Thiền sư Vạn Hạnh
Trích từ sách Cổ Pháp cố sự tác giả Nguyễn Khôi Thiền Sư Vạn Hạnh là pháp danh (tên hiệu đặt khi xuất gia , còn tên tục là Lý Khánh Vạn (người đời suy tôn la Thánh Vạn ), em trai là Lý Khánh Van ..Sinh trưởng trongcự tộc Lý ở kẻ Báng (Dịch Bảng) – một gia đình thuộc ...
Trích từ sách Cổ Pháp cố sự
tác giả Nguyễn Khôi
Thiền Sư Vạn Hạnh là pháp danh (tên hiệu đặt khi xuất gia , còn tên tục là Lý Khánh Vạn (người đời suy tôn la Thánh Vạn ), em trai là Lý Khánh Van ..Sinh trưởng trongcự tộc Lý ở kẻ Báng (Dịch Bảng) – một gia đình thuộc diện ” Danh Gia Vong Tộc ” nhiều đời thờ Phật. Thuở nhỏ , Vạn Hạnh đã thể hiện là một tràng trai kẻ báng khác thường , học hành thông minh tiến tới , gồm thông ba học (giới- định – tuệ), nghiên cứu trăm luận , xem thường công danh . Năm 21 tuổi xuất gia ( vào khoảng năm quý sửu- 953 đời Hán Ân đế, thời Đinh Bộ Lĩnh mới khởi binh ở Hoa Lư , đang là triều Ngô do anh em Ngô Xương Văn , Ngô Xương Ngập trị vì ) Vạn Hạnh cùng với Sư Đinh Hụê ( họ Khúc quê ở Cảm Điền – Phong Châu ) thờ Thiền Ông ở chùa Lục Tổ trong làng hầu hạ Thầy . Trong mọi lúc hầu hạ Thầy , Sư tranh thủ học tập quên cả mệt mỏi . Sau khi Thiền Ông mất (năm 979) , Sư chuyên tập môn ” tổng chì tam ma địa ” lấy đó làm việc riêng của minh . Bấy giờ Sư nói ra lời nào tất đều là phù sấm ( tiên tri) đối với thiên hạ . Thiền Sư Lý Khánh Văn trụ trì chùa Cổ Pháp ( chùa Dận), còn Thiền Sư Van Hạnh ở chùa Tiêu ( con gọi là chùa Trương Liêu , chùa Thiên Tam , Tiêu Sơn tự hay chùa Ba Sơn -trên núi Tiêu, làng Tiêu ( này là xã Tương Giang ) , cũng là nơi Phạm Thị (sau khi ra Lý Công Uẩn , làm Thủ Hộ ) . Sinh thời , sư Vạn Hạnh cùng với Khuông Việt Đại Sư (Ngô Chân Lưu – 933- 1011) là những vị tăng thống được vua Lê Đại Hành kính trọng . Nhà vua coi các vị là Quốc Sư. Năm Thiên phúc thứ nhất (981) Hầu Nhân Bảo của nước Tống đem quân sang xâm lược nước ta , đóng quân ở Cương Giáp (Lạng Sơn) Vua mời Sư Vạn Hạnh đến đem chuyện thắng bại ra hỏi . Sư đáp ” trong ba bảy ngày thì giặc phải lui”.
Sau quả nhiên thư thế . Vua muốn đi đánh Chiêm Thành , cùng triều thần bàn bạc mà chưa quyết , Sư tâu Vua xin hãy cấp tốc xuất quân , không để lỡ cơ hội . Sau đánh quả nhiên toàn thắng .
Qua những tiên đoán , tham gia ý kiến để Nhà Vua ( Lê Hoàn ) tin tưởng ra quyết tâm quyết chiến với quân giặc . Sư Vạn Hạnh đã chứng tỏ vai trò Quốc Sư tài ba nỗi lạc của Triều Đinh Tiền Lê, được Vua tin cậy và kính trọng . Về mặt chính trị xã hội , Sư Vạn Hạnh đã “cố vấn” cho Vua về hoạt động Phật giáo (Quốc giáo) như gửi thư cho nhà nhà Tống xin ” Đại Tạng kinh ” nhằm tăng cường độ giao hảo giữa hai nước, đáp ứng yêu cầu học tập nghiên cứu của Phật tử ở nước ta lúc bấy giờ .
Về việc xuất gia , chọn cửa thiền ở tuổi 21 Sư thuộc dòng thứ 10 của Thiền phái Tì Ni Đa Lưu chi mà Sư Pháp Thuận (925-990) đã từng giữ một vai trò quan trọng trong việc củng cố phát triển chính quyền cho Vua Lê Đại Hành ; Sư Vạn Hạnh cũng đã tiếp tay cho Pháp Thuận trong việc nay .
Đó là cái tâm cảnh hay công nghiệp của thời đại mà Vạn Hạnh đã lớn lên . Tâm cảnh của một đất nước sôi động , bức bối vì ngoại bang đô hộ áp bức , vì những biến tướng quá độ của một dân tộc (bị cát cứ chia rẽ) đang chuyển mình để thống nhất , độc lập tự chủ , vì những quyêt tâm công sức cho Đạo Pháp và thế nhân theo truyền thông tu tập của dòng Thiên Tì ni Đa lưu chi .
Dòng Thiền này do Thiền Sư Ấn Độ Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) thành lập.
Sư tu ở Chùa Pháp Vân (chùa Dâu ở Thụận Thành), người nước Ô trượng của Bắc Thiên Trúc ( Ân Độ xưa ) dòng Bà nam môn . Từ nhỏ Sư đã mang chí xuất tục đi khắp Tây Trúc cầu tâm ấn Phật . Nhân duyên đạo chưa gặp , bèn cầm gậy sang đông nam . Năm Giáp Ngọ ( 574) Sư đến Trường An ( Trung Quốc) , đúng lúc Phật Giáo ở đây bị đàn áp nặng nề (Pháp nạn 3 năm 574- 577) Sư phải lánh nạn sang đất Nghiệp để xin thọ giáo Đệ Tam Tổ Tăng Xán . Tổ dạy ” người nên qua phương nam giao hoa , không nên ở đây lâu ” . Sư từ biệt về Quảng Châu ở chùa Chế Chỉ dịch kinh Phật sau 6 năm ( Kinh Tông Trì) đến năm 580 thì Sư sang nước ta ở chùa Pháp Vân .
