Cách mạng Hoa Kỳ 1776
NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC CÁCH MẠNG HOA KỲ – 1776 Phạm Văn Tuấn 1/ Cuộc Chiến Tranh 7 Năm và hậu quả . Vào đầu thế kỷ 18, cả hai nước Pháp và Anh đều tìm cách tranh quyền bá chủ trên mặt biển. Mỗi nước đều tìm kiếm các liên minh quân sự và bầu không khí chính trị của châu Âu đã ...
NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC CÁCH MẠNG HOA KỲ – 1776
Phạm Văn Tuấn
1/ Cuộc Chiến Tranh 7 Năm và hậu quả.
Vào đầu thế kỷ 18, cả hai nước Pháp và Anh đều tìm cách tranh quyền bá chủ trên mặt biển. Mỗi nước đều tìm kiếm các liên minh quân sự và bầu không khí chính trị của châu Âu đã trở nên căng thẳng.
Vào năm 1740, Đại Đế Frederick của nước Phổ (Prussia) chiếm tỉnh Silesia của nước Áo, gây nên cuộc chiến tranh Silesia thứ nhất và thứ hai (1740-48). Nữ Hoàng Maria Teresa của nước Áo bèn tìm cách liên minh với các nước Pháp, Nga, Thụy Điển và xứ Saxony. Đại Đế Frederick sau khi liên kết với nước Anh, đã đưa quân chiếm xứ Saxony và cuộc Chiến Tranh 7 Năm (1756-63) bắt đầu. Hậu quả của cuộc chiến tranh này là nước Pháp bị thất bại, phải ký Hiệp Ước Hòa Bình Paris 1763 (the Peace of Paris). Nước Pháp phải nhượng toàn thể miền đất Canada và vài hải đảo trong vùng biển Tây Ân (West Indies) cho nước Anh và bồi thường cho nước Tây Ban Nha bằng miền đất Louisiana nằm tại phía tây của dòng sông Mississippi, trong khi đó nước Anh cũng chiếm được miền đất Florida do Tây Ban Nha nhường lại. Từ nay, nước Phổ trở nên một cường quốc chính của châu Âu và nước Anh bắt đầu xây dựng một đế quốc với lãnh thổ có mặt trời không bao giờ lặn trên đó.
Trong cuộc Chiến Tranh 7 Năm, các người thuộc địa của Tân Thế Giới đã đứng về phía mẫu quốc Anh, họ là các dân quân cùng chiến đấu bên cạnh binh lính Anh mặc áo đỏ. Khi Hiệp Ước Hòa Bình Paris được ký kết vào năm 1763 và khi nước Anh bắt đầu nhận được miền đất Canada từ nước Pháp và miền đất Florida từ nước Tây Ban Nha, thì một nhà ngoại giao thâm niên người Pháp là ông Charles Gravier, tức Bá Tước De Vergennes (Conte de Vergennes) đã tiên đoán rằng: “ các thuộc địa Anh do không còn bị đe dọa tại các miền biên giới nữa, sẽ không cần sự trợ giúp của mẫu quốc. Khi mẫu quốc Anh chuyển phí tổn quốc phòng cho các xứ thuộc địa gánh chịu, thì các xứ này sẽ tuyên bố độc lập“. Không có lời tiên đoán nào chính xác hơn câu nói của ông Gravier!
Trận Chiến Tranh 7 Năm đã làm khô cạn ngân quỹ của Vua George III. Ngay sau khi đã có Hiệp Ước Hòa Bình, chính quyền Anh bắt đầu giảm bớt quân đội và cắt đi các chi phí của Hải Quân. Tại Bắc Mỹ, 10,000 binh lính Anh vẫn còn được duy trì để bảo vệ các xứ thuộc địa khỏi sự quấy phá của các bộ lạc da đỏ do những người Pháp buôn lông thú xúi giục. Vì lý do này, chính quyền tại London đã đòi các người thuộc địa Bắc Mỹ phải trả phí tổn vì sự bảo vệ kể trên. Để có tiền, Quốc Hội Anh đã thông qua Đạo Luật Đường (the Sugar Act) năm 1764 theo đó, 3 xu thuế được đánh lên mỗi gallon mật là nguyên liệu làm rượu rum, nhập cảng vào Tân Thế Giới. Cách đánh thuế này không đặt căn bản trên chính sách mậu dịch mà chỉ là một cách làm tăng thêm lợi tức. Trước sự bất công này, một nhà ngoại giao của các xứ thuộc địa Bắc Mỹ là ông Benjamin Franklin đã qua nước Anh và đề nghị một giải pháp theo đó nước Anh nên thành lập một ngân hàng cho các người thuộc địa vay tiền và dùng tiền lời để trả chi phí cho quân đội Anh trú đóng tại Bắc Mỹ. Nhưng Quốc Hội Anh đã không lắng nghe lời đề nghị kể trên.
Đạo Luật Đường tuy được ban ra nhưng đã chỉ mang lại một lợi tức rất nhỏ, vì thế đạo luật này được sửa đổi vào năm 1764 theo đó các người thuộc địa phải trả thuế đánh vào các mặt hàng nhập cảng như đường, rượu chát và các nhu yếu phẩm khác. Để tránh thuế, nạn buôn lậu tại Tân Thế Giới gia tăng. Các nhân viên quan thuế Anh được lệnh xét hỏi các nhà buôn, tìm kiếm hàng lậu. Dù vậy, lợi tức do Đạo Luật Đường mang lại vẫn không đủ nên vào năm 1765, Đạo Luật Tem Thuế (the Stamp Act) được ban hành. Đây là thứ thuế trực thu (direct tax) đánh vào mọi ấn phẩm của các xứ thuộc địa Bắc Mỹ, gồm cả báo chí, văn bản pháp luật, các tập sách mỏng, các cỗ bài. Người dân nào vi phạm đạo luật này sẽ không được xét xử trước một bồi thẩm đoàn mà sẽ bị lôi ra trước một tòa án hải quân (admiralty court) là nơi chỉ có một vị quan tòa ngồi xác định số tiền nộp phạt và vị quan tòa này cũng nhận được 5 phần trăm tiền hoa hồng của số tiền đóng phạt.
Đạo Luật Tem Thuế đã gây nên sự phản đối mãnh liệt của các người thuộc địa. Họ coi đây là một vi phạm trắng trợn vào các quyền lợi của họ. Từ xưa, họ vẫn tin tưởng vào sự phân quyền giữa nước Anh và các xứ thuộc địa theo đó, nước Anh chịu trách nhiệm đối với các vấn đề đối ngoại như tuyên chiến, ký kết hòa bình, điều hành mậu dịch, đối phó với các vấn đề thổ dân da đỏ và công việc Bưu Chính, còn các xứ thuộc địa bắt chước đường lối tổ chức chính quyền của mẫu quốc Anh bằng cách thành lập các hội đồng địa phương để quản trị các vấn đề nội bộ kể cả việc tăng thuế, duy trì quân đội và luật pháp. Đạo Luật Tem Thuế như vậy đã vi phạm các quyền lợi của người dân thuộc địa vì họ là thần dân của nước Anh, chịu thuế mà không có đại diện. Sự việc này là một vi phạm vào nền độc lập của các hội đồng dân cử địa phương, xen lấn vào nền mậu dịch và kỹ nghệ của họ, đòi hỏi một thứ thuế bất công và quân đội Anh đóng trên mảnh đất của họ là để bắt họ phải tuân phục. Tóm lại, đây là một bước trong việc tước bỏ Tự Do của họ.
