18/06/2018, 15:47

Trận Điện Biên Phủ – Henri Navarre

Nguyên tác của Henri Navarre Trọng Đạt dịch LND – Bài này trích dịch trong cuốn Agonie de l’Indochine của Đại tướng Navarre, Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp tại Đông Dương từ đầu tháng 5-1953 cho tới đầu tháng 6-1954. Ông được triệu hồi về Pháp sau khi Điện Biên Phủ thất thủ ...

dien-bien-phu

Nguyên tác của Henri Navarre
Trọng Đạt dịch

LND – Bài này trích dịch trong cuốn Agonie de l’Indochine của Đại tướng Navarre, Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp tại Đông Dương từ đầu tháng 5-1953 cho tới đầu tháng 6-1954. Ông được triệu hồi về Pháp sau khi Điện Biên Phủ thất thủ 7-5-1954. Năm 1956 ông viết Agonie de l’Indochine, Đông Dương Hấp Hối, dầy 335 trang mục đích để bào chữa cho ông và quân đội Pháp về nguyên do bại trận tại Điện Biên Phủ và qui trách nhiệm cho chính phủ Pháp đã đưa tới sự hấp hối và sụp đổ cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất 1946-1954.

Sự thật người dân Pháp, chính phủ đã quá chán ngán cuộc chiến này, tốn kém về tài chính, nhân mạng mà không biết bao giờ chấm dứt, họ muốn bỏ Đông Dương vì không còn quyền lợi. Năm 1945 Pháp vào Việt Nam để chiếm lại thuộc địa nhưng nay mục đích ban đầu không còn, chế độ thuộc địa cáo chung, các nước Anh, Hòa Lan.. đã trao trả độc lập cho các thuộc địa của họ. Theo Navarre kể lại trong các chương trước từ giữa năm 1952 trở đi, nhất là từ 1953 trong khi Trung Cộng ngày càng gia tăng quân viện cũng như giúp Việt Minh thành lập thêm nhiều đơn vị chính qui thì chính phủ Pháp không tăng cường thêm cho chiến trường Đông dương.

Mặc dù năm 1953, 1954 viện trợ Mỹ cho Pháp gia tăng nhiều, riêng 1954 Mỹ đã gánh 78% chiến phí (The Pentagon Papers Volum 1, Chapter 2) nhưng quân Pháp tại Đông Dương ngày càng suy yếu so với Việt Minh cả về chủ lực quân lẫn hỏa lực. Trang 42 tác giả cho biết Việt Minh có một lực lượng chính qui tương đương 9 sư đoàn (6 sư đoàn có danh hiệu, một không tên và nhiều trung đoàn độc lập), trong khi Pháp chỉ tương đương 3 sư đoàn (7 nhóm lưu động, 8 tiểu đoàn nhẩy dù, trang 43).. Tóm lại trận Điên Biên Phủ là hậu quả khó tránh của tình trạng ngày càng suy yếu của Pháp so với Việt Minh, cái mà ông goị là tình trạng hấp hối của Đông Dương

Việt Minh thắng Điện Biên Phủ nhờ quyết tâm hy sinh nhiều nhân mạng và nhận được viện trợ quân sự tăng vọt của Trung Cộng khi bắt đầu trận đánh. Trong suốt trận đánh trên 50 ngày, Việt Minh đã pháo xuống khu lòng chảo vào khoảng 200 ngàn quả đạn đại bác và súng cối lớn. Giữa thập niên 80 tôi có được đọc một cuốn sách dài khoảng 100 trang do một đại học Mỹ xuất bản năm 1974 nói về mười trận đánh lớn nhất thế giới, (lâu quá không nhớ rõ tên, The great military battles?). Sách gồm mười bài, mỗi bài do một Giáo sư hoặc một nhà nghiên cứu viết, Điện Biên Phủ cũng được xếp trong số mười trận đó và xếp hàng thứ mười, họ xếp theo thứ tự thời gian, trước đó là trận Bá Linh và Stalinggrad.

Trong phần mở đầu, nhà xuất bản cho biết: những trận đánh lớn nhất thế giới ở đây không hẳn là lớn về số lượng quân sự, nhân sự mà vì nó thay đổi một khúc quành lịch sử. Thí dụ trận Stalingrard 1942, là khởi điểm cho sự bại trận của Đức Quốc Xã, trận thủy chiến Midway 1942, Nhật thảm bại thua luôn cuộc chiến Thái Bình Dương. Trận Điện Biên Phủ 1954 đã kết thúc chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương và lôi kéo Hoa Kỳ vào cuộc chiến tranh dài như vô tận.

Mặc dù Điện Biên Phủ chỉ là một trận nhỏ về quân sự, tổng số quân hai bên gần 70 ngàn người, tương đương với 6 hoặc 7 sư đoàn, so với Stalingrard tổng số cả hai phía gần một triệu rưỡi người, ước lượng từ 130 tới 150 sư đoàn nhưng Điện Biện Phủ cũng được coi như ngang hàng với Stalingrard vì ý nghĩa lịch sử của nó. Về điểm này tác giả Bernard B. Fall trong cuốn sách nổi tiếng Hell In A Very Small Place, The Siege of Dien Bien Phu cũng nói vậy (Preface, trang VII).

Tôi đã đọc phần nói về Điện Biên Phủ trong Agonie de l’Indochine vào năm 1972, tình cờ nay lại có được cuốn sách này do một người bạn du lịch châu Âu về gửi tặng, nó là môt tài liệu quí và hiếm, xin dịch lại để phổ biến cùng quí vị.

Tôi xin dịch nguyên văn Chapitre VII, La Bataille De Dien Bien Phu từ trang 188 cho tới trang 258 trong Agonie de l’Indochine của Henri Navarre, in năm 1956, nhà xuất bản Librairie Plon, Paris. Vì bài dài 70 trang bằng gần 1/5 cuốn sách nên tôi bỏ bớt một số chú thích rườm rà. Hành văn của Tướng Navarre nhiều chỗ cô đọng khó hiểu nên đôi khi tôi có chú thích thêm cho sáng sủa. 

Tại Sao Có Điện Biên Phủ? 

dien bien phu 1

Một câu hỏi đã được chúng tôi đặt ra nhiều lần: ta sẽ làm gì tại cái nơi hẻo lánh miền Thượng du Bắc Việt này. 

Để hiểu lý do tại sao tôi cho chiếm Điện Biên Phủ (ĐBP) và chấp nhận trận đánh, ta cần trở lại tình hình cuối tháng 10-1953 khi Việt Minh bỏ kế hoạch tấn công vùng châu thổ Bắc Việt (Delta) hướng về Thượng du (Bắc Việt) và Thượng Lào. Những ngày cuối tháng 10, chúng tôi được biết lính địa phương Thái bị hai tiểu đoàn chính qui tấn công và Sư đoàn 316 bỏ vùng châu thổ tiến về Lai Châu. 

Những ngày đầu tháng 11 có nhiều dấu hiệu cho thấy những đơn vị quan trọng không được xác định rõ của các Sư đoàn 304, 308, 312 có lẽ tiến về Thượng Du theo sau Sư đoàn 316. Dần dần do những nguồn tin chính xác chúng tôi biết kế hoạch của Việt Minh (VM). Tại Tây Bắc Đông Dương họ nhắm tiêu diệt quân địa phương Thái , thanh toán đồn lũy Pháp tại Lai Châu và mở rộng ảnh hưởng VM tại Thượng Lào (Phong Saly – Nam Bac – Luang Prabang) để dễ kiểm soát toàn vùng biên giới Hoa – Lào và để tiếp cận với Thái Lan. Căn cứ dự định cho chiến dịch của họ là ĐBP.
Trước tình thế ấy, rõ ràng là vào cuối tuần đầu tháng 11, ta cần phải quyết định ngay nếu không địch sẽ ra tay trước. Cần phải bảo vệ Lào hay không? Nếu cần phải làm sao?

