18/06/2018, 15:28

Người Thái ở Sơn La

Trích từ sách Sơn La ký sự Tác giả Nguyễn Khôi Lược sử xứ Sơn La Sơn La hiện nay (2012) là tỉnh vùng núi Tây bắc Việt Nam, có diện tích 14,125km 2 (= 4,27% tổng diện tích cả nước), có biên giới chung với Lào 250 km, gồm 1 thành phố, 10 huyện với 12 dân tộc. Dân số điều ...

Trích từ sách Sơn La ký sự

Tác giả Nguyễn Khôi

Son la 1

Lược sử xứ Sơn La

Sơn La hiện nay (2012) là tỉnh vùng núi Tây bắc Việt Nam, có diện tích 14,125km2 (= 4,27% tổng diện tích cả nước), có biên giới chung với Lào 250 km, gồm 1 thành phố, 10 huyện với 12 dân tộc. Dân số điều tra 1/4/2009 là 1.080.641 người.

Lịch sử: Phần lớn tỉnh Sơn La ngày nay gồm TP Sơn La, huyện Yên Châu, Mộc Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Thuận Châu vào trước năm 1479 là lãnh thổ của Vương Quốc Bồn Man (gồm cả Tương Dương, Kỳ Sơn của Nghệ An; Quan Hóa, Quan Sơn Mường Lát của Thanh Hóa, tỉnh Hủa Phăn của Lào). Năm 1479 Sơn La được chính thức nhập vào Đại Việt, thời vua Lê Thánh Tông và thuộc xứ Hưng Hóa.

24/5/1886 thành lập Châu Sơn La (thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa) tách từ Hưng Hóa thành cấp tương với tỉnh.

9.9.1891 thuộc Đạo quan binh 4.

27/2/1892 thành lập tiểu quân khu Vạn Bú gồm 2 phủ, 8 châu.

10/10/1895 thành lập tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú (Tạ Bú) trên bến sông Đà thuộc huyện Mường La ngày nay.

23/8/1904 đổi tên thành tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ về như bây giờ.

Sau 1946: Pháp chuyển Sơn La cộng với Lai Châu và Phong Thổ lập xứ Thái tự trị, do Bạc cầm Quý làm tỉnh trưởng Sơn La.

1948 – 1953 thuộc LK Việt Bắc do tướng Chu Văn Tấn cầm đầu (Sơn La có 6 huyện Mường La, Thuận Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu).

1953 – 1955 thuộc khu Tây Bắc.

1955 – 1962 thuộc khu tự trị Thái Mèo.

1962 – 1975 tái lập tỉnh thuộc khu tự trị Tây Bắc: có 7 huyện, thêm Quỳnh Nhai và Sông Mã còn Phù Yên chuyển về tỉnh Nghĩa Lộ.

Sau khi giải thể khu tự trị Tây Bắc, Sơn La nhập lại 2 huyện Phù Yên, Bắc Yên của Nghĩa Lộ giải thể.

Sơn La- xứ Thái xưa là 1 vùng biệt lập do núi non hiểm trở, lại là đường mòn luồn vùng, đi theo dọc 2 bờ sông Đà, sông Mã, ma thiêng nước độc “nước Sơn La, ma Vạn Bú” ở xuôi chẳng ai lên đó làm gì. Đó là nơi cai trị của các vị “Chẩu Mường” hướng về vua Lào ở Luông Pha Bang là chính, thi thoảng có giao lưu với người kinh qua rẻo Mường Lò (Nghĩa Lộ)… phải chăng do ở biệt lập lâu đời như thế nên người Thái ở đây còn giữ được khá nguyên vẹn bản sắc dân tộc mình sau 1000 năm sang Việt Nam cư trú?

Người Thái ở Sơn La

* Người Thái :

Gốc gác ở Trung Quốc (trong số 56 dân tộc; với 1,16 triệu người), tên xưa gọi “Thái Lặc” (Tai Lue) – “Dai” (Thái tây song bản nạp) 2 ngôn ngữ là Tày Pong và Thái Đam (Tày đăm). Ngoài ra là tiếng Tráng (choang).

          Thư tịch cổ gọi Điền Việt, Kim Xì, Hắc Xỉ, Hoa Man, Bạch Y, Bạch Di, Bách Si, Bá Di…

          Thời Hán quận Ích Châu là của người Thái (xem thất cầm Mạnh Hoạch – Tam Quốc Chí)? Rồi di cư theo dọc sông Lan Thương (Mê Kông) tới Myanma, Lào, Thái Lan, theo sông Hồng xuống Việt Nam.

* Người Thái ở Việt Nam:

          Còn được gọi là Tày Khao (trắng) đăm (đen) Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc.

          Nguồn gốc: Bách Việt, gồm với nhóm Choang (tráng), Tày, Nùng.

          Di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 7 – 13, trung tâm là Mường Theng (Điện Biên), từ đây họ tỏa đi Lào, Thái Lan, bang Shan (Myanma), đông bắc Ấn Độ cũng như ở Nam Việt Nam? (gốc đi từ – xíp xoong păn na).

          Ở Việt Nam: Đời Lý 1067 có Ngưu Hống (rắn hổ mang – tô tem), chỉ người Thái vào triều Cống, sau 1280 dưới sự cai quản của triều Trần.

          Các thủ lĩnh Thái được gọi là “Phụ đạo”.

          – Họ Đèo cai quản các Châu Lai (lay), chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nhan.

          – Họ Cầm cai trị Châu Phù Hoa (Phù Yên), Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Châu Luân, Châu Ninh Biên.

          – Họ Xa cai quản Châu Mộc

          – Họ Hà cai quản Châu Mai

          – Họ Bạc ở Châu Thuận

          – Họ Hoàng ở Châu Việt (Mường Vạt – Yên Châu).

          Dân số: 2009 có 1.550.423 người Thái (thứ 3 ở Việt Nam) có mặt khắp cả nước. (Sơn La có 572.441 người chiếm 53,2% toàn tỉnh); Nghệ An 295,132 người, Thanh Hóa có 225,336 người; Điện Biên 186,270 người, Lai Châu 119,803 người, Yên Bái 53,104 người, Hòa Bình 31,386 người, Đắc Lắk 17,135 người, Đắk Nông 10,311 người.

