sửa đổi vài chữ, vài câu, vài đoạn, ta không nên vội vơ đũa cả nắm bảo là là hàng mạo hóa mà quăng đi hoặc đốt hết sấm ký. Trái lại,người nghiên cứu lại càng phải gia công nghiên cứu hơn, tìm hiểu, phân biệt giả chân, tốt xấu. Không thể dễ dàng phủ nhận cũng không nên vội vàng tin tưởng trước khi suy nghĩ và xem xét.
Tôi nghiền ngẫm Sấm ký từ lâu, chỉ hiểu vài đoạn. Sau khi xem Kim Cổ Kỳ Quan, Tứ Thánh của Bửu Sơn Kỳ Hương, tôi nhận thấy sức mạnh tâm linh của Phật giáo, của Lý học và Đạo học. Và quả là có phương pháp tu đạt đến cái nhìn xuyên suốt quá khứ vị lai và cũng có người có tài năng thấy trước. Tôi cũng đọc Toàn Thư trong đó có nhiều huyền bí và đúng. Tôi lại càng nghĩ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một bậc khải thánh chứ không phải là tầm thường cho nên tôi cố gắng tìm hiểu chứ không coi rẻ như các vị khác mang tâm sắt đá hoặc tâm dun dế.
Mình không hiểu vì mình bị vô minh che lấp chứ không phải ta thông minh mà sách nói vu vơ, và hiền thánh điên khùng. Trước khi khoa học tìm ra kính hiển vi và kính viễn vọng, đức Phật đã thấy những vật cực tiểu và những vật cực đại hay sao? Nay thì khoa học cho thấy ngoài Thái dương hệ của ta còn có nhiều Thái dương hệ khác. Mắt ta lòa chứ không phải thế giới đen tối, vạn vật hư vô như những ai đã kiêu căng chế nhạo. Sự thực các bạo chúa đã sợ khoa chiêm tinh và báo chí. Họ mượn danh khoa học để bịt miệng và che mắt nhân dân!
Một vài người phủ nhận Sấm Trạng Trình vì cho rằng những bản trên là do người sau chế tác. Người ta cho rằng văn chương trong đó rất mới, đời Mạc chưa có lối lục bát.
Nhận xét này khá đúng, có những bản Sấm ký, có những đoạn người sau ở triều Nguyễn chế tác hoặc thêm vào. Nhưng xem kỹ, các bản Sấm ký có đủ thể loại thi ca, có lục bát, song thất lục bát thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ thuyết, ngũ ngôn tứ tuyệt và ngũ ngôn tràng thiên.
Thể lục bát là thể xưa trong ca dao, và cũng đã thể hiện trong các truyện xưa như truyện Trinh Thử, hoặc Gia Huấn Ca, còn song thất lục bát cũng là một thể khá xưa như Lê Đức Mao (1462-1529) , với bài Nghĩ bát giáp thưởng đào văn:
Xuân nhật tảo khai gia cát hội,
Hạ đình thông xướng thái bình âm.
Tàng câu mở tiệc năm năm,
Miếu Chu đối việt, chăm chăm tấc thành.
Hương dâng ngào ngạt mùi thanh,
Loan bay khúc múa, hoa quanh tịch ngồi;”
Song thất lục bát tuyệt diệu như trên thì trước đó thơ lục bát tất cũng điêu luyện.
III. GIỚI THIỆU CÁC BẢN
Bản nôm hiện ở các thư viện có nhiều, chưa ai ra công khảo cứu đầy đủ. Còn bản quốc ngữ thì nhiều. Sớm nhất là bản của Sở Cuồng do Quốc Học tùng thư ấn hành năm 1930, và bản Nam Ký năm 1945 . Ông Phạm Đan Quế đã giới thiệu khá đầy đủ về các văn bản Sấm ký toàn chép tay
trong thư mục Hán Nôm lưu trữ tại thư viện Hà Nội Khoa Học Xã hội (Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc Gia Hà Nội thì hiện nay còn bảy tài liệu chữ nôm sau đây có Sấm Trạng Trình (2) :
(1)-Bạch Vân Nguyễn Trình Quốc công lục ký 25 trang, ký hiệu VNB3
(2)-Trạng Quốc công ký: -2 quyển: VHV 1453/b – 36 trang; VHV 102; 32 trang.
(3)-Trình Quốc công sấm ký : 34 trang: AB345
(4). Trình tiên sinh quốc ngữ : 22 trang: AB444.