Việc bảo vệ Lào luôn luôn là trách nhiệm thường trực của Tư lệnh Đông Dương, nhưng trong chiến dịch 1952-1953 hầu như toàn bộ quân trừ bị của chúng tôi đã được xử dụng để bảo đảm kết quả và đã gây nên những khó khăn vô cùng cho hiện tình quân đội Pháp. Tôi đã đệ trình lên Ủy ban Quốc phòng xin bớt trách nhiệm cho Tư lệnh từ tháng 7-1953 nhưng không thấy quyết định gì cả, nhiệm vụ không đổi mới, vẫn y như cũ.

Nó vẫn y như thế và còn có tính bó buộc, vả lại ngày 28-10 một hiệp ước mới được ký kết tại Paris với chính phủ Lào, do văn kiện này nước Lào vào Liên hiệp Pháp, Pháp có bổn phận phải bảo vệ Lào. Hiệp ước này về mặt ngoại giao được coi như khuôn mẫu cho Việt Nam và Miên sau này, nếu không tôn trọng mười lăm ngày sau khi ký sẽ làm hủy hoại tới chính sách cùa chúng ta.

Tôi hỏi ý kiến ông Tổng ủy viên (1) đầu tháng 11 (1953), ông nói việc bảo vệ Lào là tất nhiên. Ông Marc Jacquet, Bộ trưởng Các nước liên kết (2) tới Đông Dương vào giữa tháng 11cũng nói thế, ông còn cho biết nếu để VM chiếm Luang Prabang và tiến tới sông Cửu Long sẽ gây chấn động dư luận Pháp và cuộc chiến Đông dương sẽ không tiếp tục được.

Chúng ta đã hiểu nguyên nhân nhưng làm cách nào để bảo vệ? Phải che chở trực tiếp nó hay hoặc bảo vệ gián tiếp bằng những lực lượng từ châu thổ (Bắc việt) mục đích buộc Quân đoàn VM (3) hoặc một phần lực lượng của họ phải đương đầu?

Câu hỏi này phụ thuộc vào chiến lược chung của chiến trường lớn Đông Dương mà tôi đã nghiên cứu ở trên kia (Chương VI). Vì thiếu phương tiện (4), dù muôn hay không tôi phải quyết định bảo vệ trực tiếp Lào.

Bảo vệ ở đâu cho chắc?
Từ xứ Thái, sẽ là nơi Việt Minh tập trung, đường vào Lào gồm hai chùm: cả hai đều tới Cửu Long thượng. Đường từ đông qua Sầm Nứa và cao nguyên Traninh tới Paksane, Luang Prabang và Vạn Tượng. Nó được cai quản bởi một đồn lũy tại Cánh đồng Chum do Tướng Salan lập lên từ năm trước. Đi từ hướng Tây là tốt nhất, bắt đầu từ Tuần giao, ở chỗ này qua Điện Biên Phủ và và thung lũng có đường sông Nam Ou dẫn tới Luang Prabang rồi tới Vạn Tượng.

Chúng tôi có tin chắc chắn lực lượng lớn của Việt Minh sẽ mượn đường này. Nếu tính toán ra thì sẽ biết có lẽ Quân đoàn VM ở ĐBP đầu tháng 12 (1953) và tới Luang Prabang ngày 1-1-1954. Những tuần lễ đầu năm sẽ thấy họ tới Vạn tượng ít nhất cũng bằng những đơn vị khinh binh và họ đi dọc theo sông Cửu Long biên giới Thái Lan.

Việc bảo vệ Lào không thể dùng vận động chiến (5). Tôi đã nói tới trong một chương trước vì những lý do: địa thế, quân Pháp không thích hợp. Vì thế ta phải cần một phương pháp khác. Cái mà truyền thống ta gọi là “chiến tranh vị trí” (6), cũng gọi bằng một từ tối tân đó là hệ thống những “con nhím” hay những “đồn lũy” (7), một giải pháp xoàng nhưng qua thử thách cho thấy chỉ có nó là xài được. Nó không ngăn được các đơn vị khinh binh của địch di chuyển nhanh, nhưng nó bảo đảm cho ta những điểm cơ bản bằng ngăn chận xâm chiếm của địch. Chính phương pháp này Tướng Salan đã cần tới năm trước.

Ở đâu chúng ta có thể lập những “vị trí” những “con nhím”, những “đồn lũy”- người muốn gọi nó theo cách nào cũng được? Chỉ bảo vệ Lào ở ở Luang Prabang hay ở Vạn Tượng là những giải pháp không đủ chống lại những thử thách sơ đẳng. Về phương diện chính trị cũng như bảo vệ Pháp tại Paris và tại Orléans. Thực vậy Luang Prabang có tầm chính trị quan trọng, Vạn Tượng chỉ là một thủ đô hành chánh không có gì. Chiến đấu cho Luang Prabang có lợi rất lớn. Chiến đấu cho Vạn Tượng chẳng có lợi gì. Tốt hơn hết là cho di tản toàn bộ Thượng Lào.

Về mặt quân sự cả hai thủ đô này đều khó phòng thủ cả về lục quân cũng như không quân. Luang Prabang là một nơi hẻo lánh bị bao bọc tứ bề. Máy bay tới đây gặp trở ngại quanh năm. Vạn Tượng có thể bảo vệ bằng bộ binh dễ hơn nhưng với điều kiện phải khai quang rừng. Lại nữa những phi trường của hai thủ đô cách xa thành phố cần phải mất nhiều quân bảo vệ. Sau cùng nó cách quá xa phi trường châu thổ Bắc Việt không thể xử dụng được.

Cho dù ngay cả chúng ta xử dụng những phương tiện lớn (8) để bảo vệ Luang Prabang và Vạn Tượng để địch từ bỏ ý định đánh chiếm, họ sẽ không đánh thẳng mục tiêu mà đồn lính của ta tại đó sẽ bị bao vây ngay. Chúng ta sẽ không ngăn được VM chiếm những vùng xung quanh và chứng tỏ sự hiện diện của họ tại biên giới Thái Lan, đó là mục tiêu chính trị của họ.

Đối với mục tiêu này, địch nếu không bị buộc phải đánh vẫn có thể tiến tới mà không cần phải huy động cả Quân đoàn tác chiến. Họ còn một phần của lực lượng đáng kể ở tình trạng sẵn sàng, hoặc để tác chiến tại châu thổ Bắc Việt, hoặc để tăng cường cho miền trung Đông dương. Mặt trận 1954 cho thấy chắc chắn sẽ mất Thượng Lào hoặc một trận lớn tại châu thổ BV với ưu thế lực lượng rất mạnh về phía địch sẽ khiến Pháp thiệt hại nặng (9), hoặc VM sẽ tiến mạnh về phía Nam qua Trung Lào.

Để ngăn chận địch vừa có thể tới sông Cửu Long và vừa có những lực lượng gây nguy hại cho chúng, tôi chỉ có một giải pháp: cản đường hành trình họ sẽ đi qua bằng một đồn lũy, được thiết lập sao cho VM bị bó buộc hoặc phải đi vòng để che dấu những lực lượng rất lớn hoặc phải tấn công đồn trước khi tiếp tục đi qua.