          * Họ của người Thái: Bạc, Bế, Bua, Bum, Cà (Hà, Kha, Mài, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo,  Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm, Leo, Lèo, Lềm, (Lâm, Lịm) Lý, Lò, (Lô, La), Lộc (Lục), Lự, Lường, (Lương), Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Quảng, Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Vang, Vi (Vì) Xa (Sa), Xin.

          – Ngôn ngữ: Nhóm ngôn ngữ gốc Thái của hệ ngôn ngữ Thái – Kađai.

          – Kinh tế: Nông nghiệp (lúa nước, lúa nếp), các thứ hoa màu, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, dê, cá… đan lát, dệt thổ cẩm, số nơi làm đồ gồm.

          – Gia đình: Phụ hệ, vợ theo họ chồng, có tục ở rể.

          Hôn nhân một vợ một chồng.

          – Tục lệ ma chay: Chết là về Mường trời tiếp tục sống ở thế giới đó.

          – Văn hóa: Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết khá phong phú, có chữ viết riêng, có nhiều truyện thơ (sống chụ son sao, khum lú – Nàng ủa, tản chụ xiết xướng…).

          – Nhà cửa: Người Thái đen có nhà nóc hình mai rùa, chỏm đẩu đốc có khau cút (hoa nhà) rất độc đáo.

          – Trang phục: Đẹp, nhiều kiểu.

Nam giống với người Tày, Nùng, Kinh.

Nữ: Thái đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm, đen) cổ áo khác Thái trắng là loại cổ tròn đứng.

Đầu đội khăn Piêu thêu hoa văn theo môtyp từng mường. Váy ống (kín) giống Thái trắng, màu đen, cạp gấu váy phía trong nẹp đỏ.

Khi lấy chồng tóc búi ngược lên đỉnh đầu “tằng cẩu” (Thái trắng vẫn búi tóc sau gáy).

Người thái sang ở Sơn La đến nay đã trên 10 thế kỷ nhưng không thấy có dấu vết gì về các công trình kiến trúc gạch, đá…? Có lẽ chỉ có một cầu đá bản Cá bắc qua suối Nậm Cá chảy ra Nậm La ở đầu thị xã ra phía Chiềng Xôm? Và một số khu nhà xây của tỉnh trưởng Sơn La Bạc Cầm Qúy, (sau này trụ sở huyện ủy Thuận Châu, rồi bị bom Mỹ phá hủy hồi 1966 – 1973)… còn không hề thấy Đình, Chùa, đến Miếu gì ở Sơn La đất cũ?

Người Thái ở Sơn La không theo Tôn Giáo nào, chỉ thờ “Phi” (ma tưởng tượng) người chết làm lễ chia của “bỏ mả” là xong, không có giỗ chạp hàng năm, Tang ma có lễ gọi hồn, dẫn hồn về mường trời, xong coi là xong.

Nhà ở người Thái: hầu hết là gianh, tre, gỗ, nứa – đục đẽo đơn giản, đa số là không ngăn buồng (2 loài: cột chôn và cột kê) hoàn toàn là vật liệu tự nhiên sẵn có ở rừng núi bản địa.

.Người Thái ở Sơn La: Có 4 ngành (chi): tới 2009 có 58 vạn người.

-Thái trắng (Tày đón) cư trú ở Mường Chiên (Quỳnh Nhai), Ngọc Chiến (Mường La).

-Thái đen (Tày đăm) ở Thuận Châu, Mường La, Vai Sơn, Yên Châu, Sông Mã. Đặc biệt Thái đen ở Yên Châu lại khác hẳn so với ở vùng  trên cả về tiếng nói, ăn mặc, phong cách, tập tuc.

 Chi (ngành) ở Mộc Châu, họ tự gọi là Thái đỏ (Tay đeng); cũng một chi ấy. Ở Bắc Yên, Phù Yên lại tự xưng là Tay đón (Thái trắng) ở xã Huy Bắc tự gọi là Tay khoong (người khoong) – “khoong” là một địa danh miền Tây Thanh Hóa (nơi họ từng ở ngày xưa). Nhóm Thái ở Pác Ngà (Bắc  Yên) tự gọi là Tay Eng (người Eng) “Eng” cũng là địa danh ở Thanh Hóa.

Tay đeng (Thái đỏ Mộc Châu) gốc gác từ Vân Nam qua Lào: từ Luông Pha Bang qua Mường Xáng; Mường Xăm, qua rừng Mường Xén vào đất giao chỉ (đời Lý) thuộc Nghệ An. Từ Mường xén họ tỏa ra Thanh Hóa qua Hồi Xuân, La Hán vào Mường Mun (Nai Châu) rồi lên Mộc Châu Sơn La.

Cuộc di cư này do chúa đất họ Vi Khăm (Vi Vàng dẫn đầu vùng em trai là Vi Ngân (vi bạc): Vi Ngân ở lại M ai Châu, người anh Vi Khăm ngược lên Mường  Moóc (Mường Xang – Mộc Châu).

Do đi tới nơi đất mới nên: Ở Mai Châu có bản Lác (bản lạ). Tòng Đậu nguyên âm là Toong Táu (Toong = lá, táu là cây gỗ Táu – cây to, lá to dùng để gói muối, lót xôi khi cúng lễ. Đồng Bảng nguyên âm là “Động Páng” (động:  rừng già, rừng cây cổ thụ, Páng là cây chuối rừng, nay ta qua Đồng Bảng vẫn thấy nhiều cây chuối rừng vì đất quanh năm ẩm ướt.

Họ “Vi Khăm” sau đổi thành họ Xa (Sa) có 2 truyền thuyết:

– Chúa Vi Khăm vào triều đình (nhà Lê Trịnh) qua cổng thành thì Quan coi cổng thành Thăng Long  vấn danh, hỏi họ tên gì ở đàu tới? Do ngôn ngữ bất đồng nên Chúa Vi Khăm trả lời sai ý đi “Tôi là ở xa đến” – Quan nghe ú ớ ghi “Chúa đất họ Xa – nay do chữ nghĩa chính tả lung tung ghi xa = Sa”?