(5). Sấm ký bí truyền 34 trang; VHV 2261.
(6). Thiên Nam ngữ lục ngoại ký có phụ chép một số câu sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng
Thượng thư; AB192.
(7). Nhất tích thiên văn gia truyền VHV 1382 có một bài sấm nói là của Trạng Trình.
Ông cũng cho biết các bản quốc ngữ sau:
(1)-Bản quốc ngữ đầu tiên của Sở Cuồng trong Quốc Học tùng thư, Nam Ký xuất bản tại Hà Nội 1930; 53 trang, in tại nhà in Trịnh Văn Bích. Trong quyển Thư Mục Đông Dương (Bibliographie en l’ Indochine ), quyển V, xuất bản ở Đông Dương năm 1935, ông Paul Boudet có ghi” Bạch
Vân Am Thi Tập, văn thơ sấm ký của cụ trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm , recueilli par Sở Cuồng, Nam Ký Thư quán, 1930, Impr Trịnh Văn Bích- Coll Quốc Học Tùng Thư.
(2)-Phụ trương Khoa Học huyền bí của Tiểu Thuyết Nhật Báo do Mai Lĩnh xuất bản năm 1939
(3)-Đông Tây Tiểu Thuyết phát hành ở Nam Định, số Xuân 1940.
(4)-Sấm Ký, nhà xuất bản Đại La, Hà Nội 1948.
(5)-Sấm Trạng Trình của cư sĩ Minh Điền, nhà in Thái Bình, Saigon 1948.
(6)-Sấm ký của Bùi Xuân Tiến, Nam Ký Hà Nội, 1952.
(7)-Sấm Trạng Trình của Hưng Long thư quán, Hà Nội, 1952.
(7)-Sấm Trạng Trình của Chu Ngọc Chi, Hưng Long, Hà Nội, 1954.
(8)-Trạng Trình của Phạm Văn Giao, Phạm Văn Tươi, Saigon, 1956
(9)-Trạng Trình Nguyễn BỈnh Khiêm, Thái Bạch, Sống Mới, Saigon, 1957.
(10)-Đại chiến thứ ba với Sấm Trạng Trình, Thiệu Nghĩa Minh; Phương Thảo, Saigon, 1964.
(11)-Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nostradamus của Nguyễn Duy Hinh; Dân Trí, Saigon; 1963.
(12)-Sấm Trạng Trình; trong Thành Ngữ, Điển tích, Danh nhân từ điển của Trịnh Văn Thanh,
Saigon 1966.
(13)- Bạch Vân Quốc Ngữ Thi của Nguyễn Quân; Sống Mới, Saigon, 1974.
Chúng tôi đã sưu tập được một số Sấm Ký nôm và Quốc ngữ , tuy chưa đầy đủ, song từ số tài liệu tương đối này, chúng tôi có thể phân loại về xếp đặt thành các dòng. Chúng tôi cố gắng đi tìm ý nghĩa các bản sấm ký dù rằng việc đó là việc khó khăn, nhưng chúng tôi nghĩ với tâm thành và tinh thần khách quan là tạm đủ. Chúng tôi không chú ý lắm về các từ ngữ nôm Việt dịch khác nhau, đọc khác nhau hoặc đúng sai.
Như đã trình bày, cho đến hiện nay (2011) có lẽ đã có trên 20 bản Quốc ngữ khác nhau. Xét theo các câu trong các tập, chúng tôi tạm phân loại như sau:
1. Bản Sở Cuồng và bản Mai Lĩnh
Bản 1 Sơn Trung, do tôi phiên âm chú thích từ bản nôm trong thư viện cụ Nghè Bân, chép cùng Phùng Thượng Thư Ký cũng là bản trong Thiên Nam ngữ lục ngoại ký. Ông Nguyễn Văn Y, bạn tôi, một tay sưu tầm sách cổ, mất khoảng 1990, cho biết ông đã tặng một người bạn đi Canada quyển sấm trạng trình và Sấm Trạng Bùng. Như vậy bản này phiên âm từ bản nôm, và bản nôm cũng có gốc tích ở Thư Viện Hà Nội. Và nhiều bậc danh gia đã sao chép tài liệu này. Tài liệu này là thật, không giả mạo, nhưng không mới lạ vì bản này cũng chỉ là phần hai của bản của Sở Cuồng, chỉ khác một số chữ vì phiên âm khác hoặc đánh máy, hoặc xếp chữ sai chánh tả.