Một hôm Sư gọi đệ tử Pháp Hiền ( ?-626) ở chùa Chúng Thiện ( xã Phât Tích , Tiên Du ) dạy rằng :
Tâm ấn chư Phật :
Tất không lứa dối
Tròn đông Thái Hư
Không thiếu không dư
Không đi không đến
Không được không mất
Chẳng một chẳng khác
Chẳng thường chẳng đoạn
Vốn không chỗ sinh
Cũng không chỗ diệt
Cũng chẳng lìa xa
Chẳng không lìa xa
Vì đối vọng duyên
Nên giả đặt tên
Bỉ thế chư Phật ba đời
Cũng dùng như thế mà được
Tổ Sư nhiều đời
Cũng dùng như thế mà được
Ta cũng dùng như thế mà được
Cho đến hữu tình, vô tinh
Cũng dùng như thế mà được
Vả , Tổ ta Xán Công
Khi ấn cho ta tâm đó
Bảo ta mau Nam hành giáo hóa
Không nên ở lại đây lâu (Trung Quốc)
Từng Trải nhiều nơi
Mói đến được đây (Viêt Nam)
Nay gặp được người ( Pháp Hiền)
Quả gặp Huyền Ký
Người khéo giữ gìn
Giờ đi ( Tịch ) của ta đã đến
Nói xong Sư chắp tay mà mất . Pháp Hiền làm lễ Trà Tỷ , thu Xá lợi , xây tháp để thờ ( năm 594) sau này Vua Lý Thái Tông có làm bài kệ truy tán :
Mở lối sang nước Nam
Nghe Sư giỏi tập Thiền
Mở bày niêm tin Phật
Xa hợp môt nguồn tim
Trăng Lăng Già vằng vặc
Sen bát nhã ngát thơm
Bao giờ được gặp mặt
Cung nhau bàn đạo huyền
Và nhà Vua đã phong tặng cho Sư .
Tư tưởng của Thiền Tông có thể nói gọn là : ” Phật ở trong tâm moi người. Sùng bái giữ giới , khổ hạnh , học vấn , cầu kinh ( nếu chỉ có vậy) thì không có nghĩa ly gì cả . Phải đạt tới GIÁC NGỘ mới là mục đích tối thượng của Phật Tử -đạt được GIÁC NGỘ là PHẬT . Tâm là Phật và Phật chính là Tâm . Tâm an Tĩnh . đó là Niết bàn . Thiền là con đường duy nhất dẫn đến giác ngộ . Thiền không có nghĩa là suy tưởng ; Thiền là thấu đạt chính Phật tính nơi mình “. Sư Tổ đã từng dạy : “Tự thân mê lầm thì chúng sinh tức là Bố Tát , khi tự thân Giác Ngộ thì Bồ Tát là chúng sinh . Mà xưa nay Sư Tổ đem Y Pháp cùng Tăng Pháp phó truyền cho đệ tử thì Pháp là dùng Tâm truyền tâm , điều khiển tự ngộ , tự giải . Từ xưa chư Phật chỉ truyền bản thể , chư tông Sư mật trao bản Tâm , cho nên mới nói ;” Cái Tâm không tín chấp vào đâu cả “.
Vạn Hạnh xuất gia đã vào tuổi trưởng thành , quyết định chọn con đường Phật Giáo của thời đại ma dấn thân .Có thể nói , Vạn Hạnh là nhà trí thức tiên tiến xuất chúng của thời đại bấy giờ . Vạn Hạnh đã ” khởi ” đi vào đời ( xuất thế) bằng Nho , ở lại với đời bằng Lão và đã vươn lên tất cả bằng Phật Giáo. Ở Sư là sự kết tinh tổng hòa nhuần nhuyễn tam giáo để hành sử , thích ứng với đời mà Sư đã sống .
Theo truyên sử , Vạn Hạnh đến với Phật Giáo qua ngõ tam học ( 3 học) tức lối ngõ nguyên thủy mà yếu chỉ tu tập là Giới – định – tuệ . Lối ngõ tam học này có thể dẫn người học lạc vào nẻo Giáo điều tiêu cực nhăm mắt buông xuôi với thế sự để ẩn nhấn đợi chờ giác ngộ , qua trương kỳ khổ luyện . Nhưng Sư đã không làm như vậy , Sư đã từ tam học để tiên thêm một bứớc nữa trên con đường tu chứng . Bước mới đó là tam luận , là thập nhi môn , trung quán và bách luận , đó là những con đường phá chấp toàn triệt , giải phóng toàn diện kẻ tu hành khỏi những vứớng mắc , chấp trứớc vê tri cũng như về hành . Đó cũng là con đường Vạn Hạnh hội nhập với khuynh hứơng nhập thế tu chứng của dòng Ty Ni Đa Lưu Chi .
Sử sách kể là ; Sau khi Thầy ” tịch” Vạn Hạnh còn chuyên hành một Pháp môn khác là Tổng trì tam ma địa ( Đà Na Ni tam muội – một lối thiền định bằng cách đọc các khẩu quyết Phạn Ngữ . Nhờ đó Vạn Hạnh đã xuất Thần thông Sấm ký để hành đạo cứu đời , xây dựng nên Vương nghiệp Nhà Lý dài tới 216 năm .
Phật giáo với Vạn Hạnh đã có tác dụng vừa như một động lực cho Sự tiến tới trên con đường hoằng hóa,lại vừa như một chất xúc tác làm cho Sư tổng hòa với đời , với đạo , cũng như chinh với bản thân Sư…..
Vạn Hạnh và Phạm Thị
Ở chùa Tiêu ( Tiêu sơn tự, Trường liêu tự,Thiên tâm tự) còn tấm bia đá cổ “Lý gia linh thạch “ có dòng la:chữ ghi “ Thiên tâm tự chủ,tộc tăng Lý Vạn Hạnh ,Cổ Pháp nhân dã”nghĩa Làm chủ chùa Thiên Tâm là Sư Vạn Hanh, người làng Cổ Pháp . Đồng thời theo bia “ Lý gia linh thạch ” còn ghi “ đặc đông ngạn Hoa Lâm nhân Phạm mẫu ”nghĩa là bà mẹ Phạm Thị ở Đông Ngạn (huỵên) , Hoa Lâm (xã).
Về nguồn gốc quê mẹ Lý Thái Tổ , xưa nay vẫn con đang có hai nguồn tư liệu , ý kiến tranh chấp nhau (?)
-1 là: Lý Thái Tổ lập làng Hoa Lâm .
Năm 1010 , vua Lý Thái Tổ lên ngôi , lập thái miếu ở Kẻ Báng ( Dịch Bảng – Đình Bảng), lập Thái đường ( nhà thờ mẹ)ở Cối giang. Cối giang sau này là tổng Hội phụ tức cổng Cói (cùng thuộc huyện Đông Ngạn ,Phủ Từ Sơn , trấn Kinh Bắc với Đình Bảng , Dương Lôi hiện nay ), khi đó là bãi đất hoang phế lên bờ phía đông sông Đuống (sông Thiên Đức).
Vua Lý chiêu mộ viên đinh ( phu trồng hoa cung như trường hợp Làng Nuốn (Đại đình) là 1 xóm của Dịch Bảng (Đình Bảng –Cổ Pháp)vốn người trong làng “tuyển” ra để chuyên lo việc trồng rừng ở khu”thọ Năng Thiên Đức ”, trấn giữ phía đầu lang phía đông Đền Đô , đến đời vua Lê- Chúa Trịnh mới xin tách lập”xa” riêng là Đại Đình , lập chùa riêng, nhưng vẫn hay lấy tên là chùa Cổ Pháp và đình làng Nuốn cũng chỉ thờ vọng 8 vua triều Lý).