Thuyết 2: Sau khi Chúa đất Vi Khăm qua đời – anh em trong nội tộc tranh giành… người anh thắng thế làm chúa, em phải xuống làm thường dân lấy họ “Vi Văn…” Người anh vì đã thề độc “cụ chí pái sá xịa mưng, mưng nha Pay năm hó phụ” (Tao sẽ từ mày, cạch từ đây không chung Họ nữa).

Từ đấy từ (Xá = Sa) thành họ chính của dòng Vi Khăm. Mãi về sau gọi chệch cho nhẹ đi Sá thành Sa… nhưng khi khấn cúng bái vẫn phải xưng là “Chúm mú Vi Khăm ” – (dòng họ Vi Khăm) cho đến ngày nay.

* Quan hệ xã hội Thái:

Cơ cấu xã hội cổ truyền là Bản mường hay chế độ Phìa Tạo Tông Tộc gọi là “Đằm”. Mỗi người có 3 quan hệ trọng yếu:

– Ải noọng: Nam giới 4 đời trong gia tộc (bên nội):

– Nhinh Sao: Tất cả thành viên nữ…

– Lúng ta: Tất cả thành viên Nam thuộc họ vợ (bên ngoại).

Tôn giáo của người Thái

MƯỜNG TRỜI

Với người Thái: chia vũ trụ thành 3 tầng theo một trục dọc. Trên cùng là Mường Phạ (Mường Trời), ở giữa là Mường Lùm (mường người thấp) và dưới cùng nữa là lòng đất là Mường bọoc đai (Mường của những người lùn sống trong lòng đất). Còn gọi Mường Pha là Mường Bôn nhằm chỉ thế giới ở trên đỉnh đầu – ngoài ra còn gọi là Mường Then (Mường của các Then = thượng đế, thần linh). Người Thái ở Qùy Châu: “theo quan niệm hữu thức của người Thái thì Mường Phạ là nơi cao nhất của vũ trụ, đó là một khoảng rộng màu xanh, hình tròn úp lên mặt đất. Còn đất là một tấm rộng vô hạn mà trời chỉ úp được một phần. Tầng trên cùng là tầng riêng của các thế lực siêu nhiên, đó là một thế giới hỗn mang, chưa định hình, không rõ ràng, rất ít ảnh hưởng tới cuộc sống của con người.

Xuống thấp hơn là Mường Then của các vị thần linh, còn tổ tiên của người Thái thì ở một cỏi riêng khác: Nhóm Tày Thanh gọi là “đẳm chảo”, còn nhóm Tày Dọ (đều ở Nghệ An) thì gọi là “Đẳm Pang”. “Đẳm Chảo”là nơi trú ngụ của người  chết theo các dòng họ khác nhau, rồi lại còn phân đẳng cấp:Tầng lớp trên là cho các họ Lò Căm, Hủn Vi, Mừn Quang. Tầng lớp mới là các họ bình dân như Quản Quang, Quản Lự… (có 2 “đăm”:bậc giữa và bậc cuối).

Theo Cầm Trọng thì người Thái đen Sơn La cũng na ná là “đẳm hướn luông” (quý tộc) và “đẳm hướn nọi”cho thường dân.

Mường Then là hình ảnh thu nhỏ của thế giới trần gian: Cùng lao động sản xuất, đó là một xã hội giàu có trù phú, ruộng đồng quanh năm tươi tốt, dưới ao cá lội từng đàn, đèn thắp sáng quanh năm. (như thiên đường), vị thần chủ là “Then Luông” (Then lớn) – thường gọi là Pò Then: Cai quản cả thế giới.

Dưới Pò Then là một hệ thống các vị thần giúp việc như Then Ná, Then Ảo, Then Thao Ai, Then Thư ai, quản lý các dòng họ Quý tộc, thấp hơn là Châu Cuống Cảng (họ ở bậc trung) do các Then Thư Noọng cai quản  trông coi các họ bình dân… tuy vậy có những dòng họ khác nhau nhưng lại chung 1 Then Ná.

Ở Then Ná còn có các Mẹ Náng (bà mụ) là vợ các Then, làm nhiệm vụ Me bẩu (đúc nặn người cho đầu thai xuống trần gian), Me Náng nặn rồi chỉ sang Then Bẩu (khuôn), rồi qua Then Chằng để cân đo số mệnh rồi rơi xuống Then Chẳng cân đo xong rồi tiếp xuống Then Bắc để đi đầu thai…

Trên Then Ná còn có Mẹ Xuổn Ném và Pù Noọng Pả trông coi vườn mệnh và ao cá vía để giữ cho mệnh luôn được bình yên, trên Then Ná có một vườn mệnh trong đó có một máng nước chảy vào ao nuôi cá mệnh (Pa Vẳn) mỗi con tượng trưng cho một mệnh người dưới trần. Nếu nước chảy đều thì hồn khỏe mạnh, con người được bình an, nước không chảy thì cá chết, mệnh người cũng hết.

Chính vì vậy: Khi con người lên cao tuổi  thường tổ chức lễ “Tum bẩư nho bủn” (lau chài sửa lại vườn mệnh, đặt lại máng nước), để tăng tinh lực và sức sống cho con người.

Ở Mường Then còn có nhiều vị thần linh khác: “Then Khúm” trông coi việc  thiện, Then Tàng lo làm ra con người và loài vật, Then Bấu lo đúc người, Then Khạt (Then Chằng) đo số mệnh,… Then Bắc theo dõi sổ số mệnh, Then Kôm quan sát bốn phương trời, Then Cáo quản lý phạm nhân, Then Thùm coi lũ lụt, Then Lốm tạo mưa gió, Then Ú, Then Đá lo xử phạt sát sinh. Tầng cuối cùng của Mường Phạ là nơi ở của các hồn người chết (chết không bình thường) thì phải vào “Mường phi tai sút đuôn” ở gần Mường Lùm – Còn bình thường thì vào Đẳm Chào.

Trạm dừng chân đầu tiên do Mo dẫn hồn là Pặc Phắng Kén, nơi trời và trần gian gặp nhau là Táng Cộp “Táng cộp nừng hả phiền” – Chỗ gặp nhau (như kiểu chợ âm phủ) đan xen như cái nan xe kéo sợi, ở đây là trạm tiếp đón nên có nhiều xôi thịt do người trần cúng lễ. Do đó những hồn nghèo đói, chết không bình thường kéo tới đây kiếm ăn – vì thế người Thái rất sợ phải qua nơi này; khi đói loại ma này còn xuống cả Mường Lùm quấy nhiễu.