Nay tìm thấy tài liệu của tiến sĩ Nguyễn Khuê (3) , mới biết bản Mai Lĩnh mà tôi có rất giống với bản của Sở Cuồng, có lẽ xuất phát từ bản của Sở Cuồng.
Bản Sở Cuồng có gốc là bản AB.444 tại Viện Hán Nôm Hà Nội. Tôi may mắn có bản Mai Lĩnh là bản in sau bản Sở Cuồng. Bản mà chúng tôi có trong tay in năm 1939 tại tủ sách một bạn học thời Trung học Huế. Bản này có hai ưu điểm là:
-bản tương đối sớm nhất, có trước 1945, vì các bản sau này, người ta thêm vào mấy chữ, mấy câu, hoặc bóp méo, xuyên tạc để tuyên truyền.
-Bản này phổ biến nhất vì được nhiều người dùng hoặc in lại.
Bản này khởi đầu:
Vận lành mừng gặp tiết lành và kết thúc: Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia. Có một số câu bị mất, còn lại 487 câu.
Nhiều bản chung gốc này mặc dầu có vài chữ khác nhau vì cách đọc chữ nôm khác nhau và sai chính tả:
-Bản Nguyễn Khuê
-Bản Đông Nam Á, Saigon 1964.
-Bản Hùynh Tâm, Saigon ?
-Wikisource 2010. Bản này tham khảo bản Huỳnh Tâm, Saigon, không rõ in năm nào, có lẽ
khoảng thập niên 60.
Theo thiển kiến, đây là bản quốc ngữ xưa nhất, lại có bản nôm rõ rệt cho nên bản này đáng tin cậy nhất
2. Bản Anh Phương, Saigon 1960? do Hoàng Xuân sưu tập.
Bản này gốc ở bản Nôm A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký”. Cảm đề : Thanh nhàn vô sự là tiên. . .
Mở đầu: Nước Nam từ họ Hồng Bàng/ Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi vần.
Kết: Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.
Các bản sau đây chung gốc:
-Tạp chí Thời Tập (1973-1975, Viên Linh. )
-Wikisource 2010
Bản Trịnh Vân Thanh, 1966.
– Bản Phạm Đan Quế , 1992.
3. Bản HƯƠNG SƠN
Bản này do Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm sưu tập. Bản này vốn ở quyển Lục Nhâm Bát Sát, Độn Thái Ất, phụ thêm Sấm Trạng Trình, Hương Sơn, Hà NỘi xuất bản trước 1954, sách 70 trang, Sấm Trạng Trình từ trang 48-68.
Khởi đầu: Nước Nam thường có thánh tài/Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng. . .
Kết thúc: Gió mây ta lại đi về gió mây.
-Bản Bạch Vân Ca của Nguyễn Quân, Sống Mới, Saigon, 1974 giống bản Hương Sơn.
-Theo một bạn đọc, bản này cũng giống bản Nam Ký phát hành năm 1948 , do Bùi Xuân Tiêu và
Nguyễn Can Mộng lấy từ bản VH-2261 của kho sách Viện Viễn Bác Cổ, mở đầu có câu :
“Nước nam thường có thánh tài
Sơn Hà vững đặt mấy ai rõ ràng
Kìa Nhị Thuỷ, nọ Đảo Sơn
Bãi ngọc đất nổi, âu vàng trời cho
Học cách vật mới dò tới chốn. . .”
Bản này có cấu trúc đặc biệt là có nhiều bài thơ theo nhiều loại khác nhau như ngũ ngôn, thất ngôn tứ tuyệt,thất ngôn bát cú, lục bát và song thất lục bát.
Bản này có lẽ do người sau ghi lại các câu sấm truyền tụng trong dân gian chứ không phải của Trạng Trình, hoặc xáo trộn các đoạn trong sấm trạng Trình mà tạo thành . Việc này do biên chép vô ý hoặc cố ý.
Bản nôm của Nguyễn Văn Sâm nhan đề khác với các bản: 古庵先生讖歌文 Cổ Am Tiên Sinh Sấm Ca Văn.Bản nôm này giống bản Hương
Sơn từ câu đầu:
Nước Nam thường có thánh tài,
Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng
đến bài thơ 14 của bản Hương Sơn.
Can qua việc nước bời bời
Trên thuân lòng trời dưới đẹp lòng dân.
Lục thất dư ngũ bách xuân
Bấy giờ trời mới xoay vần nơi nao.
Thấy sấm tự đấy chép vào
Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa.