2/ Sự khác biệt giữa nước Anh và các thuộc địa Bắc Mỹ.
Các người thuộc địa định cư trên miền đất Bắc Mỹ rất quen thuộc với công việc tham gia vào chính quyền. 12 năm sau khi thị trấn Jamestown được thành lập tại xứ Virginia, người dân của địa phương này đã lập ra một hội đồng dân cử, được gọi là Hội Đồng Dân Biểu Burgesses (the House of Burgesses). Vào năm 1620, khi con tầu Mayflower còn đang lênh đênh trên biển cả, các người Pilgrims đã thảo ra “Bản Điều Lệ Mayflower” (the Mayflower Compact). Tới khi các xứ thuộc địa phát triển, mỗi xứ đều bầu lên một hội đồng dân cử để bảo vệ và duy trì “tự do” của những người định cư. Các người Thanh Giáo tới Tân Thế Giới để được tự do tín ngưỡng. Hai xứ Rhode Island và Maryland đã chủ trương hoàn toàn tự do tôn giáo. Người Công Giáo (Catholics) an cư tại xứ Maryland. Bên cạnh đó là xứ Pennsylvania thuộc về người theo đạo Quakers. Người Hòa Lan định cư tại Amsterdam, nơi mà ngày nay là tiểu bang New York. Nền giáo dục cũng được dân thuộc địa chú ý. Đại Học Harvard được thành lập năm 1636, chỉ 16 năm sau khi dân Pilgrims đặt chân lên đất liền. Năm 1647, xứ Massachusetts cung cấp cho dân chúng nền giáo dục tiểu học.
Tại Tân Thế Giới, đất đai rất rẻ tiền hoặc cho không. Một người dân thường chỉ cần đi tới vùng biên giới, dựng nên một căn nhà gỗ và khai quang một mảnh đất, người đó đã trở nên một chủ đất. Một người làm công sau khi hết thời hạn làm mướn, có thể sở hữu một nông trại. Gỗ rừng nhiều vô kể. Tại các hải cảng đều có các sân đóng tầu và các kỹ nghệ nhỏ bắt đầu phát triển : xay ngũ cốc, dệt vải, làm da thuộc và chế tạo các đồ dùng kim loại. Người dân định cư trên các xứ thuộc địa Bắc Mỹ đều chăm chỉ, nhiều sáng kiến, biết khai thác các tài nguyên thiên nhiên, nhờ vậy nền kinh tế của họ phát triển. Các con tầu biển của Bắc Mỹ đã chở hàng hóa tới bán tại các hải cảng thuộc vùng biển Tây Ân.
Trên miền đất phía tây của Bắc Mỹ, các người định cư đổ về thung lũng Ohio và các kẻ đầu cơ đất đai rất bận rộn khai thác miền hoang dã, lấn chiếm lãnh thổ của người da đỏ địa phương, săn bắn các thú vật có lông, bán rượu rum cho thổ dân da đỏ và lường gạt họ về lông thú. Các việc lấn đất của người da trắng vẫn tiếp tục dù cho có Bản Công Bố Năm 1763 (the Proclamation of 1763) của nước Anh ngăn cấm các người định cư không được mua đất bên ngoài đường ranh nối nguồn của các dòng sông chảy vào Đại Tây Dương.
Vào thế kỷ 18, nước Anh còn là một quốc gia do nhiều nhà quý tộc cai trị. Đây là những người danh giá, xuất thân từ các gia đình quyền quý, được giáo dục theo một nền văn hóa cao cấp và uyên thâm trong khi đó, người dân Anh bình thường không có được các cơ hội thăng tiến, họ chấp nhận địa vị thấp hèn, lệ thuộc, họ phải làm việc cực nhọc, kính trọng cấp trên và tuân phục các kẻ quyền thế. Nhưng tại Tân Thế Giới, đời sống khác hẳn. Xã hội của những người thuộc địa mang đặc tính dân chủ. Tại Bắc Mỹ, đã không có các hầu tước, các nhà quý tộc. Cách thức giao tế tại nơi này có tính mộc mạc, quê mùa, đơn giản. Miền hoang dã này đã thu hút những tinh thần độc lập và cuộc sống nơi biên giới nghèo nàn đòi hỏi ở người khẩn hoang lòng tự tin, cách tự quản trị. Tại xứ thuộc địa, đã không có các di sản thừa kế, không có các đặc quyền do dòng họ truyền xuống. Các cơ hội tại Tân Thế Giới làm cho mọi người dân có đầu óc năng động, tranh đấu, họ không bị giới hạn bởi tập quán cũ, giai cấp xã hội cũ, họ ưa thích tính đơn giản, tự do, phóng khoáng
Giữa xã hội Anh và xã hội thuộc địa đã có rất nhiều khác biệt. Chế độ quý tộc tại nước Anh đã sống theo nghi thức, quy lệ, phép lịch sự. Các nhà lãnh đạo Anh đã khinh rẻ thói quê mùa của người dân Bắc Mỹ, từ y phục thô sơ, lời nói vụng về, tới cử chỉ thiếu lịch sự, thiếu nền giáo dục cao cấp. Năm 1750, các chính khách của nước Anh tin tưởng rằng Quốc Hội Anh là đại diện của toàn thể dân tộc Anh, kể cả những người xa xứ, không bỏ phiếu tại quê nhà. Quốc Hội Anh có toàn quyền đối với các xứ thuộc địa, có thể đặt ra luật pháp, bắt buộc dân thuộc địa phải tuân phục, đánh thuế lên loại người dân xa xứ này và ngay cả có quyền giải tán các hội đồng dân cử của các miền đất mới.
Ngược lại, các nhà ái quốc Bắc Mỹ của thời đại đó lại không tin tưởng vào Quốc Hội Anh. Họ cho rằng Quốc Hội Anh phải tôn trọng một số quyền lợi tự nhiên của con người và họ coi là vô hiệu các hành động nào của Quốc Hội mang tính cách tước đoạt những quyền lợi tự nhiên đó. Vì thế, Vua nước Anh và không phải là Quốc Hội Anh, đã là sợi dây kết nối mẫu quốc Anh với các chính quyền thuộc địa. Các khế ước ban đầu giữa Vua nước Anh và những người định cư đầu tiên đã cho người dân thuộc địa và con cháu của họ các quyền lợi về đời sống, tự do và tài sản. Tới khi Quốc Hội Anh tìm cách tước đoạt đi các quyền lợi này, thì khế ước ban đầu coi như bị hủy bỏ và người dân xứ thuộc địa Bắc Mỹ không còn phải trung thành với Vua nước Anh nữa.