MƯỜNG NGƯỜI

Mường Lùm: Qua tụt  khỏi Mường Phạ, xuống dưới là Mường Lùm (cõi người) là mường ở dưới sàn trời “mường tớ cọng lùm phạ”.

Lùm là thấp, thung lũng – Còn gọi Mường Piếng (bằng phẳng) = mường bằng phẳng ở dưới gầm mường trời là mường có thật trong vũ trụ luận Thái, đây là thế giới của con người khác biệt về bản chất so với Mường Phạ – Mường Phạ là cõi hư, tâm linh, còn Mường Lùm là cõi thực của con người và các loài vật, là các bản mường của nhiều tộc người (kể cả Kinh, Lào…) và “dân số” của các loại Mường (Phạ, Lùm) bao gồm cả các thế lực siêu nhiên khác, kể cả ma quỷ. Ma quỷ đi lang thang ở các Mường Phi, người thì ở các Mường Côn (có phi pú ở núi cao, phi pá ở mường sâu, phi ngược ở vùng nước xoáy cùng cõi Mường Lùm do con người làm chủ thể).

MƯỜNG BOỌC ĐAI

Là “Mường trong lòng đất” của loại người tí hon “Táy boọc đai” đây là ở Quỳ Châu (Nghệ An), còn phía Sơn La – Tây Bắc không có khái niệm này. Đó là thứ “phi đóng kín” hay “phi dóc dách”.

“Cờ boọc đai” là cái ống nhỏ cuốn dùng tơ lấy ra từ kén tằm (cái suốt) – Boọc còn có nghĩa là “hoa”, đó là nụ tơ hoa biểu tượng của lũ người tí hon sống dưới lòng đất, đứng đầu là “vua hoa tơ” (Pủa boọc đai).

“Phi” với người Thái là gồm cả thần thánh, hồn người chết và cả hồn, vía người đang sống – “Phi” là tín ngưỡng thờ vật hinh, một thứ sơ khai của Tôn giáo.

Linh hồn người sống là “phi vẳn”, ở người chết là “phi bướn”, với các thần linh là “phi then”, các tổ sư nghề Mo (phi môn, phi một) rồi phi bản, phi mường, phi pú, phi huổi, phi pá…

Thế giới của Phi có ảnh hưởng rất lớn tới thế giới thực của con người (can thiệp, phù hộ) – do đó phải cúng bái cầu khẩn…

Theo Hoàng Nó (Sơn La) thì:

Quan niệm về trời đó là Mường Phạ, Mường Bôn hay Mường Then. Có 11 Then gốc gọi là “Then ngồi chõng” (Then năng chóng) và 22 Then anh em (Then Pi Noong), mỗi vị Then là một đấng “sáng tạo” tạo mưa, gió, nắng hạn, lụt…

11 Then gốc, đáng kể là Then Luông (cụ Then già Pú Then Thẩu) hay chủ Tum Vang (như Ngọc Hoàng).

Hai là “Then chăng tê ba” – chữ “tê ba” gốc chữ Pali  – Sancrít thì Têbra nghiã là “cõi trời” – hư vô ngự trên đỉnh Pha Bôn điều khiển đúc ra người… Ba là “Then Ban” tạo ra họa phúc, duyên phận, sang giàu…

* Tục lệ cúng Then: Có 3 lễ chính:

1. Căm xeng: Báo ngày kiêng cấm

2. Xên kẻ: Cúng giải hạn

3. Xên hươn: Cúng nhà tức tổ tiên

                   Tháng giêng Tạo kiêng kỹ

                   Tháng hai Tạo căm xeng

* Đêm của ngày kiêng cấm: Mỗi nhà lấy một bó cỏ gianh, bó lạt, một con dao buộc vào đòn gánh – tượng trưng để phi tổ tiên đem lên sửa chữa nhà cho Then. Đầu đòn gánh treo một túi xôi, gói thịt gà luộc để cho tổ tiên ăn – Đặc biệt bắt 1 con dế mèn đực bỏ vào giỏ để đêm chúng gáy – Dế Mèn sinh nở vào tháng 7, nó tượng trưng 1 con trâu để tổ tiên dắt lên cày bừa ruộng nhà Then. Còn có việc: Lấy 1 tổ hoang rỗng của ong bò vẽ treo lên mái nhà để báo hiệu nhà tôi đã thực hiện đầy đủ cúng căm xeng.

* Xên kẻ: Cúng đầu tháng 2, cụ tổ phải lên chầu Then phục dịch. Làm ở gian giữa nhà có đầu trâu hay đầu gà, phía sau bà Một ngồi, phía trước lót vải trắng đổ gạo nếp thành một đống con, trên đặt 1 quả trứng gà luồn trong 1 vòng tay bạc, xung quanh mâm có đốt nến (sáp ong).

Đọc hát bài Xên do bà Một gòi là “Á ní” mất 1 ngày đêm “lời thỉnh cầu Then xá tội cho tổ tiên, cầu xin phúc lộc”.

* Xên hươn còn gọi Ló Liêng tổ chức cúng nhà trong 3 tháng (giêng, hai, ba) vào các ngày 7, 8, 9, âm lịch thành một chuỗi lễ hội đan xen căm xeng – xên kẻ và xên hươn.

Xiên hươn là mời tổ tiên về ăn cỗ cuối buổi cúng, ông mo phải cúng cơm rượu để đưa tiễn đưa đi đưa lại để các vị về nơi Mường phi của các hồn

QUẮM TỐ MƯƠNG

“Truyện kể bản Mường” là một bộ thông sử của tộc người Thái, ngành Thái đen trình bày những sự kiện nửa hư (truyền thuyết) nửa thực qua cuộc “mang gươm đi mở cõi” cách đây khoảng gần nghìn năm của chúa đất Thái đen ở Mường Lò (Nghĩa Lộ).