Lập đồn lũy ở đâu?
Lai châu, thủ phủ chính trị của xứ Thái và là nơi duy nhất Pháp có phi trường tại miền Thượng Du rất xa đường đi của địch không ngăn chận được họ. Vả lại đứng trước áp lực mạnh, vị trí sẽ khó bảo vệ. Phi trường có đồn lũy bao quanh nắm trong một thung lũng hẹp và sâu. Ngay cả khi thời tiết tốt, máy bay đến đó cũng phải nhào lộn. Tại đây thường thì thời tiết xấu.

Chỉ có một địa điểm có thể lập phi trường được nằm phía nam Lai Châu 90km, đó là Điện Biên Phủ. Giá trị chiến lược của vị trí tại ĐBP đã được biết từ lâu lắm rồi. Ngày xưa Quân phương Bắc xâm lăng từ đây đổ xuống Thượng sông Hồng. Chúng tôi luôn luôn có một đồn tại đây, mà năm ngoái phải rút vì bị VM tấn công.

Trước khi ra đi (10), tướng Salan đã cổ võ cho việc chiếm lại ĐBP, ngày 25-5-1953, ông viết trong một bài nghiên cứu về việc bảo vệ Thượng Lào “Nay cần hoàn tất chủ lực quân tái lập căn cứ phòng thủ ĐBP. Từ đầu tháng giêng 1953 tôi đã khuyến cáo việc tái chiếm nơi đây, tôi thấy việc chiếm đóng địa phương này rất cần thiết cho an ninh Luang Prabang. Những biến cố trong khoảng tháng 4 tháng 5 (1953) vừa qua cho thấy sự cấp bách của chiến dịch này mà chỉ vì thiếu phương tiện vận chuyển hàng không đã ngăn cản sự thực hiện trước các cuộc tấn công của VM mới đây.

Các nhà cầm quyền Ai Lao biết rõ đất nước họ, cho là khi ĐBP không được chiếm lại, đường đi Luang Prabang bỏ ngỏ vì giữa ĐBP và thủ đô không có vị trí phòng thủ nào. Sau cùng chúng tôi biết VM cũng đánh giá cao vị trí của ĐBP (11). Sự quan trọng của ĐBP không thể chối cãi được cũng như khi cuộc chiến của chúng tôi mở rộng. Nó là nơi hội tụ của các chặng đường nối những vùng biên giới Lào, Thái Lan, Miến Điện, Tầu. Vị trí này rất khó đến bằng đường mòn trên đồi núi. Cánh đồng ĐBP đông dân, trù phú nhất miền Thượng du. Sản lượng lúa gạo tại đây rất thừa thãi có khả năng nuôi sống từ 20,000 tới 25,000 người. Phi trường có thể mở rộng rất nhiều, có khả năng gấp hai gấp ba lần. 

Tuy nhiên ĐBP, trong những trường hợp mà chúng tôi thấy, có một trở ngại lớn về hàng không, nó cách xa phi trường tại châu thổ BV, nhưng phải chấp nhận khó khăn này không có cách nào khác.

Trong bất cứ trường hợp nào, bảo vệ ĐBP bằng không quân sẽ hơn là đánh địch tại Luang Prabang và Vạn Tượng. Vả lại đường xa gây trở ngại cho ta về không quân nó cũng gây trở ngại cho VM về tiếp liệu. ĐBP cách Châu thổ 200 km, cách biên giới Tầu 300 km, không có đường từ biên giới tới đó, hoặc nếu có cũng bị phá hỏng. Vì thế nếu đánh ĐBP, Việt Minh phải dùng dân công tiếp tế, khả năng giới hạn thôi. Trong môt bài nghiên cứu tháng 5-1953 về các chiến dịch miền Thượng du, Tướng Salan nêu ý kiến VM không thể dùng nhiều vũ khí nặng vì khó khăn về vận chuyển.Thực ra viện trợ tăng cường ồ ạt của Trung Cộng cho thấy những dự đoán trên sai. 

Về phương diện chiến thuật sự phòng thủ ĐBP cũng tương tự như tất cả những đồn lũy trong vùng đồi núi bao quanh một phi trường.Vị trí sẽ là chỗ trũng, không thể làm khác hơn vì người ta không thể lập phi trường trên đỉnh núi.

Tuy nhiên ĐBP là một vùng rộng nhất của Thượng Du, một cánh đồng dài 12 km rộng 9 km, bằng phẳng rất thuận lợi cho việc xử dụng thiết giáp. Những đỉnh núi cao cách phi trường từ 10 tới 12 km, sẽ thiết lập đồn lũy quanh đó. Khoảng cách này ngoài tầm pháo của địch. Những khẩu pháo này chỉ có thể đặt trên sườn đồi núi hướng về phía trong lòng chảo. Phòng không địch cũng muốn chế ngự không gian phía trên phi trường. Theo ý kiến pháo thủ ta địch sẽ không làm được, các khẩu pháo sẽ bị các đài quan sát trong lòng chảo phát hiện khi họ đặt súng hay khi bắn. Chúng sẽ bị “bịt mõm” do phản pháo của ta và do không quân oanh tạc. Những điều kiện mà VM đã xử dụng được pháo binh đã bác bỏ những luận cứ rất lý thuyết như trên, tôi sẽ bàn sau.

Nói chung vị trí của ĐBP so với tất cả những bất tiện các đồn lũy miền Thượng du, nói một cách dè dặt nó thỏa mãn yêu cầu. Nó tốt hơn cả so với Nasan, Lai châu, Luang Prabang, nó giá trị ngang với Cánh đồng Chum. 

Đó là những lý do ta phải chiếm ĐBP và chấp nhận giao tranh, giải pháp tầm thường nhưng chấp nhận được để chống lại địch, nó hợp lý để nghĩ tới cái ta sắp làm. Nhưng kế đó ta không đoán trước địch tăng sức mạnh nhanh chóng. Nói chung ta không biết gì hơn thế 

oOo

Quyết định đánh ĐBP đã tạo lên, sau khi đồn lũy sụp đổ, nhiều phê phán, đa số không đúng sự thật. Có người nói việc chiếm ĐBP do Chính phủ bắt buộc tôi. Không đúng thế. Chính phủ đã sai lầm khi quên – không xác định rõ nhiệm vụ của tôi và không cung cấp cho tôi những phương tiện để chiên thắng – nhưng trách nhiệm của họ chỉ có thế. Họ không can thiệp vào tác chiến. Sau ngày đồn lũy sụp dổ, trả lời phòng vấn một ký giả trong cuộc họp báo, tôi nhận trách nhiệm hoàn toàn về kế hoạch, quyết định tác chiến trong trận ĐBP.

Có sự xác nhận trái với điều khẳng định trên cho rằng quyết định đánh ĐBP trái với ý kiến của của một số vị cấp bộ trưởng trong Chính phủ, và nhất là các vị chỉ huy quân sự, trong đó có một số thuộc cấp của tôi. Tất cả những chuyện này cũng đều sai.

Trước khi tình hình mặt trận bắt đầu xấu, Chính phủ đã không bầy tỏ ý kiến dè dặt nào. Vả lại, tôi sẽ nói sau, họ còn trách tôi bi quan khi tôi tỏ ý lo sợ. Không hề có một cấp chỉ huy quân sự nào có lập trường, dưới bất cứ hình thức nào chống lại kế hoạch quân sự tại ĐBP. Bản kế hoạch này cũng đã được sự chấp thuận của Tướng Ely, Tổng tham mưu trưởng Bộ quốc phòng và Chủ tịch ủy ban các TTM. Không hề có thuộc cấp nào của tôi trong Lục quân, Không quân – ít ra những người trực tiếp liên quan – phản đối. 