Do trồng được hoa nhiêu như rừng nên nhà vua đặt tên là xã Hoa Lâm. Lúc đầu có 6 thôn “Hoa lâm lục thôn “ gôm có : Thôn Thái Đường , là thôn thờ mẹ Vua Lý . Du Lâm là nơi sau khi lễ mẹ vua xong thì về đó du ngoạn ,thư giãn và câu cá ở đây có ao rất dài nơi Vua hay câu cá gọi là “ngự câu”vì vậy còn gọi Du Lâm là “Cói ao dài ” ; các thôn ngoại vi là : xóm Đông , xóm Du ngoại ,thôn Lộc Hà, thôn Đông Trù ( bếp nấu ăn cho Vua ). Thôn Thái Đường có nhà thờ mẹ vua (nay là thôn Thái Bình ) , ngày mùng 2 tháng 5 Nhâm Thìn(1232), Trần Thủ Độ làm bẫy sập ở Hoa Lâm , phut chốc chon song 70 tôn thất nhà Lý, họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn , con cháu thất tán đi muôn phương , suốt thời nhà Trần chỉ được làm thứ dân đi phu đi lính không được đi học , không được thi cử làm quan !
Ý kiến thứ nhất này , lâu nay coi Hoa Lâm(Cói) là quê của Phạm Thị.
-2 là: “Phạm Thị” người làng Đình Sấm (Dương Lôi ) thuộc hương Cổ Pháp …các tác giả Nguyễn Văn Chu và Tiến sỹ giám đốc văn hóa Sở văn hóa Bắc Ninh sau này là Trần Đinh Luyện ( trên báo Hà Bắc ra ngày 14-10-1995)”mới phát hiện” tìm ra tên của Phạm Thị là Phạm Thị Ngà – ( còn có tên là Phạm Thị Tiên-Theo thần tích ở chùa Dâm ) có cha là Phạm Long , mẹ là Dặng Thị Quang sau khi sinh con (Lý Công Uẩn), bà Phạm Thị mang con đến chùa Mạnh Tân , huyện Yên Phú (nay là chùa Dâm , xã Thủy Lôi , huỵen Đông Anh ) đen năm con 9 tuổi mới bắt đắt con về quê cũ đến chùa Cố Pháp được Sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi .
Ở Đình Bảng ( Kẻ Báng) thì lại lưu hành truyền thuyết .”khi xưa Đức Bà là Phạm Thị xinh đẹp gữi việc quét dọn ở chùa Tiêu , nơi có Sư Vạn Hạnh họ Lý tu thành chính quả trụ trì .Một đêm gió mát trăng thanh bà mệt mỏi ngủ quên ở hiên chùa , váy sống hớ hênh . Sư sau giờ niệm phật về phòng , vô ý bước qua nguời bà . Thế rồi bà có chửa . Khi sắp đén ngày mãn nguyệt khai hoa , Sư bảo bà về chùa Cổ Pháp nơi ấy có nhà Sư Lý Khánh Văn , em ruột của Sư Vạn Hạnh trụ trì . Một đêm xuân thang hai ngày 12 bà khăn gói sang chùa Cổ Pháp nhưng vừa đến cổng chùa thì đau bụng trở dạ . Bà rặn đẻ ngay dưới mái trong cổng chùa . Nhà Sư Lý Khánh Văn nghe tiếng trẻ khóc oa oa vội chạy ra … Từ ấy , chú bé ra đời ở cổng chùa được nuôi nấng trong chùa , mang tên Công Uẩn ( có thể hiểu là “người đàn ông làng Diên Uẩn “ chữ’công” cũng có ý tôn vinh mong muốn “người có sự nghiệp hiển hách “), về họ thì lấy họ Lý của cha nuôi . Chú bé lớn lên khôn ngoan khác người thường , đến năm bảy tuổi thì được đưa về chùa Tiêu cho Lý Khánh Vạn ( Sư Vạn Hạnh), tiếp tục nuôi dạy ; và chùa Cổ Pháp được dân làng Diên Uẩn ( Cổ Pháp) gọi là chùa Dận ( gọi chệch chữ “Rặn” mà ra ). Ngôi chùa chở tha nơi phát tích của triều Lý Nước ta ”.
Nhà văn Xuân Cang nhân về thăm Đình Bảng , đước trứơc cổng chùa Dận dã bình phẩm như sau :” chỉ sau một chữ Rặn thôi mà hàng ngàn năm sau chung ta có thể hình dung ra những bước đi đầu tiên của một nhân vật lịch sử vĩ đại
Cái thời phát tích vẻ vang ấy đã được mô tả rất thú vị trong quẻ Thủy Lôi Truân của Kinh Dịch . Thủy là nước ở đây là mây . Lôi là Sấm . Truân là gian nan .Thời quẻ Truân là thời trời đất mới mở mang ,âm dương cuơng nhu mới giao hòa , viẹc sinh nở còn khó khăn , có mây có sấm mà chưa có mưa lên còn gian nan ; truân chuyên . người xưa dạy rằng thời Truân này chính là thời nguyên sơ tốt lành tuy hiểm trở khó khăn đấy nhưng có mây có sấm thì sẽ có mưa , chỉ cốt là là tìm được người hiền tài , giỏi việc Kinh Luân , tổ chức sắp xếp việc nước , việc dân giỏi như dệt vải .Kinh là chia ra từng sợi , luân là dệt thành tấm .Người có tài Kinh luân ấy chinh là chú bé sinh ở cổng chùa Dận ( Cổ Pháp tự).
Chuyện ở Cổ Pháp xưa đã được người bạn thơ của NK khái quát bằng mội bài thơ Vịnh Sử như sau:
Một cái bước qua mà nên chuyện
Để người quét lá chịu hàm oan
Thân cô vượt cạn đêm chùa Dận
Lịch sử sinh thành,dưới mái hoang
(Nguyễn Đức Lưu)
Theo chính sử “ Đại Việt sử ký toàn thư ” tập 1 trang “240” (Vua) họ Lý , tên húy là Công Uẩn , người châu Cổ Pháp , (lộ) Băc Giang , mẹ họ Phạm , đi chơi ở chùa Tiên Sơn ( chùa Tiêu , Trường liêu tự ) cung vơi người thần giao hợp rồi có chửa sinh Vua ngày 12-2 năm Giáp Tuất , niên hiệu Thái Bình năm thứ 5(974) thời Đinh .”….” Vua sinh ra mới 3 tuổi , mẹ ắm đến nhà Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi”.Ở vùng quên Đông Ngạn – Từ Sơn đến nay còn lưu chuyền câu ca dao :
Con ai đem bỏ chùa này
A di đà Phật con thầy thầy nuôi .