Qua phần huyền thoại … đến lúc Then (trời) cho tạo Tum Hoàng xuống làm chủ vùng đầu sông Nậm Lài, Ao Xe, Nậm Tè (Sông Đà), Nậm Tào (Sông Thao)… rồi tạo Tum Hoàng cho hai em là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống ăn đất Mường Ôm, Mường Ai ngoài vòm trời, rồi tới dựng Mường Lò Luông, cùng theo có các tay chân họ Lò, Lương, Quàng, Tòng, Lèo… tôn họ Lò làm chủ. Lúc đó đất Mường Lò đã có người. Mọi (Mường), người Mang cư trú. Xây dựng theo Mường Lò thì Tạo Xuông ở lại lấy vợ sinh ra Tạo Lò, cho Khun Lường làm mo, Tạo Lò làm chúa. Về sau Tạo Xuông cũng trở về quê cũ Mường Ôm, Mường Ai.

Tạo Lò lấy vợ sinh ra 7 con trai: Ta Đúc, Ta Đẩu, Lặp  Li, Lò Li, Lạng Ngang, Lạng Quang và Lạng Chượng… các con khôn lớn, Tạo Lò chia cho các con đi làm chúa các mường: Tạo Đúc “ăn” Lò Luông, Ta Đẩu “ăn” Lò cha, Lặp Li “ăn” Lò Gia, Lò Li “ăn” Mường Min, Lạng Ngạng “ăn” Mương Vân, Lạng Quang “ăn” Xí Xam, Bản Lọm. Ngoài ra Tạo còn cho bô lão già bản Xửa Cang Ho “ăn” Mường Pục, Mường Mẻng… Rồi các cháu nội được chia đi làm chúa miền đất đầu sông Thao nước đỏ.

Riêng con út Lạng Chượng không có Mường để “ăn” – “con út không có ngựa, con út không có Mường” (giàu con út khó con út là thế). Lạng Chượng mới bàn với các tay chân giúp việc là các ông ho hé, ông mo, ông nghe… triệu tập binh tướng, dân chúng mở lối đi tìm Mường. Quân đi đến Khau cả, Khau Pục, Mường Min thì tiến thoái lưỡng nan, chúa bèn cúng “pang cha đáp” cầu hồn ông nội là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống phù hộ.

Chọn ngày lành, quân Lạng Chượng đến Mường Lùng – dốc Khau Phạ nhìn thấy cánh đồng rộng (xã Ngọc Chiến bây giờ) bèn dốc quân vượt dốc Xam xíp vào Mường Chiến. Tạo Mường Chiến khiếp sợ xin gả con gái, Lạng Chượng ưng ý nhận đất Mường Chiến là Mường họ ngoại.

Tới Mường Chai, Tạo ở đây sợ phải dâng nhiều trâu.

Binh Chúa vượt rừng rậm, qua cầu mây Vạn Tọ, không thuyền bắc cây qua Nậm Tè (Sông Đà)… đến đây vấp phải sự chống cự của người “Xá Cắm Ca” (Khơ Mú) do Tù trưởng Khun Quàng cầm đầu. Mác Chúa ngắn nên chúa phải chạy, mác Quàng dài nên đuổi Chúa xuống Nậm Tè, bị bắt cạo trọc đầu phơi nắng, binh Chúa chết 800 người gan dạ… Rồi chúa rút binh về Ít Ong (Thủy điện Mường La hôm nay) để tang đồng đội.

Rồi sau một thời gian nghỉ dưỡng rút kinh nghiệm chúa Lạng Chượng thắng Khun Quàng chiếm được đất Mường La từ Nặm Bú qua Khau Pha, Kéo Tèo, qua Nặm Cá (Chiềng An), Chiềng Căm (Thị xã), Cọ, Kẹ qua núi Khau Hào lên Mường Muổi (Thuận Châu)… gặp quân Xá của Khun AmPoi ở núi Khau Tù, Khau Cả, quân chúa đánh nhiều lần bị thua… rồi chúa lập mưu “Mỵ Châu – Trọng Thủy”xưa, xin làm rể ĂmPoi… chọn ngày lành chúa mở tiệc chuốc rượu say cho Bố vợ, rồi giết chết đoạt đất Mường Muổi.

Quân Chúa tiến lên Mường Quài (Thiên Giáo) chê đất ở đây ẩm ướt tanh hôi, bé nhỏ, qua Mường Húa, Mường Ẳng tới Mường Phăng chế đất bé trũng như vũng trâu đằm, chim cuốc chạy qua, chim đa đa chạy lại cũng thấy. Quân chúa tiến vào Mường Thanh, đất này thật tốt “nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc” (4 cánh đồng rộng ở Tây Bắc) ở đây Mường rộng lớn, tròn như cạp nong, cong như sừng trâu, cho quân lính phá rừng khai hoang làm ruộng, chia đất thành hai vùng “Xoong Thanh” cho già Nà Lếch làm mo.

Lạng Chượng làm chúa Mường Thanh lấy vợ bản Pe sinh ra Khum Pe, rồi lấy vợ sinh ra Khun Mứn. Khun Pe mất sớm, ông nội đem cháu về nuôi, sau Khun Mứn sinh Tạo Pàn. Chúa Lạng Chượng già rồi mất… cháu tiếp là Tạo Chiêu lên “ăn” đất Mường Lay, Tạo Cằm về Mường Muổi.

Cứ tiếp là Tạo Chông, Tạo Thâng, Tạo Quá Lạn, Tạo Chương, Tạo Quạ, Tạo Quạ lấy nàng An Phấư ở Mường Lay làm vợ cả, và Nàng Xơ (người Xá dòng dõi Khun Quàng, ĂmPoi) làm vợ hai. Nàng Xơ sinh ra chúa Lò Lẹt.

Lò Lẹt lấy tên hiệu là Ngu Háu (rắn hổ mang) làm chủ đất Mường Muội nhiều năm vào đất triều cống Đại Việt từ đấy.

TÁY PÚ XẤC

Cùng với “quắm tố Mướng” là truyện Táy Pú Xấc “Người Thái đánh giặc” là một sử thi tầm cỡ về “kể ông cha chinh chiến”…

Táy ở đây dùng đa nghĩa, như “trên đường đi” gọi là Táy Tang, qua cầu là Táy Khua, đọc chữ là Táy Xư, kể chuyện là Táy Quắm Tố… Táy nghĩa là kể.

Pú là ông nội, người tôn kính  như “Bác”, Pú ở đây là ông cha, lãnh tụ, thủ lĩnh.