Một khuyết điểm khác của chính quyền Anh thời đó là thiếu hẳn một cơ quan trung ương quản trị các xứ thuộc địa. Chính quyền hành pháp của nước Anh lại bị phân hóa giữa nhiều bộ sở và ủy ban, những cơ quan này đã không hành động nhanh chóng và phối hợp. Bộ Mậu Dịch Anh là cơ quan hiểu rõ nhất các xứ thuộc địa lại không có quyền quyết định về các đạo luật, các nghị định áp dụng tại miền Tân Thế Giới, trong khi chính quyền Anh còn có tham nhũng, hối lộ và các nhà cai trị gửi qua các xứ thuộc địa là những người không đủ hiểu biết và không có khả năng nắm giữ các chức vụ khó khăn tại các miền đất mới. Khoảng cách giữa nước Anh và miền Bắc Mỹ cũng là một trở ngại trong việc thi hành các chính sách thuộc địa. Edmund Burke đã viết rằng:”sóng biển đã làm cho mệnh lệnh và việc thi hành mất nhiều tháng”.
Vào năm 1760, Vua George III lên ngai vàng. Nhà Vua cố tìm cách nắm quyền cai trị nước Anh và chế ngự Quốc Hội Anh. Chính quyền chia rẽ từ cấp trên, các yếu tố đảng phái, sự bất lực và tham nhũng, các thay đổi chính sách càng khiến cho việc quản trị miền Tân Thế Giới thiếu đi tính nhất quán. Vị Thủ Tướng của nước Anh vào năm 1763 là ông George Grenville lại không hiểu rõ nguyện vọng của người dân thuộc địa Bắc Mỹ, ông đã tìm cách khai thác các xứ thuộc địa sao cho có lợi nhất cho nước Anh. Tại miền Tân Anh Cát Lợi, người dân bị cấm đoán cắt xẻ các cây gỗ lớn có thể dùng làm cột buồm cho tầu Hải Quân Anh. Đất đai tại miền tây cũng bị kiểm soát. Nước Anh còn muốn khống chế nền mậu dịch của Tân Thế Giới. Theo thuyết “Trọng Thương” (the mercantile theory), các thuộc địa Anh phải tiêu thụ các sản phẩm của nước Anh và được hướng dẫn sản xuất ra các mặt hàng nào mà nước Anh không làm ra được, rồi trao đổi sản phẩm tại các hải cảng Anh. Các hội đồng dân cử địa phương của Bắc Mỹ không được quyền giới hạn việc bán ra các hàng hóa Anh tại Tân Thế Giới và một loạt các đạo luật mậu dịch (Acts of Trade) đã giới hạn rất nhiều các cơ hội phát triển của các xứ thuộc địa. Ngoài ra, tất cả các sản phẩm xuất và nhập cảng vào các xứ thuộc địa Bắc Mỹ đều phải do các tầu biển Anh chuyên chở.
Đối với dân thuộc địa Bắc Mỹ, họ rất bất mãn. Sản phẩm nông nghiệp của họ bán ra nước ngoài đã không đủ để mua vào các loại hàng hóa sản xuất từ nước Anh. Họ nhận thấy họ bị các nhà buôn Anh bóc lột. Giải pháp của họ là phải phát triển các cơ sở sản xuất địa phương, chủ trương tự do mậu dịch. Vào năm 1688, chỉ có vào khoảng 200,000 người sinh sống trên các xứ thuộc địa của Anh. Vì các nơi định cư còn rải rác, nền kinh tế chưa phát triển, các xứ thuộc địa đã không tìm cách chống lại các giới hạn kinh tế của nước Anh. Nhưng vào năm 1770, dân số Bắc Mỹ đã lên tới 1.5 triệu người. Tại 4 xứ thuộc địa Tân Anh Cát Lợi miền bắc, người dân phần lớn sống bằng nông nghiệp, buôn bán lông thú và đóng tầu biển. Các xứ thuộc địa miền trung có nhiều sắc dân khác nhau, văn hóa và tôn giáo khác nhau, kể cả những người mới đến định cư từ nước Đức và từ mạn bắc xứ Ái Nhĩ Lan, họ chuyên về nông nghiệp nhiều hơn. Người dân của các xứ thuộc địa phía nam lại sống nhờ thuốc lá, gạo và bông gòn trồng trong các đồn điền. Chính những đồn điền này đã thuê mướn các dân nô lệ da đen chở tới từ châu Phi.
Tại mọi phần đất thuộc địa đều có một hình thức dân chủ đơn giản với mỗi tỉnh có một hội đồng tỉnh và mỗi xứ thuộc địa có một hội đồng dân cử (assembly) để thông qua các đạo luật mà xứ thuộc địa áp dụng. Đại biểu của loại hội đồng dân cử này là các thương gia, các chủ đồn điền giàu có và sự đại diện được phân phối rộng rãi hơn là tại Quốc Hội của nước Anh.
Theo lý thuyết, mỗi hội đồng dân cử thuộc quyền hành của vị thống đốc thuộc địa (colonial governor) và hội đồng các bộ trưởng (council of ministers) và những vị này có quyền phủ quyết các đạo luật mới vì quyền lợi của chính quyền Anh. Nhưng vị thống đốc này lại lãnh lương bổng do hội đồng dân cử trả và hội đồng này có thể làm khó khăn đối với vị thống đốc khi họ không đồng ý về một chính sách hay một sự bổ nhiệm nào đó và như vậy, hội đồng dân cử đã nắm các quyền hành chính trị địa phương.
Thời gian đã tới khi các người thuộc địa Bắc Mỹ nhận ra rằng họ có thể tự làm được những gì cần thiết cho họ mà không cần tới sự trợ giúp của người Anh nữa. Các tự do phát triển kinh tế mà người dân thuộc địa trông đợi đã vượt qua sự cần thiết bảo vệ các miền đất biên giới tại Bắc Mỹ. Sự chống đối người Anh theo quy mô lớn tại Tân Thế Giới bắt đầu.
3/ Các chống đối ban đầu.
Cơ sở đầu tiên chống đối chính quyền Anh là các ủy ban thư tín (committees of correspondence) đặt tại các thị trấn miền Tân Anh Cát Lợi, nhất là tại thành phố Boston và do đề nghị của ông Samuel Adams. Các ủy ban này đã khiến cho dân chúng tại các địa phương khác nhau và xa nhau, liên lạc được với nhau. Lớp người chống đối kế tiếp là các đại biểu cấp tỉnh (provincial congresses). Họ đã hội họp với nhau để bàn luận các vấn đề chính quyền địa phương, bất chấp sự ngăn cấm của các thống đốc người Anh và sau này, khi chính quyền Anh không được dân chúng địa phương công nhận thì các đại biểu cấp tỉnh đã đặt ra luật pháp, kiếm ra tiền và tổ chức quân đội.
Khi Đạo Luật Tem Thuế bị chống đối, một luật sư của xứ Maryland là ông Daniel Dulany đã viết rằng Quốc Hội Anh có thể đánh thuế thu ngoài (external taxes) lên nền mậu dịch của các xứ thuộc địa, mà không có quyền áp đặt thứ thuế thu trong (internal taxes) vào dân chúng. Sự phân biệt rõ ràng này rất phổ biến tại Bắc Mỹ thời đó. Vào tháng 12 năm 1767, một nhân vật chống đối khác là ông John Dickinson của xứ Pennsylvania cũng viết trong “Các Bức Thư của một Chủ Trại miền Pennsylvania” (Letters of a Farmer in Pennsylvania) rằng khi mục đích của thuế vụ để làm thăng tiền nền mậu dịch của nước Anh, thuế vụ đó được coi là hữu lý nhưng khi các loại thuế chỉ được dùng để làm tăng lợi tức, các quyền tự trị của các xứ thuộc địa sẽ bị chấm dứt. Và cũng theo ông Dickinson, bằng cách kiểm soát số tiền trả cho các thống đốc thuộc địa, các hội đồng dân cử địa phương có thể điều khiển các thống đốc nhưng khi nước Anh dùng tiền thuế để trả lương cho các thống đốc thì các vị này sẽ khống chế các hội đồng địa phương.