Câu kết của bản Hoàng Xuân cũng giống:
Thấy sấm tự đấy chép vào
Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa.(247-48)
Đọc kỹ nội dung bản này, ta thấy bản này viết sau thời Tây Sơn và đầu thời Nguyễn Ánh vì trong bản này có những chữ như lời ngạn , phương ngôn ( Nguyễn Văn Sâm), nghĩa là những câu đó đã truyền tụng rất lâu trước khi tác giả cầm bút. và các câu Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong, và Cha nhỏ đầu con lại nhỏ chân/Nào ai có biết nguỵ quân cầm quyền/Phụ nguyên chính thống hẳn hoi…Đó là những sản phẩm của đời Nguyễn, không phải của Nguyễn BỈnh Khiêm.
4. BẢN WIKISOURCE 2010
Bản này chép bản Mai Lĩnh 1939 và bản Anh Phương (1960?)
Nói chung, dù trên 20 bản, chỉ có ba dị bản chính thức như đã so sánh và trình bày ở trên. sự khác biệt này có thể do nhiều người soạn chứ không phải riêng Trỉnh Quốc Công, vì chính tôi cũng có một bản sấm ký chữ nôm của Trạng Trình và một bản của Phùng Khắc Khoan sẽ trình bày sau. Có những bản cùng nguồn gốc nhưng có sửa đổi vài câu vài chữ.
Bản Minh Điền là một chêm dặm. Theo Phạm Đan Quế, bản này giống bản Anh Phương 22 câu, từ câu 374 đến câu 431, ngoài ra các câu khác hoàn toàn lạ lùng. Nhưng chính Phạm Đan Quế đã trích dẫn 50 câu đầu và 30 câu cuối của bản này thì thấy là hơn 120 câu giống chứ không phải chỉ 22 câu .
Nay chúng tôi công bố bản Phùng thương Thư Ký là một bản đã có từ lâu nhưng chưa ai phiên dịch. Đọc bản này thì cho thấy rằng ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có Phùng Khắc Khoan cũng soạn Sấm Ký. Còn có ai nữa không? Bản của Phùng Khắc Khoan có vài đoạn giống bản của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
IV.TÍNH CHẤT CỦA CÁC BẢN
Nhìn chung, các bản có chung một vài điểm sau:
1. Tính bí mật:
Sấm Ký mang tính cách bí mật thuộc phạm vi quốc cấm, phải cất kín cũng như Kim Cổ Kỳ Quan, Tứ Thánh, chỉ bàn bạc với người thân mà thôi. Thái độ của nhân dân đối Sấm Ký khác với Lục Vân Tiên và truyện Kiều. Ấy cũng bởi ngày xưa các nho sĩ dùng Sấm ký để chống triều đình , chống Pháp, mà bọn tay sai cũng dùng sấm ký vu oan giá họa cho dân lành cho nên quan quân đã bắt bớ dân chúng, và người ta phải cất giấu các tài liệu này.
2. Tính thiếu chân thực:
Thói quen của ta là tự tiện sửa chữa, thêm bớt các bản chính cho nên truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương đã bị tam sao thất bản.. Nhiều người sau này sửa sấm ký hoặc bóp méo văn nghĩa cho vừa khuôn khổ quyền lợi của phe nhóm họ.
3.Tính không thống nhất:
Có thể một người viết mà chia ra nhiều đoạn, do viết nhiều thời gian khác nhau. Có thể là do nhiều bản của nhiều người khác nhau mà người sau chép chung làm một tập. Như bản Mai Lĩnh ít nhất là hai tập khác nhau.
Một số là thu thập nhiều bài sấm ký khác nhau cho vào một tập như bàn Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm do Hương Sơn xuất bản trước 1954, cho nên trong đó có nhiều bài thơ. Có thể do nhiều gốc khác nhau. Cũng có kẻ cắt vài đoạn bỏ vào cái khuôn của mình để mập mờ đánh lận con đen trong chính sách tuyên truyền dối trá của họ. cũng có thể do phương cách làm việc chưa khoa học, nghĩ đến đâu, viết đến đó, nhiều khi trùng hợp, cái trước nói sau, việc sau nói trước.
Cũng có thể người ta tráo đoạn trước ra sau, đoạn sau lên trước để giữ bí mật, như đoạn cuối bản Mai Lĩnh : “Đào Tiền xử sĩ… nam thành quốc gia” nhưng trong bản Hương Sơn lại nằm gần cuối, dưới câu kết còn có 24 câu nữa (Phân phân đông bắc khởi.. . Gió mây ta lại đi về gió mây). Sự kiện này gây khó khăn cho người nghiên cứu.