Xấc là chiến tranh: Đi trận là Pay xấc, đánh trộm là tặp xấc, dấy binh là diệt xấc, nổi loạn là xấc phản, giặc ngoại xâm là xấc chinh mương, hay xấc cướp mường, hay xấc pua mương. Mặt trận là nả xấc, cuộc chiến là Chộ xấc, đi chiếm đất là xấc to mương – “xấc” đánh nhau cả xâm lược lẫn tự vệ.

Nội dung thư theo lịch sử của Quắm tố mướng, mở đầu từ Tạo Lò tới Cầm Nho (Kăm nho) là 50 đời.

Sử thi viết theo lối hát “khắp” dùng rộng rãi trong sinh hoạt văn hóa đời thường và nghi lễ.

Mở đầu là:

Cạy hin pẻn ke ma bốc

Nộc tót háy tai thẩy

Tai thẩy tai ti non

Tai cuông côn cuông kon mạy xọk

Pú hók lộm khẩu heo Tông Lo

Chang nháư tai thót nguông thót nga pạt

phạk Tao, u, khong…

          Ẩy đá dẹp đá tảng lên cạn

          Chim gõ kiến chết già

          Chết già tại nơi nằm

          Chết trong bộng trong cành cây Xọ

          Cụ Tổ đổ xuống vào  mộ đồng Lò

          Voi lớn chết rụng vòi ngà bên sông Thao,

                                      nậm u, MêKông…

          Đoạn tả Lò Lạng Chượng đem quân đi đánh chiếm Mường La

          Mi khỏi kôn pay cón

          Hảư Ải Ón uôn tang

          Tốc Xả chi, Xả cha

          Tốc Mương Bá, Mương Ai

          Tốc Mương Chai, Mương chiến

          Tốc Pák chiến ti nặm hăm

          Tốc Pák Păm ti nặm hạk

          Pọng cánh quen phăn hủa

Phăn hủa hảư kôn xen kôn păn pú bải

Có chân sai đi trước

Cho Ải Ón dẫn đường

Đến Xá chi, Xá cha

Đến Mường Bá, Mường Ai

Đến Mường Chai, Mường chiến

Đến ngả suối chiến nơi sóng cuộn

Đến ngả suối Păm nơi nước phèn

Pọng và Quen (quan và dân) đóng thuyền

Đóng thuyền cho quân ức quân nghìn cụ bơi.

Đoạn kết:

          Bản Lụa (Thuận Châu) Ho Luông Sinh pay xảng / lau diên ké xia tạu   

          Thẩu xia bản xia na

          Chắng púk hảư Ho Luông Tiên pay kín

          Đin na Lụa na Lài to đaư coi xảng

          Hák vá Sen Lộc lau Ké xia tạu

          Thẩu xia bản xia na

          Chẩu xáư hảư Pọng An dệt Sen

          Đin na tạu tin đán

          Bản Pán Vạy Mo Yên mưa khẩu

          Bản Té pẩu chiên vạy bấu kha

          Kọ pưa pang xên phon chu tang mãn hụ

          Bản Lăng hảư sự Phúc mưa kin

          Đin Na Lăng to đaư coi xảng

          Cựt áo quảng hom pay chom tom.

          Ho Luông sinh vun đắp Bản Lụa

          Lại đã già lìa can

          Khuất lìa bản lìa ruộng

          Mới để Ho luông Tiên mà vào hưởng ăn

          Bao đất ruộng Lụa, ruộng Lài hãy quản

          Nhưng rồi Sen Lộc đã già lìa can

          Khuất lìa bản lìa ruộng

          Pọng An được cụ (chúa) cất nhắc làm Sen

          Bao đất ruộng bản Mòn hãy quản

          Ruộng trải tận chân lèn

          Mo yên vào bản Pán

          Bản thủa ông cha truyền lại không buông

          Bởi thông thạo mọi đường cúng tế

          Bản Lăng dành Sự phúc lên “ăn”

          Bao ruộng đất (ở bản) Lăng hãy quản

          Lo rộng tính xa dân chúng sum vầy.

                                                                   (Theo Vương Trung).

THƠ CA THÁI 

Xứ Thái, có thể nói là xứ sở của hát thơ (khắp xư).

Vốn thơ ca cổ truyền từ các tập biên niên sử “Quắm tố mướng” hoặc sử thi  “Tày pú xấc” cho đến các truyện thơ tình như Sống chụ son sao, Khun lú, Náng Ủa, Tản chụ xiết xương, sử thi chương Han….với các bài thơ, ca dao đều được dùng để “khắp” (hát)….

Bước đầu đã có làn điệu “lòng bản” và cách hát riêng cho mỗi loại bài thơ, xét theo hình thái sinh hoạt âm nhạc phân ra làm 2 hệ – theo Dương Đình Minh Sơn thì:

– Hệ tín ngưỡng “hát thơ mo” do giới mo then hát khi cúng tế lễ.

– Hệ dân gian: hát kể chuyện tự sự, hát thơ tình, hát ví, hát hò trên sông, hát ru, hát đồng dao……vv….

Ở người Thái 2 chữ “thơ ca” quả là đầy đủ và ý nghĩa “Thơ để giải bầy nỗi lòng, ca (hát) để ngâm vài lời thơ gửi đến những cõi lòng ai đó”.

Thơ Thái là 1 thứ “kinh thi” bản địa, hồn quê hòa đồng với thiên nhiên trời đất. Thơ dân gian Thái có 1 khối lượng đồ sộ với các truyện thơ, sử thi như đã nói ở trên đã trở thành các tác phẩm thơ cổ điển nổi tiếng.

Thơ đương đại của các tác giả Thái Sơn La (thời cách mạng xã hội chủ nghĩa) thường dùng lời thơ để hát (khắp xư) nói lên chí khí vươn lên của dân tộc mình, làm chủ bản Mường, cùng nhau đoàn kết các dân tộc anh em dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đất nước ngày 1 giàu mạnh – xin dẫn 1 số bài mới:

HÀO QUANG KHẨU CẢ

(tác giả tự dịch)

Từ xa xưa ông cha đặt tên Khau cả (1)

Là nói lên:

– Rắn hơn sắt thép, cứng quá kim cương giống gieo trồng mọi đất xanh tươi cho lúa chín hạt, quả ngọt nuôi người. Giặc Pháp muốn mượn oai hùng của núi, đặt trung tâm thống trị tỉnh ta và thành nơi diệt nguồn anh hùng đất nước.