Ở đây cần lưu ý là “đi chơi chùa” chứ không phải là “ở chùa” mà ở sứ Kinh Bắc ta xưa nay việc đi trảy hội , lễ chùa của trai gái là rất tự do khoáng dật (mông 8 tháng 4 không đi hội Gióng cũng hư mất đời – ca dao), có lẽ vào thời điểm lễ “Bụt đẻ “ này “ Phạm thi” đi chơi chùa Tiêu đã “Vướng duyên” với Sư (Vạn Hạnh) nên có chửa đẻ ra Đức Vua sau này . Đã là Sư , đạo cao ,đức trọng được Vua Lê Đại Hành trọng dụng , niêm vinh dự cho cực tộc Lý ở Cổ Pháp – do đó “không thẻ có con’ được !
Dù có thật thì vẫn phải bưng bít , gán cho là con thân nhân (ở đây không phải là “ướm dấu chân” hay là một cái “bước qua” mà sử sách ghi là “giao hợp” hẳn hoi…..án tại hồ sơ .thật không cãi vào đâu được ! con thây(chùa) lại giả cho thầy (chùa) ở đây là Sư em (Sư đệ) nuôi con Sư anh ( Sư huynh).
Lý giải này là hợp lẽ với truyền thuyết đân gian và bia “Lý gia linh thạch’’ .(hòn đá thiêng ghi dòng họ Lý) Di tích chùa Tiêu hiện nay chủ yếu tôn vinh Vạn Hạnh Thiền Sư , trong chùa co tượng Thiền Sư Vạn Hạnh bằng đồng được thờ trong nhà tổ có bài vị ghi rõ “Lý chiều nhập nội, tể tướng Lý Vạn Hạnh thiền sư thần vị”.
Theo “thiên nam ngữ lục” sách còn lưu giữ ở chùa Tiêu , cho ta thấy :
“Bà Phạm Thị vốn là một thanh nữ có nhan sắc , đực độ , nhưng do xa cơ lỡ vận phẩi đi làm thuê làm mướn , ăn mày ăn xin ở chùa Ứng Đại(?).
Nói về việc “thụ thai sinh quý nhân” sách viết:
Tháng giêng năm Giáp Tuất này
Giữa ngày mùng 9 là ngày Bụt sinh
……………….
Âm dương thăng giáng một hồi
Thủy liêm mở động ngọc lơi dề dề …
Sau khi bà Phạm Thị mang thai , nhà Sư ấy không giám nhận vì sợ mang tiếng đến thanh giới tu hành nên đẫ đuổi bà đi . Bà bụng mang dạ chửa đã phải đi hành khất , tuy có nhiều người hỏi , lấy lam lẽ nhưng bà khônng chiu , không muốn :
Chỉ e phàm khí lộn thai
Lỗi đạo cùng trời , mất đạo cùng con
Bà cố đi tới chùa Dâm (Mạnh Tân tự) một ngôi chùa hẻo lánh cách chùa Dận (Cổ Pháp Tự) khoảng 10 cây số. Dân làng ở đây con giử được cuốn thần tích do Quan Hàn Lâm Viện , Đông các đại học sỹ Nguyên Bính soạn năm 1574 ; 9 năm sau , Phạm Thị đem con về chùa Cổ Pháp gặp Lý Khánh Văn – Sư hỏi hết sự tình , tinh tuối đưa trẻ , nhận làm con nuôi đăt tên là Công Uẩn ( Uẩn có ý nghĩa là tiềm ẩn sức mạnh , được mang theo họ Lý , là họ của cha nuôi mà cũng đích thực là của cha đẻ )- vì có những lơi dặn dò của Phạm Thị ủy thác cho Sư Lý Khánh Văn vơi ước vọng của bà mẹ đứt ruột đẻ ra , chịu đựng biết bao miệng thế gian ẩn náu nuôi con …. Lời dặn dò của tử mẩu đó quả là thiêng liêng , gửi gắm vì sự nghiệp tương lai của con mình cho Sư Lý Khánh Văn do đó dân làng Cổ Pháp gọi nôm là chùa Dặn (ý là dặn dò) dần dần đọc là “chùa Dận” ( hiểu thao ý rặn đẻ)còn có tên là Ứng tâm tự ;trong chùa có nhà mẫu thờ riêng “ Lý triều quốc mẫu”, ban thờ Sư Lý Khánh Văn …cùng hai pho tượng cổ tạc bà Phạm Thị và Sư Khánh Văn .. Ở chùa Dận ( Cổ Pháp tự) còn giữ nguyên quả chuông đúc năm minh mệnh 20 ( Kỷ Hợi) , đề là (Cổ Pháp tự trung”, trên quả chuông co khắc 1 bài “minh”:
Phú chung cổ thi:
Lam danh Cổ Pháp
Thắng chiêm Nam thiên
Bồ chung sơ tạo
Phạm các thi trung
Khung kinh Phật thất.
Kỷ tam thập niên
Ái thử nhân lý
Pháp thử thiện duyên
Dục hoàng qủa phúc
Bất tận kim tiền
Quân dạng công tạo
Vượng mệnh hậu vinh
Hỏa lư luân chú
Kim chất hoàn toàn
Huyền chi lần các
Khoa động thiên lân
Từ phong viễn tưởng
Vụ nguyệt thưởng tên
Nhĩ văn tâm ngộ
Tự viễn thiện thiên
Với thiện tối lạc
Thụ phúc vô biên
Phúc do tâm tạo
Chung dĩ minh truyền
Minh mệnh nhị thập liên
Tuế thứ kỷ hợi
Dịch: Thơ phú chuông cổ.
Danh lam cổ pháp
Trời nam nhất miền
Chuông thiên đúc trước
Thơ trong gác thiền
Đọc hết kinh phật
Trải ba mươi năm
Yên long nhân ái
Việc thiện lên duyên
Muốn được quả phúc
Chớ có ăn tiền
Người góp công tạo
Bản mệnh hiển vinh
Lò lửa hun đúc
Đồng đốt đòng ròn
Treo chuông lên gác
Vang động trời bên
Gió xa cũng hưởng
Xem trăng khuyết tròn
Tai nghe , tâm ngộ
Điều thiện tự thiên (trời)
Làm thiện được lạc (an lạc)
Được phúc vô biên
Phúc do tâm tạo
Chuông vọng vang rền.
Minh mạng năm thứ 20
Kỷ hợi
Tương truyền : sau khi gửi con ( Lý Công Uẩn) cho Sư Lý Khánh Văn , bà Phạm Thị rời chùa Dặn đi về phía Tây Nam rừng Báng , đến gò “Mả Báng” ( nay ở gần thôn Long Vỹ, gần làng Nành , nơi có huyệt phát đế vương theo sự dò tìm của Cao Biền trước đó ) thì bà bị bạo bệnh . Thổ địa liền cho mối đùn thành mộ ) nay là “Lăng phát tích” diện tích 240m, cao hơn mặt ruộng 1m) . Ngày giỗ ngày mùng 7 tháng giêng hàng năm.