Khi ông Charles Towshend làm Bộ Trưởng Tài Chính của nước Anh (Chancellor of the British Exchequer), phải chịu thuế tại Bắc Mỹ là các mặt hàng gồm có chì, sơn, giấy, thủy tinh và trà. Tại các xứ thuộc địa Bắc Mỹ, hội “Các người con trai của Tự Do” (the Sons of Liberty) đã tổ chức phản đối các nhân viên thuế vụ, rồi các nhà buôn đồng ý không nhập cảng mọi hàng hóa của nước Anh và hội “Các người con gái của Tự Do” (the Daughters of Liberty) kêu gọi mọi người không dùng các sản phẩm của Anh Quốc chẳng hạn như trà, là thứ bị đánh thuế bởi Đạo Luật Townshend.
Các hành động chống đối đã lên cao điểm vào ngày 21-6-1768, khi nhân viên quan thuế chiếm giữ chiếc thuyền buồm “Tự Do” (Liberty) của ông John Hancok, một thương gia của thành phố Boston. Hàng ngàn người tại Boston đã biểu tình, đe dọa mạng sống của các nhân viên quan thuế, khiến cho những người này phải bỏ trốn. Khi tin tức về cuộc nổi loạn “Tự Do” lan tới nước Anh, 4 trung đoàn lính Anh, vào khoảng 4,000 binh sĩ, được điều động tới Boston để bảo vệ các nhân viên quan thuế.
Sự khinh rẻ dân thuộc địa của binh lính Anh cùng với các công việc làm thêm của lớp quân nhân này đã cướp đi công ăn việc làm của người dân lao động Boston, đã dẫn tới rối loạn. Vào tháng 3 năm 1770, một xáo trộn đã xẩy ra. Một số người dân Boston đã nhạo báng một nhóm binh lính Anh. Nhóm này bèn nổ súng, giết chết 5 người. Sự việc này được gọi là “cuộc tàn sát Boston” (the Boston Massacre), đã gây nên phẫn nộ và dẫn tới những hệ quả về sau.
Tới năm 1770, cách đánh thuế bởi đạo luật Townshend được vị Thủ Tướng mới là Lord North xét lại và theo đề nghị của Vua George III, thuế trà vẫn được duy trì để xác nhận quyền đánh thuế của nước Anh tại các xứ thuộc địa. Các nhà buôn Bắc Mỹ khi đó đã chấp nhận sự dung hòa này và các chống đối giảm dần nhưng do nạn buôn lậu, chỉ có 1/10 trà nhập cảng vào Bắc Mỹ chịu thuế.
Tới năm 1773, Quốc Hội Anh lại ra một đạo luật cho phép Công Ty Đông Ấn của Anh (the British East India Company) chở trà tới các xứ thuộc địa Bắc Mỹ mà không phải trả thuế cho Anh Quốc. Công ty này sắp sửa phá sản và đang lưu trữ một số lượng trà tồn kho rất lớn. Nếu công ty Đông Ấn có được độc quyền bán một mặt hàng, họ sẽ có các độc quyền khác tại Bắc Mỹ và như vậy, sẽ lấn át nền mậu dịch địa phương. Vì vậy tại New York và Philadelphia, các con tầu biển Đông Ấn bị phản đối, không cho bốc hàng lên bờ. Trong khi đó tại bến cảng Boston, một nhóm dân địa phương đã ăn mặc giả làm thổ dân da đỏ, ném xuống biển khối lượng trà của công ty Đông Ấn trị giá khoảng 15,000 bảng Anh. Biến cố này được gọi là “Hành động Trà Boston” (the Boston Party). Đây là một sự kiện lớn nhất, đã gây nên cuộc Chiến Tranh Cách Mạng Hoa Kỳ.
Bởi vì Công Ty Đông Ấn thuộc Anh đã thi hành luật pháp của nước Anh nên sự kiện kể trên là một cách chống đối của các xứ thuộc địa đối với Vua George III và Thủ Tướng Lord North. Quốc Hội Anh đã phản ứng lại “hành động” chống đối tại bến cảng Boston bằng 5 đạo luật trừng phạt 1774, được các người dân thuộc địa gọi là “Năm Đạo Luật Cố Chấp” (the Five Intolerable Acts). Thứ nhất, Đạo Luật Hải Cảng Boston (the Boston Act) ra lệnh đóng cửa hải cảng Boston cho đến khi nào Công Ty Đông Ấn được bồi thường về số trà bị thiệt hại. Bởi vì mậu dịch là một huyết mạch của thành phố Boston, quyết định này đã ảnh hưởng xấu tới đời sống của mọi người dân địa phương, kể cả những người vô tội. Thứ hai, Đạo Luật Chính Quyền Massachusetts (the Massachusetts Government Act) sửa lại luật của xứ thuộc địa bằng cách xác định là nhà Vua nước Anh mà không phải là Quốc Hội Anh, có quyền bổ nhiệm Hội Đồng Thống Đốc (the Government’s Council) và giới hạn các buổi họp thành phố còn một lần trong một năm và như vậy, dân địa phương không có quyền tự quản trị nữa. Đạo luật thứ ba là Luật Quản Trị Tư Pháp (the Impartial Administration of Justice Act) cho phép một nhân viên người Anh hay một binh lính Anh bị tố cáo trọng tội, có thể được đưa về nước Anh để xét xử và như vậy bị cáo này không phải trình diện trước bồi thẩm đoàn thù nghịch của xứ thuộc địa. Thứ tư, theo Đạo Luật Đóng Quân (the Quartering Act), vị thống đốc Massachusetts có quyền cho quân đội đồn trú tại các quán rượu hay tòa nhà nào còn chỗ trống tại Boston. Đạo luật thứ năm không có tính trừng phạt các xứ thuộc địa mà chỉ nới rộng các biên giới của tỉnh Quebec tới dòng sông Ohio và dành cho người Công Giáo La Mã trong tỉnh đó nền tự do tôn giáo và sự bảo vệ luật pháp của cả nước Anh lẫn nước Pháp.
Để giám sát các đạo luật “cố chấp” này, Quốc Hội Anh đã bổ nhiệm Trung Tướng Thomas Gage, tư lệnh các lực lượng Anh tại Bắc Mỹ, làm thống đốc xứ Massachusetts. Nếu các xứ thuộc địa Bắc Mỹ chấp nhận 5 đạo luật cố chấp có tính trừng phạt này, họ sẽ bị mất đi quyền tự quản trị, các hội đồng dân cử địa phương sẽ mất quyền và sẽ có sự pha trộn hai thứ quyền hành quân sự và quyền hành dân sự.