4. Tính mơ hồ:
Các bản có chỗ thần diệu nhưng cũng có chỗ mơ hồ, giống các bản của Sư Vải Bán Khoai, Huỳnh Giáo chủ và Thanh Sĩ. . . chỉ nói tí , sửu ,dần, mẹo. . . rất mơ hồ trong khi các bản Kim Cổ Kỳ Quan và Tứ Thánh thì rõ ràng hơn.
V. CÁC VẤN ĐỀ CẦN THẢO LUẬN
A. CÁC TỪ NGỮ
1. Quốc hiệu Việt Nam.
Bản Mai Lĩnh 1939 ở gần đoạn đầu có câu: Việt Nam khởi tổ gây nền,/ Lạc Long ra trị đương quyền một phương (câu 7-8). Đời Nguyễn nước ta có quốc hiệu Việt Nam. Sấm Trạng trình cách nhà Nguyễn mấy trăm năm sao lại ghi Việt Nam? Ai đó sửa lại hay ngày xưa cụ Trạng đã biết mấy trăm năm sau quốc hiệu là Việt Nam?
Tự điển Wikipedia giải thích về Quốc hiệu Việt Nam:
Quốc hiệu Việt Nam (越南) chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đã đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng “Nam” có ý nghĩa “An Nam” còn “Việt” có ý nghĩa “Việt Thường”. Tuy nhiên tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của lãnh thổ nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa; nhà Thanh đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804. Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn.
Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi (1380-1442) nhiều lần nhắc đến hai chữ “Việt Nam”. Điều này còn được đề cập rő ràng trong những tác phẩm của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Người ta cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh… Đặc biệt bia Thủy
Có thể một người viết mà chia ra nhiều đoạn, do viết nhiều thời gian khác nhau. Có thể là do nhiều bản của nhiều người khác nhau mà người sau chép chung làm một tập. Như bản Mai Lĩnh ít nhất là hai tập khác nhau.
Một số là thu thập nhiều bài sấm ký khác nhau cho vào một tập như bàn Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm do Hương Sơn xuất bản trước 1954, cho nên trong đó có nhiều bài thơ. Có thể do nhiều gốc khác nhau. Cũng có kẻ cắt vài đoạn bỏ vào cái khuôn của mình để mập mờ đánh lận con đen trong chính sách tuyên truyền dối trá của họ. cũng có thể do phương cách làm việc chưa khoa học, nghĩ đến đâu, viết đến đó, nhiều khi trùng hợp, cái trước nói sau, việc sau nói trước.
Cũng có thể người ta tráo đoạn trước ra sau, đoạn sau lên trước để giữ bí mật, như đoạn cuối bản Mai Lĩnh : “Đào Tiền xử sĩ… nam thành quốc gia” nhưng trong bản Hương Sơn lại nằm gần cuối, dưới câu kết còn có 24 câu nữa (Phân phân đông bắc khởi.. . Gió mây ta lại đi về gió mây). Sự kiện này gây khó khăn cho người nghiên cứu.
B. CÁC CÂU, CÁC ĐOẠN
1. Các câu giống nhau:
(a).Hai bản Mai Lĩnh và Anh Phương :
-Hai bản thường khởi đầu bằng các câu sấm đời trước như của Vạn Hạnh, và các tác giả vô danh đời trước. Hòa đao mộc lạc.. ./ Thập bát tử thành.
– Tan tác Kiến kiều tan đất nước,/Xác xơ cổ thụ sạch an mây.
(AP 49; ML 381)
-Uy nghi dung mạo khác mình/ Thác cư một góc kim tinh phương đoài
(AP 125, ML 141)
(b). -Bản Anh Phương với bản Hương Sơn
Nước Nam thường có thánh tài/Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường.
(HS. 1; AP:105)
(c). Mai Lĩnh và Hương Sơn
Thủy trung tàng bảo cái…. Đông Tây vô sự nam thành quốc gia.
(ML 446-487; HS, 26)
-Phá điền đầu khỉ cuối thu. . . Tái binh mọi giống thập thò liền sang.
(HS.16;ML 199)
-Thủy binh cờ xí vừng hồng.. .Bắc binh sang có việc gì chăng?… Đã ngu dại Hoàn Linh đời
Hán…
(ML 83; HS 12)
-Bách tính khổ tai ương… Đông tây vô sự nam thành quốc gia.