Nhưng khi tình hình mặt trận xấu, nhất là khi đồn lũy thất thủ thì nghe thấy trong hàng giới chức cao cấp quân sự và nhất là giới chính trị một số câu như “Tôi đã nói trước rồi mà!” Các thuộc cấp của tôi, trái lại tỏ ra hoàn toàn trung thành với tôi và tránh làm mất đoàn kết với tôi. Chỉ có Tướng Cogny tạo môt huyền thoại, sáng tác nhiều thứ, cho rằng ông ta bất đồng ý kiến với tôi về chiến lược đã đưa tới trận ĐBP. Ông soạn ra một tường trình, về lúc cuối trận mà những luận cứ sai dựa vào những rò rỉ cơ hội đã được phổ biến rộng rãi trên báo chí và diễn đàn nghị viện. Tôi đã nói và sẽ nói sau về vai trò của ông ta trong thiết lập và thi hành kế hoạch ĐBP đủ để chứng minh một chủ đề mà chỉ có mục đích giải thoát khỏi cái mà ông cho là trách nhiệm của mình. 

Khi làm thế, Tướng Cogny đã vi phạm một cách vô ích vào truyền thống danh dự của quân đội bởi vì, nói về vấn đề quyết định ở cấp bậc của tôi, trách nhiệm của ông ta đã được định rõ chỉ cần một việc là tôi đã giữ quyền quyết định, cho dù ông gợi ý cho tôi nhiều.

Sau cùng ông nói là ĐBP được làm ra để “giết Việt Minh”. Như tôi đã nói ở trên về những lý do đưa tới quyết định của tôi và tôi được miễn phải bác bỏ lối giải thích đơn giản này, nhưng mà – nếu nó có thật – tôi chẳng có gì phải xấu hổ đáng tiếc gì cả về phương diện nhân bản, “giết kẻ địch” là chủ trương chính đáng của tất cả các tư lệnh chiến trường. Đó cũng là nhiệm vụ chính mà Tướng Giáp giao cho quân đội của ông.

Để bảo vệ Lào, tôi có cách nào khác hơn là mở trận chiến ĐBP?
Chiến lược không phải là một khoa học chính xác, những vấn đề nó bao hàm có nhiều giải pháp mà cấp chỉ huy phải lựa chọn. Tuy nhiên nhiều lúc – nhất là trong những trường hợp khó – mà một giải pháp dù là xoàng, nó áp đặt tuyệt đối vì chỉ có nó cho phép, với những phương tiện mà người ta cho để hoàn thành nhiệm vụ.

Đó là trường hợp của tôi. Chiếm ĐBP và và chấp nhận trận đánh mà tôi coi như giải pháp duy nhất cho tôi cơ hội cứu Ai Lao với những lực lượng tôi có. Như đã nói, trước khi có trận đánh tôi không hề thấy ai đề nghị với tôi giải pháp nào khác. Trái lại họ họ đều nói “cần phải làm như vậy”. Không có ý kiến nào khác dưới hình thức một giải pháp cụ thể, thích hợp với nhiệm vụ và phương tiện của tôi. Điều ghi nhận này đã củng cố niềm tin của tôi rằng không có cách nào khách hơn cái tôi đã làm. 

Chú thích:
(1) Commissaire general, đứng đầu về hành chính, Tư lệnh (Navarre) đứng đầu về quân sự (chú thích của người dịch)
(2) États associes, tức Việt, Miên, Lào. (chú thích của người dịch)
(3) Corps de bataille Vietminh, ám chỉ các sư đoàn chính qui VM như 304, 308, 312, 316…(chú thích của người dịch)
(4) Les moyens, gồm lực lượng, hỏa lực, đạn dược, tiếp liệu… (chú thích của người dịch) 
(5) Guerre de movement: Chiến lược quân sự dùng di chuyển nhanh để thắng địch. (chú thích của người dịch)
(6) Guerre de places: chiến tranh vị trí, nơi chốn, đó là chính sách đóng đồn mà ta thường thấy trong hai cuộc chiến Đông Dương. (chú thích của người dịch)
(7) Camp retranché: đồn lính có nhiều công sự phòng thủ, hào, hầm… kiên cố như Điện Biên Phủ, trong bài này Navarre dùng chữ “đồn lũy” để chỉ ĐBP (chú thích của người dịch)
(8) Phương tiện rất nhiều so với nhu cầu để bảo vệ Điện Biên Phủ sau này. (chú thích của tác giả)
(9)Trận Châu thổ rất nặng (chap.VI), Tướng Cogny đã rất lo lắng về vấn đề này, thậm chí đã dự tính bỏ Hà Nội. Trận đánh ở Trung Lào không kém phần gay go. Nếu một trong hai mặt trận diễn ra với tỷ lệ lực lượng bất lợi (VM hơn Pháp từ 15 tới 20 tiểu đoàn) chắc chắn ta sẽ thua. VM đã thắng ngoạn mục tại ĐBP, Hội nghị Genève đã khiến họ cần phải thắng (chú thích của tác giả)
(10) Raoul Salan, Tư lệnh Đông Dương từ 6-1-1952 tới 8-5-1953 (chú thích của người dịch)
(11) Khi trận đánh đang diễn ra, Tướng Giáp trả lời phỏng vấn một ký giả CS Ý: ông ta nói địch chiếm ĐBP không những để thiết lập căn cứ tấn công Tây Bắc VN mà còn có mục đích xa hơn, nó đặc biệt của Bộ Tham mưu Hoa Kỳ, đó là thiết lập một căn cứ không quân quan trọng nhất Đông nam Á. Ông ta còn cho biết ĐBP là trung tâm một vòng tròn tiếp giáp phía nam nước Tầu, Miến điện, Thái Lan. Về sau trả lời phỏng vấn một tờ tuần báo của CS Pháp, ông ta nói: ĐBP là một địa điểm chiến lược rất quan trọng. Quân đoàn Viễn chinh tới đó trước hết để bảo vệ Lào và chiếm lại Tây Bắc VN. Thực hiện được kế hoạch này, địch xây dựng một căn cứ không quân và bộ binh đe dọa hậu cứ của chúng tôi (VM) và buộc lực lượng của chúng tôi giữa ĐBP và châu thổ BV phải phân tán (chú thích của tác giả)

Chiếm Điện Biên Phủ

Thượng tuần tháng mười, tôi cho chiếm ĐBP và lập một căn cứ không quân tại đây để bảo vệ Lào. Chiến dịch không thực hiện vội vã vì kế hoạch đã được soạn từ mấy tháng trước. Tôi nhớ ra vào mùa hè, tướng Cogny đã nhiều lần đề nghị với tôi, cùng với việc rút bỏ Nasan mà ông cho là sai chiến lược và về chiến thuật mất nhiều quân, để chiếm ĐBP nơi mà ông cho là có nhiều lợi về mọi phương diện.

Hồi ấy chưa thành lập đủ quân trừ bị, tôi phải hoãn thi hành chiến dịch. Nó được dự trù tháng 12 (1953) hay tháng 1 (1954) dưới hình thức hành quân phối hợp một từ Lào, một từ Lai châu trong khi lính nhẩy dù đổ xuống mục tiêu.