Nhưng:

Khâu Cả là lò luyện con người gang thép chặt tan xiềng xích của thực dân, góp hun đúc những Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu và bao chiến sĩ/ những trái tim của cách mạng tỏa khắp non sông: chặt tan xiềng xích của thực dân Pháp, phong kiến/ góp phần đánh thắng hai đế quốc to. Đồi Khâu Cả cùng sóng cao cả nước giải phóng mình, xóa phu, thuế, nguột cuông. Dựng chính quyền cùng cả nước Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc/ hào quang khâu cả vượt chín tầng/ mây như ánh sáng soi đường cho ta bay bổng.

THIẾT CHẾ XÃ HỘI THÁI XƯA

          * Bản (làng): Là đơn vị hành chính nhỏ nhất, là cơ sở của Mường, là nơi cư trú của các gia đình phụ hệ thuộc nhiều dòng họ. Bản trung tâm của Mường gọi là Chiềng (phát âm ở Lào là Xiêng, Xiêng như Chiềng Lề (TX Sơn La) Xiềng Khọ, Xiêng Khoảng. Loại Chiềng thứ 2 là có một bản lớn, tồn tại độc lập không trở thành trung tâm kinh tế – xã hội và chính trị của một Mường nào đó (như Chiềng Đông, Chiềng Sàng, Chiềng Khoi ở Yên Châu) có nơi gọi là Viêng (Viêng Chăn – Lào, Viêng Lán ở Yên Châu).

          Trong Mường có hai loại Bản:

          – Bản của dân tự do (dân páy)

          – Bản của dân lệ thuộc (dân Thín).

          Đứng đầu Bản là Tạo Bản (Quan bản) thường là người dòng họ Tạo Mường – (Quý tộc) nắm giữ “Không cha truyền con nối”. Quyền lợi của  Tạo bản được cấp 1 số ruộng cấp tùy nơi “khoảng 1000 bó mạ (10.000m2), chức vị thứ 2 là chá bản (chá là nói)” truyền đạt mọi tin tức công việc của bản, ruộng được cấp bằng ½ Tạo Bản, khi thôi chức vụ phải trả lại ruộng.

          Họ được dân bản đến giúp công xá, biếu xén thịt và sản vật.

          * Xổng (Poọng) gồm 3 – 5 bản (như kiểu Tổng, Xã?), đứng đầu là Tạo Xổng thường là quý tộc, ruộng được cấp 2500 bó mạ (25.000m2), dân Xổng phải làm không công cho Tạo (được ăn cơm), dân cũng phải biếu xén Tạo Xổng.

          Giúp việc Tạo Xổng có Quan Xổng, Chá Xổng… mất uy tín hay chết thì dân bầu lại.

          * Mường: Gồm nhiều xổng, bản đứng đầu là Tạo Mường. Chết  dân bản bầu mới. Toàn bộ đất đai trong Mường là do Tạo Mường cai quản, gia đình Tạo chỉ “ăn” một đám ruộng là “lương” cấy 5000 bó mạ (50.000m2), dân phải đến làm không công cho Tạo.

          Theo Quắm tố mướng thì chúa đưa dân đi chiếm đất “có ruộng mới tập trung được dân cư cũng như có nước mới giữ được cá”. Có ruộng đất thì mới có bản Mường. Từ khi Mường Lò (Văn Chấn, Nghĩa Lộ – quê tổ Thái đen Việt Nam) ra đời từ Tạo Lò thì bản Mường cũng dần dần được tổ chức thành hệ thống.

          Nhiều bản hợp thành Xổng (Sổng), có nơi gọi là Ngụ (dưới cấp Lý Trưởng “xã”). Một hay ba Lộng (có nơi gọi là Ken) cộng với 3 – 4 Xổng thành một Mường. Từ 4 – 8 mường trở lên thành một “chu”. Các đơn vị từ Chu (Châu), Mường, Lộng, Bản là đơn vị hành chính mà Chu là đơn vị cao nhất (cỡ cấp huyện) của địa phương. Các đơn vị Xổng, Ngụ là dưới Mường Phìa (trực thuộc Phìa).

          Mỗi Chu (Châu) khi mới xác lập mang tính chất tự trị, không tập quyền thành một tổ chức thống nhất ở địa phương (phong kiến sơ kỳ, có tính cát cứ sứ quân).

BỘ MÁY QUAN CHỨC Ở CÁC CHÂU THÁI SƠN LA – TÂY BẮC

          Cánh đồng Mường Lò (Tông Lò) do Tạo Lò đứng đầu khai phá dựng bản, lập mường vào thế kỷ 11 (nhà Lý) đã là nhà nước phong kiến tập quyền) nhưng sử sách Thái không thấy ghi (kể cả sử Việt) vê bộ máy cai trị (quan lại) ở các Châu Thái Tây Bắc.

          Theo Quắm Tố Mướng thì khi Mường Lò (mường khởi thủy) ra đời thì có phân chia:

                             Họ Lướng dệt mo

                             Họ Lò dệt Tạo

                             Họ Lường (Lương) làm Thầy mo

                             Họ Lò làm Tạo.

          Như vậy Tạo Lò làm chủ (Chúa) Mường Lò.

          Luật Mường đã xác định: Tất cả các thứ (kể cả đất đai) là của Vua, của Tạo – đó là quyền sở hữu Nhà nước.

          An Nha (Quan Châu) phân quyền ban cấp tất cả các sản vật thiên nhiên trong rừng, trên đất, dưới nước cho các mường phìa, Lộng, Tạo, Bản đều thuộc quyền các quan chức ban cấp chiếm giữ.

Ai săn bắn được thú to, cá lớn đều phải trích phần nộp cho An Nha một đùi, cho phìa một đôi thăn, nếu không coi là phá tục lệ bản mường, tùy tội mà xử phạt. Do đó mỗi người dân phải luôn tự răn mình.