(ML467-487; HS 26)
-Bắc phương chính khí sinh ra/ Có ông Bạch xỉ (sĩ) điều hòa hôm mai.
(ML 135; HS16 )
-Man mác một lĩnh Hoành Sơn/Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
( ML 195; HS 16)
-Lại nói sự Hoàng giang sinh thánh/ Sông Bảo giang thiên định ai hay.
(ML 125, 257; HS 17 )
Bắc kinh mới thật đế kinh/ Giấu thân chưa dễ giấu danh đục nào.
(ML 238; HS 16)
Quần hùng binh kéo đầy khe/ Kẻ xưng cứu nước người khoe trị đời.. .
Thương những kẻ ăn rau, ăn giới.
(ML 103; HS 16 )
Canh tân ( niên) tàn phá/ Tuất hợi phục sinh
(ML 395; HS 18)
Ma vương sát đại quỷ/ Hoàng thiên tru ma vương/Kiền khôn phú tái khôn lường
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết/ Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân.
(ML 475; HS 26 )
-Phân phân đông (tùng ) bắc khởi.. Bất chiến tự nhiên thành
( ML 443; HS 26)
-Tộ trường nhị thập ngũ/ Vận khải ngũ diên trường
(ML 462; HS 26)
-Nực cười những lũ bàng quan/Cờ tàn lại muốn toan đường đấu xe (AP 125; HS 26)
(d).Ba bản giống nhau:
-Bắc hữu kim thành tráng
Nam hữu ngọc bích thành
( AP,214; ML 426-427, HS, 25)
-Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh. . .kiến thái bình.
(ML 398; HS 24, AP 171)
-Cửu cửu càn khôn dĩ định. . . Hồ binh bát vạn nhập Tràng An.
(AP151; ML 410; HS 21)
-Xem ý trời có lòng khải thánh/ Dốc sinh ra điểu đỉnh hộ mai.
(AP 131, ML 131, HS 16)
-Có thầy Nhân thập đi về/ Tả phù hữu trì cây cỏ thành binh.
AP 231, (ML 261; HS 17)
-Bảo giang thiên tử xuất/ Bất chiến tự nhiên thành
(AP 217; ML 415; HS 25 )
-Phú quý hồng trần mộng,
Bần cùng bạch phát sinh
(AP209, ML 430; HS 25)
-Thái nguyên cận Bắc đường xa
(AP 123; HS 14; HS 14)
2. Các câu được giải thích để tuyên truyền:
(1). Thấy đâu bò đái thất thanh/ Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng sai.(HS 14)
Một bản giải thích:
Ở Bắc Kạn có khe Bò Đái.
Một bản ghi:
Nghệ An Bò Đái thất thanh.
Một bản khác ghi:
Nam Đàn Bò Đái Thất thanh.
Trong quyển La Sơn Phu Tử, Hoàng Xuân Hãn có trích thơ Nguyễn Thiếp, bài Gặp người đánh cá ở sông PhùThạch, HXH nói đến câu ca dao Đụn sơn phân giái/ Bò Đái thất thanh/ Đông Thành sinh thánh. Huyện Đông Thành ở phủ Diễn châu, còn Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh ở huyện Nam Đàn, phủ Anh Đô. Chính trong bài thơ trên, Nguyễn Thiếp viết: “Núi Liệt lở, Song Ngư nước cạn, /Sấm người xưa đánh lẫn dân ngu (tr.62) Chữ Hán tên là Lao Tuyền, HXH nói tên tục là Bò Đái không biết có đúng không vì Lao Tuyền là Khe Bò mà thôi.
(2).Đầu can võ tướng ra binh/ Ắt là trăm họ thái bình âu ca (AP 197) Thái Bạch giải thích Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra binh năm giáp thân (1944).
(3). Thánh nhân hương Có người theo bản Hương Sơn giải thích
1.Thánh nhân hương
2- Thuỷ trung tàng bảo cái ( bài 19 và bài 26)
VI. KẾT LUẬN
Sau khi nghiền ngẫm khoảng 20 bản, tôi thấy quanh đi quẩn lại chỉ có ba phiên bản chính, được nhiều người sử dụng :
-Mai Lĩnh
-Anh Phương
-Hương Sơn.