Cần phải tiến hành nhanh trước khi Quân đoàn của VM tới. Quân từ Lào còn xa, ở Lai châu không đủ nên phải xử dụng không vận. Ngày 20-11 (1953) được chọn là hạn chót để đóng quân khi những đơn vị đầu tiên của Quân đoàn VM sẽ đến. Một tập hợp nhẩy dù gồm 6 tiểu đoàn và một đội pháo (75 ly không giật) sẽ chiếm ĐBP trong khi quân tại Lai Châu xác định tối đa những đơn vị địch tại vùng Tuân giao. Khi thiết lập phi trường xong, ba trong số những tiểu đoàn nhẩy dù sẽ được đưa tới bằng không vận từ châu thổ BV. Sau đó quân từ Lai Châu sẽ được đưa tới ĐBP khi bị địch đe dọa tấn công.

Ngày 20-11, như đã tiên liệu, ba tiểu đoàn nhẩy dù được đưa tới chiếm ĐBP bị một tiểu đoàn địa phương quân VM tấn công, địch bị bất ngờ. Tiếp theo đó ngày 22, 23 ba tiểu đoàn nữa tới cùng với đội pháo binh. Ngày 22 đã liên lạc với Lai châu. Ngày 24 phi trưởng đã mở, Tướng Gilles đã thực hiện chiến dịch hoàn hảo.

oOo

Sơ Khởi Về Trận Đánh

Những ngày đầu tháng 12(1953) tiền quân của Sư đoàn 316 xuất hiện gần Lai Châu. Tướng Cogny, mới đầu có ý định, được sự đồng ý của tôi, giữ Lai Châu và chơi nước đôi Lai châu-ĐBP càng lâu nếu có thể, nhưng nay quyết định cho di tản Lai Châu ngay. Thật vậy hiện ông chỉ muốn tập trung phòng thủ một ĐBP độc nhất. Chủ lực quân tại Lai Châu được không vận tới ĐBP ngày 8-12. Những đơn vị phụ lực khác tới sau bằng đường bộ. Còn lại đi đường rừng.

Từ ĐBP, tướng Cogny nay hy vọng có thể mở “những cuộc tấn công mạnh” mục đích làm chậm lại việc đóng quân của địch. Sư thật những hoạt động này chỉ chỉ giới hạn ở việc tuần tiễu và trinh sát lanh quanh thôi. Đúng vậy nhưng hoạt động quan trọng nhất, sâu xa nhất chẳng bao lâu chỉ là không phù hợp đối với ông, vì những chủ lực quân cần có, với những công việc cần thực hiện ngay để làm cho căn cứ có thể đương đầu với cuộc tấn công của địch có thể sẩy ra rất nhanh. Vả lại trong những cuộc chạm địch của những đội thám sát, khả năng tác chiến trong rừng của quân ta yếu kém rõ rệt.

Vào ngày 8-12 (1953), đại tá de Castries thay thế tướng Gilles trong chức vụ chỉ huy đồn lũy. Tôi nghĩ ở đây cần phải nói những lý do thực sự về việc thay đổi cấp chỉ huy này mà nó đã có nhiều phê phán sai lạc hay có chủ đích riêng. 

Tướng Gilles thường chỉ huy toàn thể binh chủng nhẩy dù tại Đông dương. Ông chịu trách nhiệm về huấn luyện và thành lập những đơn vị mới mà kế hoạch đã dự trù, ông không thể xa bộ chỉ huy của mình lâu dài mà không gây trở ngại. Do đề nghị của tướng Cogny, tôi chỉ định đại tá de Castries thay thế ông. Việc lựa chọn này đã là đề tài của nhiều chỉ trích 

Người ta nói tại sao lại chọn một kỵ sỹ trong khi một đồn lũy thường là cần một người bộ binh? Bởi vì cả tướng Cogny và tôi không có tinh thần phân biệt binh chủng, và vì đại tá de Castries đối với cả hai chúng tôi có lẽ là người có khả năng nhất để bảo vệ ĐBP mà chúng tôi mong đợi. Chúng tôi không chỉ định “vì là kỵ sĩ” cũng không phải “dù là kỵ sĩ”.

Người ta cũng hỏi là tại sao lại cho một đại tá làm chỉ huy trưởng mà thường phải là một ông tướng? Bởi vì tại Đông dương thiếu sĩ quan cấp tướng trầm trọng, một đại tá lãnh nhiệm vụ chỉ huy của cấp tướng là bình thường- và cũng vì tướng Cogny và tôi không có tinh thần phân biệt binh chủng, không sùng bái những ngôi sao (1).

Dù sao, tôi quả quyết rằng không thể cử ai – dù là một ông tướng hay một người bộ binh – có thể làm hơn được đại tá de Castries. Để phụ giúp mình, người chỉ huy đồn lũy lập một bộ tham mưu theo kiểu mẫu của sư đoàn. Một phân đội liên lạc với không quân cũng được lập dành cho ông.

Nhiều tin tức dần dần cho biết những lực lượng quan trọng của Việt Minh tiến về miền Thượng du với tiếp liệu lớn chưa từng thấy của họ. 

Ba sư đoàn rưỡi (316-308-312 và một phần của 304) đang trên đường tới Tây Bắc. Những dấu hiệu cho thấy có thể có Sư đoàn nặng 351 (2).

Viện trợ của Trung cộng cho VM gia tăng rất mạnh, có nhiều dấu hiệu cho thấy vũ khí đạn dược được chở tới biên giới BV. Khoảng 75,000 dân công có thể được tập trung tại Thượng du nhờ Tầu cung cấp gạo và phương tiện chuyên chở (3). Tái tạo khoảng 200 km đường giao thông cho xe ô tô vận tải và làm thêm hàng trăm km đường nữa (4).

Rõ ràng là VM đã tạo được một đường giao thông từ đầu chí cuối bằng ô tô. Con đường này dài khoảng 350 km, bắt nguồn từ biên giới Tầu tại Lạng Sơn, Cao Bằng, đi vòng châu thổ (Delta, BV) qua Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái (tại đây qui tụ một đường tiếp tế khác xử dụng được bằng sông Hồng từ Lào Kay), rồi qua một đường giao thông mà đa phần kiến tạo bằng nhiều đoạn, nối tiếp R.P.41 (Hòa Bình-Lai Châu) gần Na San và đạt tới Tuần Giao, tại đây họ lập một căn cứ hậu cần quan trọng để tiêp tế cho Quân đoàn bao vây ĐBP (5).

Hai đường giao thông nữa cũng tới điểm này, một cũng từ bên Tầu qua Ban Nam Coun và Lai Châu nhưng bằng những đường mòn xấu hoặc những đường thủy loại thường, lưu thông kém (6). Mục đích lấy thêm gạo ăn. Đường kia từ Thanh Hóa qua thung lũng sông Mã. Năng xuất của nó cũng rất thấp.

Không quân Pháp tận dụng để ngăn chặn những đường giao thông, vận chuyển và tấn công các đoàn xe vận tải qua lại. Đó chỉ là vô ích. Những đoạn đường bị cắt được sửa chữa rất nhanh. Những xe cam nhông, xe đạp thồ và đoàn dân công khiêng vác chỉ đi ban đêm và khi thời tiết xấu ngăn không cho phi cơ bay lên hoặc họ ngụy trang rất khéo khiến trinh sát của ta không thấy được. Không quân của ta hiển nhiên là không đủ để đạt kết quả mong muốn. Trước tình trạng này, cuối tháng 12 (1953) tôi cảm thấy lo âu và lưu ý Chính phủ (Pháp) về sự đe dọa đè nặng xuống ĐBP và tôi nhấn mạnh đặc tính mới của mặt trận là viện trợ Trung cộng cho VM ồ ạt.