Ở Dương Lôi ( đình Sấm ) thì lại tương truyền là : Xưa có bà Phạm Thị Ngà làm thủ hộ chùa Gia Châu ( còn gọi là chùa Minh Châu hay “Châu minh Tự”(?) thường lên núi Tiêu hái củi, nơi Sư Vạn Hạnh trụ trì .”vì cảm động” mà bà có thai ( sau sinh Vua Lý, bà liền bị dân làng duổi ra bìa làng ( sự tích na ná như chuyên Man Nương , chuyện Thánh Gióng ) và chùa được gọi là “cha Lư” có nghĩa là chùa La ( kêu la) gọi cha. Chư La được viết theo hán tự đọc thành chữ Lư , với ý nghĩa là nơi sinh Vua Lý cất tiếng khóc chào đời , rồi tập nói kêu nên goi cha mà không co cha .
Vì những lý do tế nhi (bi ẩn) kể trên mặc dù triều lý dài tới 216 năm , có 9 đời vua , thừa quyền lực điêu tra để biết chua vua Lý Công Uẩn là ai? Mà theo chinh sử thì sau khi nên ngôi , vua Lý Thuận Thiên , đã phong cha (truy phong) là Hiển Khánh Vương ,Mẹ là Minh Đức Thái Hậu, chú làm Vũ đạo vương , anh Vũ uy vương ,chú làm VŨ Đạo Vương ,con Vũ Uy Vương là Trung Hiển làm Thái úy. Đến mùa xuân thang 2 ( năm 1018) truy phong “Bà nội” làm Hậu(hoàng thái hậu) và dặt tên thụy(để thờ cúng). Như vạy là về gia tộc của Lý Công Uẩn ở kẻ Báng là một cự tộc , có ông bà chú bác anh em họ nội khá đông đúc , nhưng vì là “con thầy (chùa)” nên không tiện công bố “ cha thực của nhà vua là ai ?”! Trong chuyện về Thiền Sư Vạn Hạnh ở sách Thiền uyển tập anh có chép : “ ban đêm Sư Vạn Hạnh ngồi nhập định nghe xung quanh nơi mộ Hiển Khánh Vương ( chồng bà Phạm Thị – cha của Lý Công Uẩn ) 4 phía đều có tiếng ngâm thơ , bèn cho chép lại”… Nói thế tức là Lý Công Uẩn có “mộ Cha” khi Vạn Hạnh còn sống … Nhưng thực thì ở Thọ Lăng Thiên Đức trong rừng Báng , nay là cánh đồng Đình Bảng có tất cả 11 Lăng mộ trong đó có đủ 9 vị vua nhà Lý, cùng Lăng Lý thánh mẫu (Lăng phát tích ) và lăng Ỷ Lan Nguyên Phi ( Lăng lương dâu) không hề có lăng mộ Hiển Khánh Vương ? Trong khi đó trên núi Tiêu Sơn phía trước chùa có bãi đất gọi là “mả vua”phải chăng đây là mộ cha vua ( Lý Công Uẩn), chính là mộ của Thiền Sư Lý Vạn Hạnh trụ trì ở đây ?
Thôi , lịch sử có những điều kỳ bí , mới là thú vị chỉ có trời mới biết được ! Ở ta những nhân vật thánh thần , vua chúa ,danh nhân thiêu gì Người “không có Bố” như Thánh Gióng, Đinh Tiên Hoàng , Mạc Đĩnh Chi , Chu Văn An …
Trước Lý Công Uẩn , trong thần thuyết về sự thác sinh của Phạm Bạch Hổ : mẹ ông vào miếu nấp mưa , giao phối với thần miếu trong cơn mưa , có mang đẻ ra ông Sứ quân nhập cuộc vào loạn 12 Sứ quân thời giữa thế kỷ thứ X. Vậy có thơ rằng :
CON GÁI PHỦ TỪ
Giỏi thay con gái Phủ Từ
Từ xưa đã dám yêu Sư Chùa Viềng
Động Ngàn đất Phật linh thiêng.
Đẻ ra Vua chúa rồng tiên nhà mình
Không đi tu cũng đã xinh
Đi làm Thủ Hộ hết mình ….đẹp sao
Đất thì thấp , trời thì cao
Con trời , con Phật gửi vào nhà ta
Con trời chẳng biết mặt cha
Lớn lên trung dũng tài ba lạ thường
Ai về bên bến sông Tương
Chớ gần cô Tiểu mà vương phải bùa .
Vạn Hạnh và Đa Bảo
Khi Lý Công Uẩn lớn lên thì Thiền Sư Vạn Hạnh và Đại Sư Khuông Việt đều đã cao tuổi , do đó Vạn Hạnh đã gửi học trò của mình cho Thiền Sư Đa Bảo kèm cặp thêm . Theo sách Thiền uyển tập anh thì sư Đa Bảo tu ở chùa Kiến Sơ , làng Gióng ( Phù Đổng , Huyện Tiên Du )- không biết là người ở đâu ,và cũng không biết họ là gì .Khi Đại Sư Khuông Việt dạy tại chùa Khai Quốc (Đại La) , Sư Đa Bảo đến tham học , được Đại Sư khen là ngừơi gặp việc thì chóng hiểu , xử sự cẩn thận , nên riêng cho nhập thất .Sau khi đắc Pháp , Sư chỉ một mình một bát , tiêu dạo ngoài vật . Sau được chùa Kiến Sơ , bèn đến ở đó . Lý Công Uẩn lúc mới gặp còn là chú tiểu , Sư thấy tướng mạo anh tuấn khác thường , bèn bảo : “ Trẻ này cốt tướng phi phàm , một ngáy kia sẽ làm Vua , ắt là người này đây”. Lý Công Uẩn cả kinh , thưa : “ hiện nay Thánh thượng anh minh (Lê Đại Hành ) còn đó ,trong nước đang yên vui , Thầy sao lại nói lời phản nghịch, nếu nhà Vua nghe được thì sẽ bị tội tru di?”
Sư bảo ; “ Mệnh trời vốn tiền định , dù người muốn trốn cũng chẳng được nào . Giả như lời ta mà đúng thì mong (nhà ngươi với ta) chớ bỏ nhau”.
Khi Lý Công Uẩn lên ngôi Vua , đã nhiều lần mời sư Đa Bảo vào cung , hỏi bàn yếu chỉ củaThiền và ơn lễ Sư rất hậu . Đến cả việc chính trị của triều đình,sư Đa Bảo đều tham dự phần quyết định . Vua ( Lý Thái Tổ) xuống chiếu trùng tu chùa Kiến Sơ. Sau không rõ Sư tịch ở đâu ?
Qua truyện trên ta biết : Sau Vạn Hạnh thì sư Đa Bảo là thầy dạy dỗ rèn cặp Lý Công Uẩn thuở còn hàn vi , rồi đến khi Lý Công Uẩn làm Vua thì lại tham gia quyết đoán việc triều chính .