Trong ba bản, theo thiển kiến, bản Mai Lĩnh tức bản Sở Cuồng là đáng tin cậy nhất. Hai bản kia có lẽ chỉ là ghi chép những câu sấm truyền trong dân gian. Đây cũng chỉ là giả thuyết chờ sau này ai đó nghiên cứu thêm nhiều bản nôm thì rõ hơn.
1. Mai Lĩnh:
Bản Mai Lĩnh chính là bản đầu tiên là bản Sở CUồng in năm 1930
2.Hương Sơn:
Đoạn kết giống Mai Lĩnh 2:Sau một thời gian sống với cộng sản ( Ta hồ vô phụ vô quân), nước ta sẽ thái
bình như thời hoàng kim.
3.Anh Phương:
Đoạn kết giống Mai Lĩnh 1: sau này có ” thầy Nhân Thập” về cứu nước.
Các bản Sở Cuồng, Mai Lĩnh và Sơn TRung có liên quan đến Phùng Thượng Thư Ký. Bản này có chú thích của Tiền nhân trước 1937 là năm cụ Nghè Bân mất. Các bản khác cũng chỉ thêm thắt và xáo trộn bản chính. Theo quyển Phùng Thượng Thư Ký, chủ yếu sấm ngữ là nói về giai đoạn Lê Mạc cho đến Trịnh Nguyễn và qua nhà Nguyễn. Như vậy có lẽ sấm không đi vượt thời gian 1945 là năm nhà Nguyễn mất.
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian
(Sơn Trung ,4)
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
Thì phụ nguyên mới chổ (trổ) binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn.
(SC, 117-124)
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian
(SC,483-84)
Hòa đao mộc lạc,
Thập bát tử thành,
Ðông A nhật xuất,
Dị mộc tái sinh.
Chấn cung xuất nhật,
Ðoài cung vẩn tinh.
Phụ nguyên chì thống,
Ðế phế vi đinh.
Thập niên dư chiến,
Thiên hạ cửu bình.
(Anh Phương, 7-16)
205.Kể từ đời Lạc Long Quân,
Ðắp đổi xoay vần đến lục thất gian.
(Anh Phương, 205-06)
Nói chung, đa số nói về các sự lịch sử cho đến cuối nhà Nguyễn năm 1945. Tuy nhiên, nhiều nhà biên khảo cho rằng Sấm Trạng Trình có giá trị lâu dài. Việc này cũng tùy văn bản, như bản Anh Phương:
” Ô hô thế sự tự bình bồng,
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,
Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,
Tứ phương thiên hạ thái bình phong
“(95-102)
Bài này đưa ra nhiều vấn đề. Thời Lê mạt, Nguyễn sơ, nước ta chưa có đường sắt và xe lửa. Pháp khởi công làm đường sắt năm 1881 đầu tiên đi từ cột cờ Thủ Thiêm đến bến xe Chợ Lớn dài 13 km. Chuyến tàu đầu tiên khởi hành ở Việt Nam là vào ngày 20 tháng 7 năm 1885. Trong chiến tranh từ 1945 cho đến 1975, cộng sản thực hiện tiêu thổ kháng chiến, phá cầu, phá đường, đắp mô, giật mìn gây trở ngại giao thông cho dân chúng. Thời chiến tranh, hai miền Nam Bắc phân ly, đường sắt đứt nối nhiều đoạn.
Năm 1975, Việt Nam thống nhất , năm 1986, Chính phủ Việt Nam tiến hành khôi phục lại các tuyến đường sắt chính và các ga lớn, đặc biệt là tuyến Đường sắt Bắc Nam. Tuy nhiên, vẫn có câu hỏi: Phải chăng là đường sắt cao tốc mà Trung Cộng muốn làm? Hồ ẩn sơn trung Mao tận bạch, phải chăng là đường sắt này sẽ thực hiện , hay thực hiện xong sau khi HỒ CẨm Đào về hưu? mao tận bạch là gì? Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng là gì? Là trận thủy chiến ngoài Trường Sa, Hoàng Sa năm 1974 giữa Trung Cộng và VNCH? Là cuộc chiến giữa Việt Cộng- Trung Cộng năm 1988? Và cuộc thế chiến ba ở biển Đông?
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,
Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.
Câu này không rõ.
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,
Tứ phương thiên hạ thái bình phong.
Chờ khi Hoa Kỳ( chim ưng) đánh vào Hoa lục ( sư tử) thì thiên hạ mới thái bình!
Chú thích
(1). Trần Văn Giáp. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm , quyển I, Thư viện Quốc Gia, Hà Nôi, 1970,tr. 87).