Vào tháng 6 năm 1774, các nhà lãnh đạo chính trị của xứ Massachusetts đã kêu gọi tất cả các xứ thuộc địa cần phải triệu tập một thứ quốc hội và yêu cầu các xứ này gửi nhiều đại biểu tới họp. 44 đại biểu đã có mặt tại Sảnh Đường Carpenters (Carpenters’ Hall) thuộc thành phố Philadelphia vào ngày 5 tháng 9 năm 1774, rồi sau đó còn có thêm các đại biểu khác, ngoại trừ xứ Georgia, nâng tổng số lên 56 người. Xứ thuộc địa Georgia không tham gia vì họ e sợ rằng nếu họ gửi đại biểu đi họp thì nước Anh sẽ không giúp họ trong việc chống lại bộ lạc da đỏ Creek (the Creek Indians). Tất cả các đại biểu đã đồng thanh chọn ông Peyton Randolph của xứ Virginia làm chủ tịch của Quốc Hội Lục Địa đầu tiên, và trong số các đại biểu ban đầu, có các nhân vật danh tiếng như George Washington, Patrick Henry, John Jay, John Adams và Samuel Adams. Vào năm sau, Quốc Hội này còn có Benjamin Franklin và Thomas Jefferson. Hội họp một cách kín đáo, các đại biểu này đã bác bỏ kế hoạch đề nghị bởi ông Joseph Galloway của xứ Pennsylvania, theo đó Quốc Hội Lục Địa nên tìm cách dung hòa chính quyền Anh với nền Tự Do của các xứ thuộc địa. Trái lại, họ đã bỏ phiếu, đồng thanh chấp nhận một bản tuyên ngôn về các quyền lợi, gồm có các quyền về đời sống, tự do, tài sản, quyền hội họp, quyền được xét xử trước một bồi thẩm đoàn. Họ cũng đòi hỏi xét lại các bất công tích lũy từ năm 1763.
Quốc Hội đầu tiên của 13 xứ thuộc địa Bắc Mỹ này ngay từ lúc đầu chỉ muốn xác định các quyền lợi của người dân Tân Thế Giới, giới hạn các quyền hành của Quốc Hội Anh và đồng lòng với nhau về các chiến thuật đối với 5 đạo luật “cố chấp”. Sau đó, các đại biểu Quốc Hội đồng ý tạm hoãn hội họp cho tới tháng 5 năm 1775. Chính vào thời gian này, các xung đột lại gia tăng khiến cho các đại biểu của các xứ thuộc địa phải tổ chức một chính quyền trung ương và một quân đội lục địa rồi Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ dần dần thành hình.
CÁC TRẬN CHIẾN TRONG CUỘC CÁCH MẠNG HOA KỲ – 1776
Phạm Văn Tuấn
1/ Trận Lexington, Concord và Boston.
Vào năm 1775, đã có sự chia rẽ trong dân chúng của 13 xứ thuộc địa Bắc Mỹ. Một số người dân muốn đòi hỏi nền độc lập khỏi nước Anh, họ được gọi là các nhà “ái quốc” (the Patriots). Đối lập với họ là những người “trung thành” (the Loyalists) với Vua George III, hoặc là các đảng viên Tories. Các người trung thành gồm có các thương gia và chủ đất giàu sang, họ muốn duy trì nếp sống phong lưu đang có sẵn. Họ cũng là người dân thường hãnh diện là công dân của nước Anh, hay những người không muốn bị lôi cuốn vào chiến tranh, những người dân này chống đối các nhà ái quốc, coi việc làm áp lực đối với chính quyền Anh là bất hợp pháp và vi hiến. Trong khi đó vẫn có các chương trình hòa giải sự khác biệt chính trị giữa nước Anh và các xứ thuộc địa. Lord North cho rằng nước Anh sẽ không đánh thuế các xứ này nếu họ cung cấp đầy đủ lợi tức cho binh lính Anh trú đóng tại Bắc Mỹ. Edmund Burke lại muốn các người thuộc địa tự quản trị và bỏ phiếu quyết định về thuế vụ của họ, còn William Pitt, lúc này là Lord Chatham, mong muốn xét lại các đạo luật “cố chấp” và hứa rằng Quốc Hội Anh sẽ lại đánh thuế khi có sự đồng ý của các hội đồng dân cử Bắc Mỹ. Một số chính khách người Anh khác bằng lòng về sự đại diện của các xứ thuộc địa tại Quốc Hội Anh. Cuối cùng, tất cả các kế hoạch kể trên đều thất bại và miền đất Bắc Mỹ mang bầu không khí chiến tranh.
Tới thời gian này, tại các tỉnh các nhà ái quốc đã tổ chức các toán quân Minutemen, đây là những dân quân phải sẵn sàng chiến đấu vào giờ phút thông báo. Mặt khác, các kẻ “trung thành” phải tuyên thệ với lý tưởng “ái quốc”, một số người bị bắt giam, một số khác có đất đai và tài sản bị tịch thu và bị đẩy ra khỏi cộng đồng. Vào thời kỳ này, các người trung thành phải chọn lựa, hoặc là chống lại các người ái quốc, hoặc bỏ chạy. Hơn 50,000 người trung thành đã theo quân đội Anh hoặc ở lại làm các kẻ tình báo. Tại xứ New York, có 15,000 người trung thành trở nên binh lính Anh và 8,000 người là dân trung thành địa phương. Trong 8 năm tiếp theo, đã có 80,000 người trung thành rời bỏ các xứ thuộc địa, chạy qua sống tại phần đất phía bắc của Hồ Erie và sau này, họ đã lập nên xứ Canada nói tiếng Anh.
Vào thời kỳ này, dân chúng cư ngụ đông đảo nhất là tại phần đất giữa hai thành phố Boston và Philadelphia và cũng chính tại nới này mà tinh thần chống lại người Anh lên cao nhất. Đêm hôm 18 rạng ngày 19 tháng 4 năm 1775, Tướng Gage theo lệnh của Thủ Tướng Lord North, đã phái đi 800 binh lính tới thị trấn Concord cách thành phố Boston 29 cây số (vào khoảng 18 dậm) để tịch thu một số súng đạn của dân quân địa phương. Việc xuất quân này đã không tránh khỏi sự canh chừng của các nhân viên thuộc Ủy Ban An Ninh (the Committee of Safety). Một bác thợ bạc của thành phố Boston tên là Paul Revere đã cưỡi ngựa suốt đêm, đi thông báo cho dân làng biết rằng binh lính Anh đang di chuyển tới Lexington để bắt hai ông Samuel Adams và John Hancock và tới Concord để tịch thu súng đạn. Sáng ngày hôm sau, 19-4, binh lính Anh khi tới thị trấn Lexington, đã gặp một nhóm vào khoảng 70 dân quân ái quốc. Vị chỉ huy binh lính Anh là Thiếu Tá John Pitcairn đã ra lệnh cho các dân quân thuộc địa buông súng. Không ai tuân lệnh. Súng nổ. 8 dân quân bị chết và 1 người bị thương nặng là Đại Ủy John Parker thuộc toán dân quân. Sau đó, toán dân quân rút lui và binh lính Anh tiếp tục tiến đến thị trấn Concord cách đó vài dậm. Tại nơi này, súng đạn của dân quân đã được tẩu tán. Bính lính Anh lục soát vô hiệu rồi sau đó, đã đốt nhiều căn nhà và tìm cách rút lui nhưng trên đường về, họ đã bị dân quân thuộc địa núp trong các bụi cây, các tòa nhà bắn sẻ. Khi trở về tới Boston, tổn thất về phía binh lính Anh là 73 người bị chết, 174 người bị thương và 26 người mất tích. Về phía dân quân thuộc địa, chỉ có 45 người bị thương với 49 người bị chết.