Trong một bức thư ngày 1-1-1954, tôi nói “trong trường hợp có cuộc tấn công, ta có hy vọng thắng không? chỉ còn hai tuần nữa, tôi ước lượng một trăm phần trăm. Đó là trận đánh do ta lựa chọn chiến địa và trong điều kiện thuận lợi chống kẻ địch sở hữu những phương tiện mà ta biết tới ngày 15-12 (1953). Nhưng trước những phương tiện mới mà tin tình báo nghiêm chỉnh cho biết, tôi không thể bảm đảm chắc chắn thắng lợi nữa. Trước hết là trận chiến không quân” và nói xa hơn “Nếu thua trận chiến không quân, nghĩa là địch xử dụng những vũ khí nặng (7), tôi không thể bảo đảm chiến thắng. Mà không quân ta rất yếu lại phải đảm nhận một trọng trách to lớn” 

Bởi thế tôi xin tăng cường không quân ngay và kết luận “Tôi coi như chủ lực quân tập trung tại ĐBP, là điều cần và đủ để bảo vệ Thượng Lào và giữ sự hiện diện của ta tại Thượng du. Sự đóng quân này sẽ đạt nhiều lợi ích lớn nếu ta thắng trận ĐBP. Nếu ta thua trận ĐBP sẽ là một thiệt hại lớn lao. Trong mọi trường hợp đóng vai trò “tạo mủ để tránh nhiễm trùng” và có thể tránh trận đánh lớn vào Châu thổ.

Bức thư ấy không được phúc đáp, ông M.Marc Jaquet, Bộ trưởng các Nước liên kết (Việt, Miên, Lào) trong một chuyến sang Đông dương sau đó không những chỉ nói cho tôi biết nguyên văn Chính phủ coi đó là “rất bi quan”, họ vẫn còn sảng khoái lạc quan từ chiến dịch mùa hè, mà một thành viên quan trọng của Chính phủ đánh giá đó chỉ là “tiểu thuyết trinh thám”.

Tướng Bodet, phụ tá của tôi mà tôi đã phái về Paris để tường trình hiện tình lên Chính phủ và Thượng cấp, được một thỏa thuận trên nguyên tắc về một số bổ sung không quân, nhưng việc gửi đến gặp rắc rối khi thảo luận với Mỹ là chỗ cung cấp máy bay, quá chậm trễ nên khi trận đánh diễn ra mới gửi tới – quá trễ để đóng vai trò hữu dụng

oOo

Trong thời gian hai tháng khi VM đã sắp đặt vị trí, chuẩn bị tác chiến, ta đã thực hiện được tại ĐBP một pháo đài thật mạnh. Ngày 25-12 chúng tôi đã phối hợp tại Sop Nao những lực lượng di động của đồn lũy và những lực lượng tại Thượng Lào, trong khi ấy có đi qua Thượng Nam Ou. Trong dịp liên kết này những lực lượng Lào đóng giữa đồn lũy và Sop Nao gồm địa phương và tình báo.

Phía VM họ bắt đầu chiếm hết vùng xung quanh ĐBP và và bắt đầu thực hiện vòng vây gần như liên tục, tuy nhiên họ không tiến gần đụng chạm với vị trí cùa Pháp.

Vào ngày 20-1 (1954) cho thấy sắp có cuộc tấn công nhất là đêm 25, 26, hay đêm sau. Việc di chuyển đặt súng pháo, đạn dược và các đơn vị bộ binh được thực hiện trong ngày 25, 26. Họ bị pháo của ta và không quân bắn chống lại công tác đặt pháo.

Không thấy có tấn công. Lý do chính sự hủy bỏ lệnh tấn công này có lẽ do chưa đủ phương tiện-nhất là tiếp tế đạn dược- mà địch chưa tập trung được. Mặc dù viện trợ của Trung cộng rất nhiều cho tới hôm đó chưa đủ lượng lớn để VM mạnh khả dĩ chiếm được đồn lũy kiên cố như tại ĐBP.

Cuối tháng 1 (1954) tin tình báo khả tín cho hay địch đã hoãn cuộc tấn công, có thể từ bỏ không muốn đánh hoặc sẽ đánh Thượng Lào. Nguồn tin này được khiểm tra lại ngay. Sư đoàn 308 rời Quân đoàn bao vây ĐBP, được tăng cường Trung đoàn độc lập 148 tiến về Luang Prabang. Được báo tin kịp thời, các lực lượng của ta tại Thượng Nam Ou tránh né, một phần xuống Luang Prabang, một phần về Muong Sai, chỉ có hậu quân bị đánh quấy phá. 

Sư đoàn 308 dấn bước tiến tới Nam Bac, tới chỗ nửa đường giữa ĐBP và Luang Prabang phần vì sợ không quân ta, và nhất là thiếu tiếp tế nên phải dừng lại. Trong khi đó đại tá de Castries cho đạo quân tiền sát mạnh thăm dò quanh ĐBP. Họ đụng trận khắp nơi với những đơn vị mạnh, phòng thủ vững của địch và chúng tôi bị thiệt hại nặng. Hiển nhiên là vòng vây quanh đồn lũy còn hai sư đoàn nữa và sư đoàn nặng, không có một kẽ hở nào (8). Chính vào lúc này đã xảy ra biến cố, mà tôi đã đề cập ở chương trước có ảnh hưởng quyết định tới kết cuộc của trận đánh và nó đã cho ĐBP một khía cạnh hoàn toàn mới: Thông báo về Hội nghị Genève (18-2).

Từ ngày 23-2 chúng ta được biết Sư đoàn 308 từ xa quay trở lại ĐBP để gia nhập Quân đoàn bao vây. Những dấu hiện về cuộc tấn công đồn lũy sắp diễn ra ngày một nhiều hơn, địch bắt đầu bắn quấy phá vị trí ta bằng những khẩu pháo riêng lẻ và bắn từ nhiều chỗ khác nhau. Họ xiết chặt dần vòng vây gần hơn, đóng quân dầy đặc những sườn đồi phía Bắc và Đông Bắc lòng chảo. Địch đặt tại đó những đài quan sát pháo binh và phòng không.

Chúng tôi được tin những đợt chuyên chở đạn dược ngày một quan trọng từ bên Tầu vào BV cũng như những vũ khí mới, nhất là trọn một tiểu đoàn phòng không (được đưa qua biên giới cuối tháng 2). Chúng tôi được biết địch thành lập những đơn vị tăng cường trích ra từ quân trừ bị và từ những đơn vị địa phương quân tại Châu thổ BV rồi hối hả tiến về ĐBP. Trên các tuyến đường giao thông, xe vận tải chạy ngày đêm mặc dù bị thiệt hại do máy bay oanh kích nhưng không quân Pháp thiếu thốn nhiều.

Những ngày đầu tháng 3 (1954), cuộc tấn công đồn lũy chắc chắn sẽ vào ngày 15, đồng thời ta cũng biết VM sẽ tấn công trên khắp các mặt trận cùng ngày mục đích cầm chân bộ binh và không quân ta. Lãnh đạo việc phòng thủ ĐBP trong những điều kiện đã được xác định bởi chỉ thị ngày 25-1. Chỉ thị này tiên liệu riêng tại Hà Nội sẽ thành lập năm tiểu đoàn nhầy dù trừ bị – trong đó hai tiểu đoàn lấy từ Cao nguyên – để can thiệp cho đồn lũy khi cần.