                   “Phít nọi sia quai

Phít lai bên khỏi

É pảo hữ dók mi

É pi hữ dók tó

É khó hữ dók tạo quan”

“Sai phạm nhỏ mất trâu

Sai phạm lớn thành tôi tớ

Muốn có sẹo thì đùa với gấu

Muốn béo (sưng mặt), thì đùa với ong

Muốn nghèo khó thì đùa với Tạo Quan”

          Quy định bổng lộc dành cho các Quan chức ở các Châu Thái Tây Bắc thời phong kiên – thực dân (trước thời giải phóng 1953) là: “Làm chủ vùng đất cai trị / hưởng nương dành ruộng chia / ruộng cày nương cuốc / cuông nhốc pụa làm tôi tớ. Suối cá/ ong vách đá / mật nhung hổ gấu hươu, nai, voi, tê giác tới rừng tre măng quý – dân ai vi phạm đều bị phạt tiền, dân được tham gia cử Tạo, dựng Quan (lời ca cổ”.

* VỀ TÊN GỌI BẢN MƯỜNG

          Thường đặt địa danh theo tên sông suối, núi, đất (na, nà) cỏ cây, con gì.

          Ở Việt Nam có 37 mường Thái chỉ có Mường Ai là có 1 bản.

          “Mường” nghĩa hẹp là chỉ 1 đơn vị  hành chính…

          “Mường” theo nghĩa rộng là 1 vùng miền, đất nước Quốc gia như Mường Ngô (Trung Quốc, nước Ngô thời Tam Quốc mà Giao Chỉ phụ thuộc), Mường Lá Púa (Mường Việt), Mường trời, Mường Ma, Mường Lùm (lúm) chỉ thiên hạ, cõi đời.

          Đã có bản Mường là phải có Tạo (chủ mường):

                             Khột ma Phái mi mương

                             Tánh Mường phái mi Tạo

                                      Khai ruộng phải có Mường

                                      Dựng mường phải có Tạo

          Chiềng hay Xiềng (Viêng):

          Là đơn vị Bản trung tâm của Mường trong (mường cuông). Chữ “chiềng” bao giờ cũng có một tên riêng khác kèm theo để biến thành danh từ riêng. Ví dụ: Bản Ban là trung tâm của Châu Mường “Mường Mụa” (Mai Sơn) – lúc này chiềng Dong vừa là tên riêng chỉ bản Ban, vừa là tên gọi Mường trọng (trung tâm của Châu mường), đồng thời là tên của cả châu mường Mường Mụa.

          Châu mường Mường Sang (Mộc Châu) là Chiềng Chu; Châu mường Mường Tấc (Phù Yên) là Chiềng Hoa.

          Đất Chiềng ở nhiều Châu Mường xưa (Châu Lỵ) thường có hào lũy vây quanh để bảo vệ, hào lũy là (Viềng), từ đó danh từ này nhiều khi trở thành tên của Châu mường – như Viêng Lò, Viêng Chăn (Lào).

          Châu mường Mường La có Viêng dựng ở bản Giảng (thị xã) nên gọi là Viêng Giảng đồn phòng thủ gọi là “che”, ở Mường La đặt ở bản Ái nên gọi là che Ái ở cách xa 10km.

          Thời VNDCH phần lớn “Chiềng” được áp sang là “xã”.

          Bản Mường trung tâm là Mường trong (Mường Cuông), ở ngoài là Mường Phìa ngoài (Mường Phìa Nọk) – Bản trung tâm của Mường Phìa ngoài cũng gọi là Chiêng (Chiềng), ví dụ:

          Mường Chanh là mường ngoài của Châu mường Mường Mụa có tên Chiềng Quen, Mường Sại là mường ngoài của Châu mường Mường Muổi (Thuận Châu) có tên là Chiêng Muôn. Sau 1954, ta đổi gán “chiềng” là “xã”.

          Bộ máy chính quyền các chức dịch phân chia thành hai đẳng cấp rõ rệt:

          1. Dòng dõi quý tộc Châu mường gồm họ gốc có tên Lò Cầm (đó là họ Lò to, Lò luông) để phân biệt với Lò bé (Lò bình dân). Họ Lò  Cầm phân chia ra các họ: Cầm, Bạc Cầm, Điêu (Đeo, Tao), Hoàng.

          Dòng dõi quý tộc Thái có có họ Vi Khăm, Kha Khăm, (Khăm = Căm = Kim = Cầm) phân thành họ Hà, Xa (Sa).

          Người thuộc họ quý tộc được phép tham gia giữ các chức người đứng đầu Bản, Lọng (Quen), các Phìa và An Nha Châu Mường.

          2. Người thuộc ngoài họ quý tộc như Lò, Lường, Cà, Tòng… thì chỉ được phép giữ chức dịch (cấp thấp) là người đứng đầu bản và các ông Quan hàng “Xổng”.

          Đó là luật tục quy định, người nào đó có thế lực muốn phá vỡ quy định này dù là quý tộc hay bình dân thì đều phải đổi họ gọi là “nhập đẳm”(tư đẳm) – ví dụ họ Vi (bé) muốn làm Phìa, An Nha thì phải đổi thành họ quý tộc Vi (lớn) phải làm khá phức tạp, tốn kém, ngược lại người họ quý tộc muốn làm chức nhỏ như Pằn (xen), mo mường… thì cũng phải đổi họ xuống thành họ Lường, Cà…

          Mọi chức dịch trong của bộ máy của Mường Phìa (chế độ Phìa Tạo) đều do An Nha (Chủ Châu (huyện) và Phìa Mường tiến cử, bổ nhiệm. Khi bổ nhiệm xong, họ nghiễm nhiên tổ hợp thành một tổ chức tương đương mang tên “Hội đồng bô lão toàn mường” (Thẩu ké hang mương) do chức ông Păn (xen) hoặc mo đứng đầu).

          Quan hệ giữa cấp châu mường với bốn mường Phìa ngoài thì không hẳn, theo thứ cấp trên dưới mà theo cơ cấu truyền thống vòng đồng tâm xoay quanh trục. Cơ cấu này quy định: Mường trong với bản trung tâm gọi là Chiềng là Trục, còn các Mường ngoài ở vòng đồng tâm.

          Trước thế kỷ 19, các Châu Mường Thái hợp thành khu vực “16 châu Thái” (Xíp hốc Châu Tay) – trong dó có 1 châu mường trung tâm, các châu mường khác tập hợp dưới hình thức thuần phục hay qui phục “Mường Luông” (Mường lớn).

      &n

0