Giao tranh tại Lexington và Concord đã khiến cho các xứ thuộc địa Tân Anh Cát Lợi kêu gọi mọi người dân cầm súng và hội đồng dân cử xứ Massachusetts ra lệnh cho dân quân vây hãm thành phố Boston.
Lúc khởi đầu, các người thuộc địa chưa có một quân đội thống nhất. Lực lượng quân sự của họ là các dân quân địa phương thiếu huấn luyện, chưa quen vâng lệnh cấp trên, cầm đầu bởi các người chỉ huy không có kinh nghiệm. Tổ chức quân đội này cũng chưa có một hệ thống trung ương lo nơi ăn, chốn ở, lo trả lương bổng cho các người lính chiến, lo súng đạn và quân trang cho họ. Trong khi đó 13 xứ thuộc địa chưa biết đoàn kết, còn e ngại rằng mỗi xứ phải gánh chịu các phần đóng góp nhiều hơn và tất cả các địa phương chưa biết hành động một cách thống nhất, theo kế hoạch chung. Cuộc Cách Mạng là một thứ gì mới mẻ và xa lạ.
Biến cố xẩy ra tại Lexington và Concord với các toán dân quân địa phương tham chiến, với số thiệt hại về cả hai phía khá cao, đã khiến cho sự việc này được coi là một cuộc nổi dậy có võ trang chống lại người Anh.
Ngày 10 tháng 5 năm 1775, các đại biểu của các xứ thuộc địa lại hội họp tại Philadelphia, lần này được gọi là Quốc Hội Lục Địa Thứ Hai, để đối phó với tình hình mới. Các đại biểu đã sớm chấp nhận Quốc Hội là một chính quyền trung ương của “Các Thuộc Địa Liên Hiệp Bắc Mỹ” (the United Colonies of America) và công nhận toán quân vây hãm thành phố Boston thuộc “Quân Đội Lục Địa” (Continental Army) của họ. Quốc Hội Lục Địa Thứ Hai cũng chỉ định một nhà quý tộc 43 tuổi thuộc xứ Virginia làm Tư Lệnh Quân Đội, đó là ông George Washington. Nhiều lý do đã khiến cho ông Washington được chọn lựa. Thứ nhất, ông Washington đã là nhân viên của Hội Đồng Dân Biểu Burgesses hay hội đồng dân cử của xứ Virginia và vào thời gian này, Virginia là xứ thuộc địa rộng lớn nhất. Thứ hai, các xứ thuộc địa miền bắc muốn lôi cuốn các xứ miền nam tham gia vào cuộc chiến đấu. Thứ ba, ông Washington đã là một quân nhân có kinh nghiệm, đã từng tham chiến trong Cuộc Chiến Tranh 7 Năm, đã là phụ tá của một vị tướng người Anh và đang chỉ huy toán dân quân của địa phương Virginia.
Ngoài các ưu điểm xuất sắc về lập trường chính trị và quân sự, ông George Washington còn là một nhân vật cao lớn, uy nghiêm, có tinh thần vừa táo bạo, vừa bình tĩnh và tự tin. Quốc Hội đã yêu cầu ông Washington lập ra một kế hoạch phòng thủ thành phố New York, viết ra các kế hoạch xây dựng quân đội, các quy luật cho binh lính và các phương thức để mua súng đạn.
2/ Tướng Washington chỉ huy Quân Đội Lục Địa.
Khi ông Washington nhận chức điều khiển quân đội, binh lính của ông chỉ là các nông dân, thợ rừng, các công nhân tầm thường hay thư ký cấp thấp, họ phục vụ quân đội theo hợp đồng với thời hạn ngắn hơn một năm. Họ chỉ là những người lính thiếu huấn luyện, thiếu thực phẩm, quần áo và súng đạn.
Vào giai đoạn này, Quốc Hội Lục Địa chưa có quyền đánh thuế lên các xứ thuộc địa mà chỉ dám yêu cầu từng hội đồng dân cử cung cấp ngân khoản để mua súng đạn, chưa kể tới thực phẩm và lương bổng của binh lính. Trong khi đó, người lính được trả lương thì tiền bạc của họ là loại tiền giấy rất ít giá trị do Quốc Hội Lục Địa phát hành mà các thương gia và các chủ quán rượu không muốn nhận, họ ưa các đồng tiền vàng và tiền bạc hơn. Quốc Hội Lục Địa cũng chưa thể xin được trợ giúp từ các nước bên ngoài trong khi tại Bắc Mỹ, các người giàu có đều là những kẻ trung thành và các nhà ái quốc không dám tịch thu tài sản của họ vì e ngại sẽ gây nên làn sóng chống đối.
Với tinh thần và các phương tiện chiến đấu ban đầu thiếu thốn như vậy, không có dân quân địa phương nào muốn ký kết hợp đồng phục vụ quân đội lục địa lần thứ hai. Về sau, vào năm 1776, ông George Washington đã phải bi quan mà tuyên bố rằng “tinh thần lính đánh thuê và bạc nhược như vậy đã lan tràn mọi nơi khiến cho tôi không ngạc nhiên nếu có một thảm bại xẩy ra”.
Về phía quân đội Anh, do không thể tuyển mộ các binh lính tình nguyện tại nước Anh nên Vua George III đã mướn vào khoảng 30,000 lính đánh thuê giàu kinh nghiệm tác chiến, phần lớn gốc từ các miền Hesse-Kassel, Brunswick và Hesse-Hanau của nước Đức, mà người Bắc Mỹ gọi chung là các người lính Hessians. Các đạo quân Anh ngoài súng đạn, lương thực, quân trang đầy đủ, còn được yểm trợ bởi một hậu phương giàu có, với tài nguyên kỹ nghệ và kinh nghiệm quân sự, bởi một hạm đội tầu biển có thể di chuyển tự do trên mọi bờ biển mà không có một lực lượng nào chống đối.
Quân Đội Lục Địa như vậy đã có rất nhiều yếu kém, nhưng lại có một ưu điểm rất lớn, hơn hẳn địch quân, đó là tính lưu động. Họ được trang bị nhẹ nhàng, mở các cuộc đột kích rồi lẩn tránh trong miền thôn quê, nơi đã có các người dân ái quốc yểm trợ cả về thực phẩm lẫn chỗ ẩn náu.
Ngoài khó khăn phải đối phó với các vụ bắn sẻ, quân đội Anh còn gặp trở ngại về tiếp liệu. Người Bắc Mỹ địa phương đã từ chối cung cấp lương thực cho binh lính Anh khiến cho các đồ tiếp tế phải chở từ nước Anh trên các con tầu biển và cuộc hải hành phải mất từ 2 tới 3 tháng trên lộ trình dài 3,000 dậm với các trắc trở như bão táp, cướp biển. Đồ vật tiếp liệu khi được bốc dỡ lên bờ, lại phải được chuyên chở tới các căn cứ ở gần, có phòng thủ cẩn thận. Quân đội Anh còn có một nhiệm vụ khác là phải bảo vệ các người trung thành, vì vậy họ phải rút lui khỏi các căn cứ ở xa, khó tiếp tế. Thực vậy, làm sao quân đội Anh có thể kiểm soát nổi một miền đất bao la, trải dài từ xứ Maine ở phía bắc tới tận xứ Georgia ở phía nam, lại nằm sâu vào trong đất liền tới 300 dậm.