Chú thích: 
(1) des étoiles, ý nói cấp tướng (chú thích của người dịch)
(2) Sư đoàn vũ khí nặng: pháo binh và phòng không (chú thích của người dịch)
(3) Người ta ước lượng, cho tới khi đó, tại Thượng du VM chỉ có thể huy động tối đa 20,000 dân công vì thiếu gạo và phương tiện vận chuyển. (chú thích của tác giả) 
(4) Tháng 4-5 năm 1956, tướng Giáp trả lời phỏng vấn báo Paris-Match và Paris-press, ông ca ngợi thành quả đạt được do nhân dân dành cho quân đội, người ta nhìn nhận nỗ lực lớn lao này và cảm phục sự lãnh đạo của Chính phủ (VM) đã đạt được. Nếu không có viện trợ khổng lồ của Trung cộng thì mọi nỗ lực chỉ là vô ích. (chú thích của tác giả)
(5) Mặc dù ĐBP rất gần biên giới Tầu (80km) nhưng đường tiếp tế chính thực ra rất xa, bắt đầu từ Lạng Sơn, Cao Bằng, nó băng ngang BV tới ĐBP dài 350 km, gấp mấy lần khoảng cách từ ĐBP tới biên giới Tầu theo đường chim bay (chú thích của người dịch) 
(6) Người ta nhận xét sai ở điểm vì ĐBP gần biên giới Tầu (80 km) có lợi cho VM. Sự thực không phải vì nước Tầu gần ĐBP mà viện trợ lớn đã mang lại (chú thích của tác giả)
(7) Trung Cộng mới cung cấp cho VM nhiều súng cao xạ tối tân có khả năng bắn hạ nhiều phi cơ Pháp (chú thích của người dịch)

Tổ Chức Phòng Thủ 

dien bien phu 2

Tổ chức phòng thủ Điện Biên Phủ được khởi đầu bằng thực hiện một trung tâm kháng cự với từ 5 cho tới 6 tiểu đoàn có đội pháo binh yểm trợ và phụ lực quân tăng cường. Quan niệm này là do ta có tin tình báo nhận được tháng 11 (1953) cho thấy địch có một sư đoàn (Sư đoàn 316), được tăng cường một hoặc hai trung đoàn độc lập hay trích từ các sư đoàn khác. Những nét thành lập đồn lũy mới đầu do tướng Gilles thực hiện trên căn bản những chỉ thị của tướng Cogny.

Đầu tháng 12, từ từ áp lực địch càng nặng hơn, quan niệm đầu phải xét lại. Thật vậy, trước việc các Sư đoàn 308, 312, và một phần Sư đoàn 304 và Sư đoàn nặng (tức sđ vũ khí nặng) 351 tiến lên Tây Bắc, ngay như cả một phần lực lượng này hướng về đường đi Sầm Nứa – Cánh đồng Chum thì ĐBP vẫn có thể bị tấn công bởi những lực lượng quan trọng hơn những cái mà ta dự tính ban đầu. Như vậy cần mở rộng đồn lũy pháo đài hơn lên.

Sơ đồ mới do đại tá de Castries thiết lập theo chỉ thị của tướng Cogny và do tôi chấp thuận với vài sửa đổi. 

Từ ngày 3-12 chủ lực quân trong đồn có 9 tiểu đoàn và hai đội pháo binh. Rồi do yêu cầu nhiều lần của tướng Cogny, đã tăng lên 10, 11 và cuối cùng 12 tiểu đoàn, một đội thiết giáp 10 xe tăng M 24, hai pháo đội 105 ly, một đội pháo 155 ly (nhất là để phản pháo) và 4 tiểu đoàn súng cối 120 ly. Sáu máy bay chiến đấu và các máy bay quan sát đóng tại phi trường. 

Ngày 13-3 doanh trại đã được dự trữ 9 ngày lương thực, 8 ngày nhiên liệu xăng, 6 đơn vị hỏa lực cho từng tiểu đoàn bộ binh (1), 6 đơn vị rưỡi hỏa lực cho súng 105, 7 đơn vị cho 155, 8 cho súng cối 120 ly, 9 cho súng 75 ly (súng chiến xa M 24).

Ngoài ra 3,000 tấn kẽm gai đã được chở tới(có nghĩa gấp 3 cấp số một tiểu đoàn) cũng như một số lớn vũ khí đặc biệt: súng phun lửa, thuốc nổ, mìn, bánh bom lửa, mặt nạ che đạn khói, máy hồng ngoại tuyến… 

Bảo trì trong trường hợp bị tấn công đã được tướng Cogny ước lượng 70 tấn một ngày mức chiến đấu trung bình, và 96 tấn một ngày khi chiến đấu ở mức độ cao. Việc chuyên chở những khối lượng trên do nỗ lực bình thường của không quân. Những phương tiện tiếp tế của không quân do bộ tham mưu tại Hà Nội phân phối.

Sau khi tin tình báo cho biết số lượng và sức mạnh của hỏa lực địch, ta đã có nghiên cứu để định những điều kiện phòng thủ chống pháo binh và cao xạ địch. Kết quả lạc quan những ý kiến rõ ràng của các pháo thủ (Cấp chỉ huy ngành pháo binh) (2) cho rằng pháo binh và phòng không địch không thể, vì địa hình, đặt súng và nhất là bắn được mà không bị ta phản pháo trúng và bị không quân oanh ta phản kích.

Kết luận của bản tường trình liên quan pháo binh là: “Có thể địch chỉ bắn vào lúc ban ngày và thời tiết sáng. Ngay sau đó họ sẽ bị pháo binh và không quân ta phản công ngay”

Kết luận liên quan phòng không là “Địch rất khó mang đại bác 37 ly (tức cao xạ) vào tầm của vòng máy bay lên xuống và thả hàng… Dù rằng nhận xét này sai, phản pháo và vài phòng thủ thụ động(chọn vùng thả dù, thu nhỏ vòng bay)có thể khiến cho cuộc tiếp tế ít thất lạc… Ít nhất tiếp tế ban đêm vẫn có thể thực hiện được. Bởi vậy rất có thể công cuộc tiếp tế hàng không vẫn được bảo đảm mãi.”

Những biện luận này rất lý thuyết, thực ra sai là do địch vô cùng khéo léo phân tán, ngụy trang, che giấu pháo cũng như súng phòng không và nhất là ta không ngờ họ có nhiều cao xạ đến thế, nó đã ngăn cản phi cơ thám thính và oanh tạc của ta.

Đồn lũy Điện Biên Phủ được tổ chức thành những công sự như sau:

Vị trí trung ương bao quanh một đường bay và họp thành 5 trung tâm kháng cự (Claudine, Huguette, Anne-Marie, Dominique, Éliane).

Cách đó khoảng 2 hoặc 3 km, phía Bắc và Đông Bắc có hai trung tâm kháng cự (Gabrielle và Béatrice) mà nhiệm vụ là che chở vị trí trung ương ở hướng nguy hiểm nhất và tăng rộng khoảng không gian an toàn bên trên phi trường.

Cách 7 km về phía Nam, một trung tâm kháng cự (Isabelle)có mục đích giữ pháo binh cần thiết để bảo vệ khu trung ương. 