Theo nhà Sử học Lê Mạnh Thát thì trước khi sư Đa Bảo về trụ trì ở chùa Kiến Sơ ( vào khoảng năm 990, Sư đã gần 40 tuổi ) ở đây có đền Phù Đổng lúc đó mới chỉ là thờ một vị thổ thần của hương Phù Đổng .( Đến các sách Việt Điện U Linh và Lĩnh Nam chích quái thế kỷ XV coi Phù Đổng như một vị tướng dẹp giặc Ân thời Hùng Vương ) – và sau này vua Lý Thái Tổ , vốn học thầy Đa Bảo ở đây, đã tôn vinh thần Phù đổng là Xung Thiên Đại Vương, đền thờ thổ thần Phù Đổng ở chùa Kiến Sơ , trước đó do sư Cảm Thành – vào khoảng năm 820 , có một nhà giàu trong làng , họ Nguyễn , đã hiến cả dinh cơ của nhà mình để Sư lập lên chùa Kiến Sơ ( Thờ Phật) đồng thời lập nhà thờ thổ thần mé bên phải nhà chùa .( chưa tôn thành Thánh Gióng . Phù Đổng Thiên Vương như sau này ). Ngày tháng xói mòn, dân trong làng biến khu chùa đền đó thành nơi cầu đảo thờ quỉ ma , gọi bậy là “dâm từ” . Đến khi sư Đa Bảo đến trụ trì , để dẹp đi … Sư đã sang tác “ sấm thi” ..một hôm , tại cây cổ thụ trước đền thờ thổ thần hiện 1 bài thơ “Kệ” rằng :
Phật pháp ai hay hộ
Giữ Đức ở vườn kỳ
Nếu không ta giống cây
Sớm đã xứ khác đi
Chẳng chở kim cương bộ
Na La Diên dấu kỳ
Đầy trời nhiều bụi tạp
Chùa Phật chứa yêu ma
Một ngày khác , Người ta nghe thấy trên không trung có tiếng đáp :
Phật pháp từ bi lớn
Ánh thiêng phủ cả trời
Nguyện thường theo thọ giới
Vườn kỳ mãi giúp thôi
Có sách viết là: bài “Kệ” trên hiện ra cây cổ thụ trước dền Phù đổng.Sư nói là:thấy làm lạ bèn lại thiết đàn trì giới cho thần.( có trì giới là để trừ tà ác , để thanh tịnh , dễ bề tụ định và phát tuệ , để chúng sinh có Phật tính … tu mới đắc đạo ). Đức Vua Lý Thái Tổ lúc còn tiềm long ( rồng chưa xuất hiện) biết sư Đa Bảo đức hạnh cao thượng , ở cương vị học trò đã cùng làm đàn việt ( vị thí chủ) cho thầy .Khi đã lên ngôi vua , tự thân về thăm chùa Kiến Sơ với Thầy ở đó . Thiền sư nghênh giá đi qúa bên chùa . Sư cất tiếng hỏi ; “ Phật tử , người sao không nhanh nhẹn đến chúc mừng Đức tân thiên tử ?” Thần (Phù Đổng) ứng thanh, hiện ra nơi da cây ( vỏ cây cổ thụ)4 câu thơ :
Đức Đế càn khôn lớn
Oai thanh yên tám miền
Cõi âm nhớ ân huệ
Nhuần thấm phong xung thiên .
Thái Tổ trông thấy , đọc rất biết ý (đề xuất) của thần , liền ban hiệu ( cho Thần Phù Đổng) là Xung Thiên Đại Vương . Bài thơ (ở da cây) tự dưng biến Mất . Vua lấy làm lạ , sai thợ tạc tượng thờ thần Xung Thiên Đại Vương (Thánh Gióng)dung nghi hùng vĩ và tướng hầu 8 pho . Sơn thếp xong rồi ,lại thấy hiện ở cây đại thụ 4 câu thơ :
Một bát nước công đức
Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn chiếu đuốc
Bóng mất trời lên non.
Sư đem bài “Kệ” trên trình vua . Thái Tổ không hiểu rõ câu sấm đó nói gì? Câu sấm này tiên tri ứng với nhà Lý tồn tại 8 đời Vua thì truyền ngôi cho nhà Trần . Chữ “ Bát” là y bát ( chiếc bát khất thực) và chữ Bát là số 8 đồng âm (1 lối chơi chữ ) 1 bát tức như 8 , vua Lý Huệ Tông tên Sảm , đấy gọi là “trời lên non” Sấm thi (thơ Sấm) nó thần diệu như vậy đó . Cũng có ý kiến cho là bài sấm thi trên do Sư Vạn Hạnh sáng tác . Như vậy sự tích Thánh Gióng (Xung Thiên Đại Vương ) có từ thời sư Đa Bảo và Vua Lý Thái Tổ , đến đời Trần được tôn vinh thành một vị thiên tướng thời Hùng Vương , đại biểu cho tinh thần chống ngoại xâm (ở thời sư Đa Bảo trở thành một Phật tử , rồi được vua Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Đại Vương) . Sách Việt Sử Diễn Âm sau này cũng đưa sự kiện này trong mô tả lịch sử như sau :
Thái Tổ lại nhớ đến thầy
Ở chùa Phù Đổng ngày rày viếng chơi
Thiên tăng thấy vua đến chơi
Đến Thần Vương miếu có lời rằng bây
Có tân Thiên Tử đến đây
Thần Vương xá lại , đường này mừng Vua
Thần liền hiện đến bốn câu
Dòng dòng vào quạt nên thơ bảo Thầy
Thi văn:
Nhất bát công đức thủy
Tùy duyên hóa thế gian
Quang minh trùng chiếu diệu
Miệt ảnh nhật đăng sơn
Thiền tăng lại bảo rằng bay
Ấy lời phản phúc xa thay khôn lường
Thần Vương lại bảo tỏ đường
Thơ khác lại chép vào tường cho hay
Thi văn ;
Đế đức càn khôn lại
Uy quang chiếu bát điên
Đình âm mong huệ hải
Phú ốc bái Xung Thiên
Qua chuyện trên , đời nay ta thấy : Thần Phù Đổng từ một vị thần làng (muốn) trở thành thần quốc gia( của cả một nước tôn thờ, 1 trong tứ bất tử) dã xuất phát từ nhà vua (chính quyền) phong tước (Xung Thiên Đại Vương) , có như vậy mới linh ứng (thiêng) và mới được toàn dân tôn thờ . Dân gian có câu ; hòn đất nặn nên Bụt , khúc gỗ tạc lên (tượng) thánh thần …. qủa là chí lý !
Công lao của sư Đa Bảo với Đức vua Lý Thái Tổ là đã dẹp đền thờ thần Phù Đổng ở dạng dâm thần mà Sư Cảm Thành đã dựng lên (tạo ra) ở chùa Kiến Sơ …từ do tạo ra một vị thần mới (Thánh Gióng- Xung Thiên Đại Vưong) đáp ứng được nhu cầu tâm linh ( lễ bái , cầu nguyện) của nhân dân , đồng thời đề cao dược tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc mình . Như vậy là các vị trí thức (Quốc Sư ), Vua chúa đã sáng tạo ra Thần Thánh để phục vụ đắc lực cho công cuộc Quốc thái dân an – đó là một kỳ diệu ở trên thế gian này- nước Đại Việt ta.
Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn
Với Lý Công Uẩn (sau này là Vua Thuận Thiên , Thái Tổ nhà Lý) thì Thiền Sư Vạn Hạnh đích thực là thầy học ( có thể là cha dẻ) ngừoi đã dạy dỗ, dìu dắt , tiến cử vào làm Quan với Vua Lê Đại Hành , làm tới Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ (như chức bộ trưởng Quốc phòng- tổng tư lệnh quân đội)để rồi đến lúc “ tật Lê chìm bể Bắc , hạt Lý mọc trời Nam” lên ngôi Hoàng Đế .
Ngay từ buổi đầu , ở Viện Cảm tuyền ( ở Chùa Lục Tổ ) nơi Thiền Sư Lý Khánh Văn đang nuôi và dạy Lý Công Uẩn ( lúc còn trẻ thơ ) , Sư Vạn Hạnh thấy khen rằng : “ Đây là người phi thường sau khi lớn lên tất có thể giải quyết rối rắm (cho đời) mà làm Minh Chúa của Thiên hạ”.
Sư Vạn Hạnh quả là một vị Quốc Sư có con mắt tinh đời (con mắt của nhà tướng số), tiên tri “trông mặt mà bắt hình dong” kỳ tài là vậy
Sau này nhà thơ Huy Cận , sau 985 năm đã có bài thơ “mắt Lý Công Uẩn” như một sự tiếp nối của hai thầy trò (cha con) nhà Lý .
Mắt chứa không gian – chứa thời gian
Nhìn trước nghìn năm – mắt địa bàn
Vạn dặm phù sa bồi lịch sử
Dời Đô , dất nước đã sang trang.
Vĩ nhân , Thánh nhân hơn người đời bình thường là có con mắt nhìn thấu tương lai là vậy . ( Đời bây giờ có Chủ Tịch Hồ Chí Minh cũng có nhiều dự báo như thế) .
Sư Vạn Hạnh và Sư Lý Khánh Văn là hai anh em ruột lên sự giao lưu đi lại giữa hai chùa Lục Tổ , chùa Tiêu ở cùng trong 1 vùng cách nhau độ hơn 3 cây số (trong Hương , rồi là châu Cổ Pháp , ;là thường xuyên .ở chùa Lục tổ có viện Cảm Tuyền 1 loại trường học thời bấy giờ để dạy con em trong vùng (có Lý Công Uẩn) học ở đấy .
Vào thời điểm trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi một loạt các “điềm” xấu tốt đã xuất hiện . Sử sách đã chép ; “ bấy giờ Ngoạ Triều bạo ngược , Trời và người đều chán . Lý Công Uẩn lúc ấy làm Thân Vệ chưa nhận truyền ngôi . Trong khoảng thời gian này , những điềm đan xem như chó trắng ở Viện Cảm Tuyền , chùa Ứng Thiên Tâm ( 1 tên khác của chùa Dận ) lông trên lưng chó hiện thành chữ Thiên Tử (vua) . Sét đánh vào cây Gạo (ở thôn Đình Sấm , hương Cổ Pháp ) để lại bài văn (Thụ căn diểu diểu …). Ở xung quanh mộ Hiển Khánh Vương (cha Lý Công Uẩn ) đêm có nghe tiếng đọc tụng ( sấm thi) . Cây đa ở chùa Song Lâm ( làng Nành).có sâu ăn vào vỏ cây hằn lên thành chữ Quốc . Ấy , đại khái , những việc này (điềm báo ) tùy theo nơi tai nghe mắt thấy . Sư dã xét bàn , mỗi điều đều hợp với điềm Lệ diệt Lý hưng”
Cái điềm sinh chó trắng có chữ Thiên Tử trên lưng ứng với Lý Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất (cầm tinh con chó) Đại Việt Sử ký toàn thư cũng chép “…kẻ thức giả nói : bởi đó là cái điềm của người sinh năm Tuất sẽ làm Thiên Tử”. đến lúc ấy , Vua sinh năm Giáp Tuất mà làm Thiên Tử , quả đúng’’.
Ở Trung Quốc và Việt Nam ta (cũng như nhiều nước trên thế giới ) cái chuyện sấm vĩ kiểu này xưa nay vẫn được lan truyền khá thú vị “sấm” nhiều khi là do người đời sau đặt ra như là “để hợp pháp hóa” khẳng định một sự kiện có thật đã được tiền định (trời làm ra thế) để củng cố một niềm tin đích thực . Các bài sấm thi mà người ta nghĩ là do Sư Vạn Hạnh sang tác nhằm tạo dư luận , phò Lý Công Uẩn xây dựng sự nghiệp Đế Vương đã bắt nguồn từ Sư Định Không và Sư La Quí (đất Cổ Pháp sẽ sinh ra một vị Đế Vương đủ sức làm chủ đất nước không còn bị ngoại bang đô hộ và làm cho Phật giáo(Quốc giáo) hưng thịnh.
Quan điểm chính trị của Sư Vạn Hạnh ( Thầy của Lý Công Uẩn ) là rất rõ ràng. Đó là phảiđấu tranh giành được Tổ quốc độc lập , quan điểm chi phối đã gần 300 năm phất triển của lịch sử tư tưởng văn hóa Việt Nam cho đến hôm nay có lẽ vẫn là còn nguyên giá trị .
Sử sách còn chép lại : Ngày Lý Thái Tổ lên ngôi , Sư Vạn Hạnh đang ở chùa Đà (chùa Lục Tổ) linh tính đã biết trước , gọi 2 Vương chú Bác của Lý Công Uẩn tới nói : Thiên tử (Ngoạ Triều) đã băng , Lý Thân Vệ đang ở nhà ( Hoa Lư) . Tay chân họ Lý túc trực trong thành (Hoa Lư) lên tới số nghìn.
Nội trong ngày Thân Vệ ắt sẽ được thiên hạ Bèn yết bảng ở đường cái nói rằng .
Cây Lê chìm bể Bắc
Chồi Lý mọc trời Nam
Bốn phương gươm giáo lặng
Tám cõi được bình an.
(Tật lê trầm bắc thủy
Lý tử thọ Nam thiên
Tứ phương qua can tỉnh
Bát biểu hạ bình yên).
Hai vương nghe Sư nói , rất sợ , sai người đi hỏi , quả đúng như Sư đã nói .
Qua đó cho thấy việc Lý Công Uẩn lên ngôi Vua là sự sắp dặt công phu của thầy (cha đẻ) mình và đấy là niềm hạnh phúc nhất của Sư Vạn Hạnh , nó đặt hy vọng của không biết bao nhiêu vị Thiền Sư , tiền bối (đất nước độc lập , Phật pháp hưng thịnh).