Ngày 20-6-1775, Tướng George Washington nhận nhiệm vụ do Quốc Hội Lục Địa giao phó rồi lên đường đi Boston. Trong khi đó Tướng Anh Thomas Gage mới nhận được lực lượng tăng cường, nâng quân số lên tới 8,000 người. Tướng Gage bèn cho quân lính chiếm các điểm cao nhìn xuống thành phố Boston là Charlestown ở phía bắc và Dorchester tại phía nam, khi đó quân đội Lục Địa dưới quyền của Trung Tá William Prescott đóng chốt tại Breed’s Hill. Ngày 17-6, Tướng Gage sai Thiếu Tướng William Howe với 2,500 bộ binh tiến đánh quân đội Lục Địa và phải sau 3 lần tấn công, dân quân Bắc Mỹ mới bỏ chạy và thua trận tại Bunker Hill. Sau trận đánh này, tổn thất của quân đội Anh là 1,000 người vừa chết vừa bị thương, số thiệt hại của quân đội Lục Địa chỉ bằng nửa. Quân đội Bắc Mỹ đã phải bỏ chạy khỏi Breed’s Hill nên bị coi là thua trận này nhưng nếu xét về số thương vong thì quân đội Anh không phải là thắng.
Trong khi trận Bunker Hill chưa xẩy ra, Quốc Hội Lục Địa đã gửi đơn thỉnh nguyện (the Olive Branch Petition) tới Vua George III của nước Anh, xác nhận lòng trung thành của người dân Bắc Mỹ đối với nhà Vua và yêu cầu nhà Vua bác bỏ các chính sách của những vị bộ trưởng dưới quyền. Lời thỉnh nguyện kể trên đã tới Vua nước Anh cùng lúc với tin tức về trận đánh Bunker Hill khiến cho Vua George III khước từ lời yêu cầu và vào ngày 23-8-1775, nhà Vua đã tuyên bố Tân Anh Cát Lợi là xứ phản loạn. Quốc Hội Anh cũng theo đó xác nhận sự phản bội của mọi người dân thuộc địa và tầu thuyền của họ đều đáng bị tịch thu. Ngoài ra, số thiệt hại của binh lính Anh tại trận đánh Bunker Hill đã làm cho chính quyền Anh thấy rằng họ đang phải đối đầu với một cuộc chiến tranh đích thực và cũng vì thế, Tướng Gage bị thay thế bởi Tướng Howe.
Ngày 2-7-1775, Tướng George Washington tổ chức và huấn luyện lại đạo quân dưới quyền, với quân số từ 13,000 tới 17,000. Ông thấy rằng không thể đánh thành phố Boston mà không có pháo binh chủ động. Tướng Washington đành phải chờ tới mùa đông, lúc tuyết đóng băng trên các con đường và giòng sông, cho phép kéo đi các cỗ súng đại bác mà hai đại tá Ethan Allen thuộc miền Vermont và Benedict Arnold thuộc xứ Connecticut, đã chiếm được từ quân đội Anh nhân trận đánh đồn Ticonderoga bên hồ Champlain.
Vào tháng 8 năm đó, lực lượng quân đội Bắc Mỹ dưới quyền Tướng Richard Montgomery đã đánh xứ Canada, chiếm thành phố Montreal vào tháng 11 và vào tháng sau, sát nhập với đạo quân của Đại Tá Arnold, nhưng rồi quân đội Bắc Mỹ đã bị thua trận tại Quebec và Tướng Montgomery tử trận.
Vào mùa đông năm 1775-76, Đại Tá Henry Knox là chỉ huy trưởng Pháo Binh của Tướng Washington đã di chuyển được 59 khẩu đại bác hạng nặng và súng cối, từ Ticonderoga tới Boston. Đêm hôm 4-3-1776, lực lượng của Tướng Washington đã chiếm được Dochester Heights, đặt các khẩu đại pháo hướng về hải cảng Boston. Bị hướng súng bất ngờ, Tướng Howe thấy rõ không thể giữ được thành phố Boston nữa nên đành ra lệnh di tản. Ngày 17-3, hơn 11,000 quân đội Anh và 1,000 người trung thành đã xuống tầu, rời đi Halifax thuộc miền Nova Scotia. Đa số những người trung thành này không bao giờ có cơ hội nhìn lại thành phố Boston của họ.
Khi quân lính Anh xuống tầu rút lui khỏi Boston, Tướng Washington đã biết rõ rằng người Anh chưa hẳn đã thua trận tại xứ thuộc địa. Thực vậy, Vua George III và Quốc Hội Anh đâu đã chịu bỏ cuộc và có nguồn tin cho biết nước Anh đang tuyển mộ các binh lính đánh thuê người Đức. Tướng Howe sở dĩ rút lui là để tổ chức lại lực lượng quân sự và chờ viện binh gửi qua. Tướng Washington đã tiên đoán rằng khi Tướng Howe trở lại thì thành phố New York với hải cảng rộng rãi, với nhiều sông rạch gần giòng sông Hudson nên rất thuận tiện cho lực lượng Anh lên bờ.
Ngày 29-6-1776, Tướng Howe tới Sandy Hook, N.J., với một đoàn tầu biển chỉ huy do Đô Đốc Richard Howe, một người anh em. Đoàn tầu này đã chở qua Bắc Mỹ một lực lượng viễn chinh của nước Anh lớn nhất từ xưa tới nay. Nểu kể cả 8,000 binh lính đánh thuê người Đức thì lực lượng quân sự này đông tới 32,000 người. Để đối đầu, Tướng George Washington chỉ có ít hơn 20,000 quân, một nửa trong số này là các người lính thiếu kinh nghiệm. Cả hai phe đang chuẩn bị trận chiến.
Vào tháng 11-1775, hy vọng hòa giải với nước Anh của các người miền Nam thuộc Tân Thế Giới đã bị tiêu tan khi Thống Đốc xứ Virginia là Lord John Dunmore đã trả tự do cho các người nô lệ nào chống lại chủ của họ và gia nhập vào quân đội Anh.
3/ Bản Tuyên Ngôn Độc Lập.
Vào thời kỳ các trận chiến xẩy ra tại Lexington và Concord, rất ít người thuộc địa muốn đòi hỏi độc lập khỏi nước Anh. Phần lớn các nhà chính trị Bắc Mỹ chỉ muốn một nền tự trị trong Đế Quốc Anh. Tháng 6 năm 1775, Tướng Washington đã hy vọng vào “nền hòa bình và hòa hợp giữa mẫu quốc và các thuộc địa”, rồi ông Thomas Jefferson cũng trông đợi sự hòa giải. Trong khi đó, Quốc Hội Anh không xét lại 5 đạo luật “cố chấp”, và vào tháng 8, Vua George III đã gọi các nhà “ái quốc” Bắc Mỹ là các kẻ làm loạn (rebels). Vào tháng 10-1775, quân Anh đốt phá thành phố Portland, Me., làm cho hàng ngàn người thuộc địa gặp cảnh không nhà khi mùa đông tới và có tin 20,000 lính đánh thuê Hessians đang được gửi đến Tân Thế Giới để dẹp cuộc nổi dậy cùng với sự xúi dục quấy phá của các người da đỏ tại các biên giới phía tây. Trước hoàn cảnh này, ông Thomas Jefferson đã viết :”Nhà Vua đã cưỡng đoạt các vùng biển của chúng ta, tàn phá các bờ biển, đốt cháy các thành phố và hủy diệt dân tộc chúng ta”.