Lực lượng trừ bị gồm gồm 3 tiểu đoàn (bộ binh) và một thiết đội đóng trải dài từ vị trí trung ương và Isabelle.

Những màng lưới dây kẽm gai rộng từ 50 tới 70 thước tây quấn chặt các trung tâm kháng cự và bên trong nó, quấn quanh các địa điểm phòng thủ. Những màng kẽm gai khác chắn những hành lang mà địch có thể xâm nhập. Những bãi mìn,chất nổ,bánh bom lửa tăng cường cho những chướng ngại vật này. 

Trước ngày tấn công, đồn lũy Điện Biên Phủ tạo thành một pháo đài kiên cố mạnh nhất chưa từng có tại Đông Dương. Không một giới chức cao cấp dân sự, quân sự nào (Bộ trưởng Pháp hay ngoại quốc(3), Tổng TM trưởng Pháp(4)Tướng Mỹ(5))đã thăm viếng đồn lũy mà không trầm trồ thán phục sức mạnh kiên cường của nó với tôi.

Theo tôi biết, trước ngày địch tấn công, không có ai tỏ sự nghi ngờ về khả năng kháng cự của nó, và cũng không có bản tường trình bất lợi nào được gửi cho tôi. 

Những nhận xét xác đáng kể trên rất cần thiết, đã có những người nói viết sai và phóng túng về vấn đề này. Trong bất cứ trường hợp nào, nó chứng tỏ ĐBP không thể là một vị trí không phòng thủ được như nhiều người đã quả quyết sau trận đánh (6)

Chú thích:
(1) Một đơn vị hỏa lực tương ứng về lý thuyết với nhu cầu một ngày chiến đấu cường độ trung bình (chú thích của tác giả)
(2) Chỉ huy trưởng pháo binh tại ĐBP, Tư lệnh pháo binh Bắc kỳ, Tư lệnh pháo binh Đông Dương và tướng Cogny cũng chính là pháo thủ. (chú thích của tác giả)
(3) Ông Pleven, de Chevigné và Marc Jacque. (chú thích của tác giả) 
(4) Các ướng Ély TTMT, Blanc TMT lục quân, Fay TMT không quân (chú thích của tác giả)
(5) Tướng O’Daniel, trưởng đoàn Mỹ sau khi thăm ĐBP đến thăm đặc biệt tôi bầy tỏ phấn khởi về tổ chức của đồn lũy. (chú thích của tác giả)
(6) Tháng 4, 5 năm 1956 tướng Giáp trả lời phỏng vấn báo Paris-Match và Paris-Presse đã nói tình trạng chiến thuật của ĐBP là hợp lý. (chú thích của tác giả)

oOo

Địch

Vào ngày 13-3 (1954), ngày khởi đầu cuộc tấn công, tình trạng địch như sau. 

Quân đoàn bao vây với 33 tiểu đoàn chính qui mà 27 tiểu đoàn trực diện với đồn lũy, trong khi 6 tiểu đoàn kia có địa phương quân yểm trợ bố trí để ngăn chận những hướng mà Pháp có thể tấn công từ bên ngoài và nhất là từ Thượng Lào. 

Pháo binh gồm một tiểu đoàn 75 ly (20 khẩu) và một tiểu đoàn 105 ly (cũng 20 khẩu)(1). Thêm vào đó có một số lượng lớn súng cối hạng nặng.

Phòng không gồm 4 tiểu đoàn nhẹ (100 đại liên 12 ly 7) và một tiểu đoàn phòng không loại trung (16 khẩu 37 ly). Chúng tôi được biết 4 tiểu đoàn được đưa tới gấp rút trang bị súng cao xạ 37 ly tối tân của Nga (64 khẩu).

Chúng tôi được tin chính xác về tiếp tế đạn dược rất dồi dào của địch so với số lượng mà VM đã mang tới vào lúc đó (15,000 viên đạn đại bác 105 ly, 5,000 viên đại bác 75 ly, 25,000 viên đạn súng cối, 45,000 viên đạn phòng không 37 ly) tuy nhiên nó không đủ cho họ kéo dài cuộc chiến.

Ngày 9-3 bộ TTM tại Hà Nội đã ước tính toàn bộ khả năng pháo binh VM tác xạ vào đồn lũy từ 5 tới 7 giờ (một ngày) để “làm tê liệt toàn bộ”, nó chỉ cho phép họ kéo dài mặt trận tối đa từ năm tới sáu ngày bao gồm các cuộc tấn công hai hay ba trung tâm kháng cự. Nhưng chúng tôi cũng được biết là những số lượng tiếp tế rất quan trọng từ bên Tấu chở qua có thể làm thay đổi tình hình này.

Xung quanh vị trí chúng tôi, địch dùng những đường ngụy trang để chở đạn dược bằng xe bò, đôi khi xe hơi ngay gần những chỗ đặt pháo. Chúng tôi cũng biết rất nhiều vị trí để bắn pháo mặt đất và pháo phòng không đã được sửa soạn nhưng họ ngụy trang tuyệt khéo đến độ chỉ có một số ít được xác định vị trí trước khi họ mở cuộc tấn công. 

Việc bảo vệ những khẩu pháo của họ cũng mạnh khiến phản pháo của ta hay oanh kích của không quân rất khó khăn. 

Dưới sự chỉ đạo các cố vấn Trung Cộng, cấp chỉ huy VM đã dùng lối xử dụng hoàn toàn khác biệt với lối cổ điển. Pháo binh được đặt từng khẩu riêng rẽ. Những khẩu đại bác được tháo rời (2) và mang lên bằng sức người tới những vị trí mà họ nhắm thẳng vào mục tiêu. Súng được đặt trong những nơi ẩn nấp, từ đó bắn trực xạ hoặc qua lỗ hổng của nơi ẩn náu hoặc được kéo ngoài (3) mỗi khi bị Pháp phản pháo. Mỗi khẩu hoặc một nhóm đại bác được bảo vệ bằng súng cao xạ phòng không được đặt và cung cấp đạn y như thế. Sự xử dụng pháo và phòng không có được là nhờ “đàn kiến người” mà VM đã bố trí, khiến cho tiên đoán của giới pháo binh Pháp lỗi thời. Đó chính là yếu tố bất ngờ của trận đánh.

Nói về lực lượng tăng cường để bổ sung những tổn thất, địch bố trí tại chỗ từ 6,000 tới 8,000 người để thay thế, nhưng chúng tôi được biết những đoàn quân đông đảo được lấy từ các trại đồn và những đơn vị địa phương quân tại Châu thổ BV, họ đang trên đường tới.

Từ đó ta có thể kết luận, tới giữa tháng 2 (1954) VM chỉ đủ sức đánh một trận ngắn và với hỏa lực giới hạn bởi tiếp tế đạn dược mà họ có, cũng như số thiệt hại nhân mạng tối đa mà họ chấp nhận, từ khi có Hội Nghị Bá Linh (4), trước viễn tượng một trận tấn công quan trọng hơn nhiều và cần thiết, lâu dài hơn nhiều, muốn thực hiện nó họ chấp nhận trước tổn thất, hy sinh rất nhiều nhân mạng, bố trí những phương tiện chiến tranh rất lớn lao, nhưng đã bắt đầu.

Thật vậy những phương tiện mới xuất hiện từ từ trong trận đánh. Số súng cao xạ phòng không được chở tới từ Trung Cộng thành lập tiểu đoàn mới mà chúng tôi đã được báo tin. Sự tham dự những tiểu đoàn tối tân, được huấn luyện kỹ (gồm nhiều t

0