( 2). Phạm Đan Quế, Giai Thoại và Sấm Ký Trạng Trình; Văn Nghệ TP HoChi Minh, 1992; 78-79)
(3). Nguyễn Khuê. Nguyễn Bỉnh Khiêm Qua Bạch Vân Am Thi Tập. Nhà xb.HochiMinh, 1997, 379-402
ĐIỂN SẤM TRẠNG TRÌNH
Sấm Trạng trình có nhiều bản khác nhau nhưng các bản này vẫn có những đoạn giống nhau. Trước đây, trong ấn bản Sơn Trung, chúng tôi đã chú thích các bản Sấm Trạng Trình. Như đã nói, chúng tôi đã có bản nôm Trình Quốc Công Ký và bản nôm Phùng Thượng Thư Ký mà bạn tôi, ông Trương Quang Gia đã phiên âm từ 1990. Nhưng người nghiên cứu vẫn để yên trong ngăn tủ, nay mới đem ra xem xét cẩn thận, thì thấy người xưa đã chú thích phần lớn. Nay đem cả chú thích mới và cũ tập họp lại theo dạng tự điển để độc giả tiện tra cứu.
Bạch sĩ : chưa rõ
Bảo Giang (Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang đã định ai hay): không rõ nghĩa
Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
(Sở Cuồng, 426-429; TVThanh,227-230)
Nói về kinh đô Thăng Long và kinh đô Phú Xuân hay thủ thủ đô Hà Nội và thủ đô Sàigòn?
Cưu, nhạn : chim cưu và chim nhạn, nói nhân dân.
Cửu cửu càn khôn dĩ định,
Thanh minh thời tiết hoa tàn.
Trực đáo dương đầu mã vĩ,
Hồ binh bát vạn nhập Trường An.
(Bản Anh Phương, 151-154; bản Sở Cuồng, 410-413, Trịnh Vân Thanh, 165-168))
Bản Phùng Thượng Thư nói về quân Mãn Thanh sang Việt Nam kỷdậu 1789 còn các bản sau này nói Cộng sản vào Hà Nội năm giáp ngọ 1954.
Cửu thiên hồng nhật: họ Trịnh 鄭 chữ Trịnh có chữ nhật.
Chấn cung nhật hiện: chỉ họ Mạc莫, vì trong chữ Mạc có chữ nhật.
Dư đồ chia xẻ: Trịnh Nguyễn phân tranh.
Đao: Xem Hòa đao mộc lạc.
Điếm tuần: điếm là nơi canh gác, thường là cái chòi tranh để tuần phu ngồi trong lúc canh phòng. Tuần là đi rảo xung quanh làng xóm để xem xét kẻ gian phi.
Đỉnh Hoành sơn: ( Đỉnh Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.) nói về chiến tranh giữa Trịnh, Nguyễnvà Tây Sơn tại miền Trung.
Đông A :là nhà Trần 陳. (Trong chữ Trần có chữ Đông và bộ phụ của chữ A 阿). Âm vị là con gái. Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền ngôi cho chồng.
Hòa đao mộc lạc chỉ họ Lê 梨, 棃.có chữ đao .Họ Lê lên thay họ Đinh.
Hoàng Giang: (Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh Sông Bảo Giang đã (thiên) ai hay): không rõ nghĩa. Phải chăng chỉ dòng họ Nguyễn Hoàng ?
Kìa cơn gió thổi lá rung cây
Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
(Bản Sở Cuồng, Mai Lĩnh, câu 379-386)
Các bản sau này giải thích việc Nguyễn Thái Học khởi nghĩa năm 1930, và việc Pháp dùng 5 máy bay ném bom triệt hạ làng Cổ Am, căn cứ của Việt Nam Quốc Dân Đảng trong cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Bảo. Hải Dương.
Kỳ mộc: cây lạ, chỉ họ Lê. Lê Lợi lên ngôi.(Xem Hòa Đao mộc lạc ).
Khí hủ: hủ là hư nát trong nghĩa hủ bại. Các bản khác ghi là hư.
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
Can qua xứ xứ khổ đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
(Anh Phương 171-174; Trịnh VÂn Thanh, 185-188)
Bản Phùng Thượng Thư Ký và một số có đoạn này. Bản Phùng Thượng Thư không chú rõ. Các bản khác đều cho rằng đioạn này nói kỷ dậu 1945 chấm dứt thế chiến, nhưng điều này khiông đúng