Vào tháng 1-1776, ông Thomas Paine đã viết ra tập sách mỏng “Lương Tri” (Common Sense) trong đó tác giả tự hỏi làm sao một dân tộc có thể vừa chống lại nhà vua, lại vừa trung thành với nhà vua? Thời kỳ hòa giải đã qua, và theo Thomas Paine, “Đây là lục địa Bắc Mỹ rộng lớn, thích hợp để trở nên quê hương của một giống người tự do. Hãy đừng để miền đất này nằm dưới chân của một vị vua không xứng đáng”. Hàng ngàn người dân thuộc địa đã đọc được câu nói này và họ dần dần chấp nhận ý tưởng tách rời các xứ thuộc địa khỏi nước Anh. Trở ngại tâm lý đã được vượt qua.
Vào giai đoạn này, các xứ thuộc địa Bắc Mỹ không thể thắng được cuộc chiến nếu không có sự giúp đỡ của các quốc gia khác ở châu Âu và các nước này cũng không thể giúp các xứ thuộc địa khi mà người dân còn công nhận trung thành với Vua nước Anh. Ngoài ra, nếu không có độc lập, người dân Bắc Mỹ sẽ không thể ký kết các hiệp ước mậu dịch với các quốc gia khác, nền kinh tế sẽ bị kiềm chế và sẽ không thể phát triển đời sống no ấm của người dân.
Vào mùa xuân năm 1776, North Carolina là xứ đầu tiên gửi các đại biểu tới Quốc Hội Lục Địa để tuyên bố độc lập. Xứ Virginia và các xứ thuộc địa khác cũng tham gia vào cuộc bàn thảo. Ngày 7-6-1776, đại biểu Richard Henry Lee đã đưa ra một nghị quyết theo đó “các thuộc địa liên hiệp này là, và có quyền là các xứ tự do và độc lập, họ không trung thành với nhà Vua nữa và mọi liên hệ chính trị giữa họ và nước Anh phải bị hoàn toàn cắt đứt”. Nghị quyết này chưa được các đại biểu chấp thuận ngay vì họ chưa được lệnh từ các xứ thuộc địa. Vì vậy một ủy ban khác được chỉ định để chuẩn bị một bản văn xác nhận về trường hợp tranh đấu của các xứ Bắc Mỹ. Ủy ban gồm các ông John Adams, Thomas Jefferson, Benjamin Franklin, Roger Sherman và Robert Livingston. Ông Thomas Jefferson được chọn để viết ra bản tuyên ngôn cần thiết, trình bày trước Quốc Hội vào ngày 28-6.
Ngày 2-7, nghị quyết của Henry Lee được chấp thuận và bắt đầu cuộc tranh luận về bản tuyên bố của Jefferson. Trong một danh sách các lời tố cáo Vua George III, ông Thomas Jefferson cũng chỉ trích chế độ nô lệ và nghề buôn bán nô lệ. Các đại biểu của miền Nam là các xứ dùng người nô lệ đã không chấp nhận đề mục này.
Vào ngày 4-7-1776, Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (the Declaration of Independence) được Quốc Hội chấp nhận. Tên họ của 56 đại biểu được liệt kê bên dưới các xứ mà họ đại diện. Chủ Tịch Quốc Hội là ông John Hancok ký vào Bản Tuyên Ngôn ngày 4-7. Phần lớn các đại biểu ký tên vào ngày 2-8. Lúc đầu bản văn này chưa xác nhận nền Độc Lập của các xứ thuộc địa Bắc Mỹ mà chỉ là một lời xác định về lý thuyết của chính quyền Bắc Mỹ trong đó có 3 điểm chính : (1) Thượng Đế đã tạo ra mọi người bình đẳng và cho họ các quyền lợi về đời sống, tự do và theo duổi hạnh phúc, (2) Công việc chính của chính quyền là bảo vệ các quyền lợi này, (3) nếu một chính quyền nào tìm cách ngăn cản các quyền lợi này thì người dân được tự do nổi dậy và thiết lập một chính quyền mới. Ba điểm này đã là căn bản cho việc thành lập các chính quyền tiểu bang sau khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được đồng thanh chấp thuận.
Các ý tưởng về nền độc lập và tự chủ đã được phổ biến trước kia tại nước Anh do John Locke qua tác phẩm “Về Chính Quyền Dân Sự” (On Civil Government), một lời biện hộ cho cuộc Cách Mạng Anh năm 1688 và tư tưởng của John Locke về “quyền theo đuổi tài sản” (the pursuit of property) đã được sửa đổi thành “quyền theo đuổi hạnh phúc” (the pursuit of happiness).
Ngày 8 tháng 7 năm 1776, dân chúng của thành phố Philadelphia đã nghe thấy tiếng “Chuông Tự Do” (the Liberty Bell) kêu gọi họ tới nghe đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Súng đại bác đã nổ vang và các kỵ mã đã mang tin quan trọng này đi xa, loan báo cho mọi người biết. Tướng George Washington cũng ra lệnh đọc Bản Tuyên Ngôn cho binh lính nghe để làm tăng thêm tinh thần chiến đấu của họ.
Trong Lịch Sử của Nhân Loại, chưa bao giờ một đất nước thuộc địa với dân số nhỏ bé đã có nhiều nhà lãnh đạo tài năng hàng đầu như lúc này. George Washington là vị Tướng Tư Lệnh Quân Đội, đã duy trì được tinh thần chiến đấu bằng sự can đảm, kiên nhẫn và cứng dắn của ông trong các giờ phút đen tối nhất của lịch sử. Benjamin Franklin đã là đại biểu của Quốc Hội Lục Địa, qua nước Pháp để xin trợ giúp cho quốc gia Hoa Kỳ non trẻ, ông đã dùng tới mọi nghệ thuật ngoại giao để giành lấy thiện chí của mọi tầng lớp xã hội Pháp và ông đã trở nên một thần tượng của thành phố Paris. John Adams và Thomas Jefferson đã làm ổn định được các mối bất hòa trong Quốc Hội và đã lấy lại niềm tin của mọi người, còn Robert Morris lãnh nhiệm vụ kiếm tiền cho cuộc chiến tranh giành độc lập. Phía bên ngoài, toàn thể người dân Bắc Mỹ đã chịu đựng mọi cảnh thiếu thốn và gian nan, và nhờ tất cả các yếu tố này mà chính quyền quốc gia Hoa Kỳ được thành công.
Sau khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được công bố, Bộ Trưởng Ngoại Giao của nước Pháp là ông Charles Vergennes đã trình bày với Vua Louis 16 rằng nước