Sử sách thời Tiền Lê còn ghi : Sau khi Đại Hành hoàng Đế băng , Trung Tông ( Long Việt) vâng lên chiếu lên nối ngôi , Long Đĩnh làm loạn , Trung Tông vì tình anh em cùng mẹ không nỡ giết , tha cho . Sau Long Đĩnh sai bọn trộm cướp ban đêm trèo tường vào cung giết Trung Tông ( vừa lên ngôi được 3 ngày ). Bầy tôi đều chạy trốn , duy có Điện tiền Quân là Lý Công Uẩn ôm xác (Vua Trung Tông) mà khóc , Vua (Ngoạ Triều) , khen (Công Uẩn) là người,trung nghĩa, trọng dụng . Chính vì thế có lần ăn quả Khế thấy hột mận (chữ Lý có nghĩa là cây mận) tuy đã từng được nghe lời sấm vĩ ( cây Lê chìm bể Bắc , chồi Lý mọc trời Nam…” Vua (Ngoạ Triều) đã ngầm tìm người họ Lý giết đi , thế mà Công Uẩn ở ngay bên cạnh , rốt cuộc cũng không ngờ . Đến khi Ngoạ Triều băng (do ốm liệt gường, chết tại Điện ngủ) , Vua nối ngôi còn bé , Công Uẩn (tả điện tiền chỉ huy sứ ) cùng với Nguyến Đê – Hữu điện tiền chỉ huy sứ , mỗi người được đem 500 quân Tùy Long vào làm túc vệ ( bảo vệ ấu chúa) khi ấy Lý Công Uẩn 36 tuổi ; trong cung lúc ấy có Chi Hầu Đào Cam Mộc do biết Lý Công Uẩn muốn lên ngôi , bèn bóng gió nói khích rằng : mới rồi chúa thượng u tối bạo ngược , phần nhiều làm việc bất nghĩa , Trời chán ghét cái Đức ấy , nên không cho sống lâu , con nối thơ ấu chưa cáng đáng nổi những khó khăn ; cơ sự rắc rối , Trăm quan không ưa , dân đen ngao ngán , đi tìm chân chúa . Thân Vệ sao không nhân lúc này , vận dụng mưu cao , ra quyết định sáng suốt , xa thì theo dấu chân Vua Thang Vua Vũ , gần thì noi việc Dương (thị) – Lê(Hoàn) , trên thuận lòng trời dưới theo ý dân ? Sao mà còn khư khư ôm lấy cái điển tiết chăng ?
Lý Công Uẩn tuy trong bụng hài lòng về lời nói đó , nhưng còn ngờ có mưu gian ., mới vờ mắng Cam Mộc răng : “ Sao ông dám nói những lời như vậy ? ta phải bắt nộp cho triều đình”Cam Mộc chậm rãi đáp : tôi thấy thiên thời và nhân sự như vậy nên mới dám trình ra , nay muốn bắt nộp triều đinh, thực không sợ chết !” Công Uẩn nói : “ta sao lỡ tố cáo ông , nhưng sợ lời kia để lộ ra thì 2 ta cùng bị giết”. Cam Mộc lại bảo Lý Công Uẩn : “Người trong nước đều nói họ Lý đáng thay họ Lê , lời sấm đã thành sự thật , không thể giấu được , chuyển họa thành phúc là lúc này đây ; Thân Vệ còn ngờ chăng ?” Công Uẩn nói ! Ta xem chí công ông không khác ý Vạn Hạnh, quả như lời nói ấy , có kế sách gì không ? Cam Mộc rằng : “nay đang lúc trăm họ mệt mỏi , dân không chịu noi lệnh trên , Thân Vệ nếu lấy ân đức mà vỗ về , họ sẽ vui vẻ đi theo như nước dồn về chỗ trũng , ai có thể chặn được”. Cam Mộc biết có sự gấp gáp , để chậm e sinh biến , bất lợi , ông nói với khanh sĩ trong Triều , ngày hôm đó cũng họp ở triều đường , bàn rằng : nay muôn triều người có lòng khác , dưới trên bỏ Đức , người ta oán tiên Vương hà khắc bạo .ngược , không muốn theo tự quân (Vua còn bé nối dõi ) mà chỉ muốn suy tôn Thân Vệ , bọn ta không nhân lúc này lập Thân Vệ làm Thiên Tử , nếu bất chợt có biến , thì có giữ được đầu cổ của mình không ?Do thế , họ cùng nhau dìu Công Uẩn lên làm chính Điện , lập làm Thiên tử . Khi lên ngôi trăm quan ở dưới sân rồng đều sụp lạy , trong ngoài đều hô “vạn tuế” tiếng vang khắp cả triều đình .
Như vậy là ( ta thấy) việc lên ngôi của Lý Công Uẩn : 3 nhân vật có vai trò quyết định là Thiền Sư Van Hạnh , Chi Hậu Đào Cam Mộc và Hữu điện tiền chỉ huy sứ Nguyễn Đê .(1)
Với Vạn Hạnh , có lẽ : ngày lên ngôi của Lý Công Uẩn là ngày hạnh phúc nhất của cuộc đời Sư sau bao nhiêu năm đấu tranh, nó thỏa mãn được nguyện vọng của Sư , cũng như của biết bao nhiêu vị Thiền sư tiền bối ( đât nước được đôc lập , Vua ta làm chủ nước ta , Phật giáo cũng được phát triển và hưng thịnh cùng đất nước ) – Phật giáo không thể phát triển bên ngoài dân tộc và càng không thể hưng thịnh khi dân tộc mất chủ quyền . Nói như nhà Sử học Tiến sỹ Lê Mạnh Phát ; “ việc Vạn Hạnh phấn đấu đẻ yểm trợ và tạo điều kiện cho Lý Công Uẩn làm chủ đất nước thể hiện quan điểm chính trị (nêu ở trên) là rất tiến bộ . Quan điểm chính trị này có thể nói đã chi phối 300 năm phát triển lịch sử tư tưởng và văn học việt nam…
(1). Nguyễn Đê là con trai của Định Quốc Công Nguyễn Bậc . Khi Nguyễn Bậc bị Lê Hoàn giết còn đang du học ở Bác Giang , Ông là bạn thân của Lý Công Uẩn , sau được Vua Lê phong tước ngang với Lý Công Uẩn ( hữu Thân Vệ) . Con cháu sau này truyền đến Hoài đạo hiếu Vũ Vương Nguyễn Nộn , tổ tiên của dòng họ Nguyễn Trãi , Nguyễn Gia Miêu (các Chúa Nguyễn và Vua Gia Long) . Truyền thuyết ở Hoa Lư thì : Lý Công Uẩn là con rể của Dương Thái Hậu ( Vân Nga)_ Hoàng Hậu của 2 Vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành . 29 năm sau khi Lê Hoàn lên ngôi Hoàng Đế thì lịch sử Đại Việt ta đã diễn lại một cách tương tự : Lý Công Uẩn cũng như Lê Hoàn là những Ông « Vua bầu » ( do Triều Đình suy tôn ).
Nguyễn Khôi