Tháp báo ân

Ở xã Bình Quân thuộc huyện Cẩm Giàng - Hải Dương ngày nay, ai đi qua cũng thấy ở giữa cánh đồng có một ngôi tháp cổ nhưng bốn xung quanh lại không ghi bia ký. Tương truyền ngày trước vào cuối thời Lê, ở xã này có một vị phú ông thuộc dòng họ Nguyễn, nhà rất giàu có. Ông có mấy người con trai ...

Ở xã Bình Quân thuộc huyện Cẩm Giàng - Hải Dương ngày nay, ai đi qua cũng thấy ở giữa cánh đồng có một ngôi tháp cổ nhưng bốn xung quanh lại không ghi bia ký.

Tương truyền ngày trước vào cuối thời Lê, ở xã này có một vị phú ông thuộc dòng họ Nguyễn, nhà rất giàu có. Ông có mấy người con trai nhưng đều đã ra ở riêng và đều thuộc loại gia tư khá giả cả. Đến năm năm mươi tuổi, ông lại sinh thêm một người con gái út. Cả hai ông bà đều mừng thầm: chắc đến tuổi già trong nhà sẽ đỡ hưu quạnh đây!

Càng lớn lên, cô gái càng xinh đẹp, lại duyên dáng, nết na. Ông bà hết sức chiều chuộng, nâng niu, còn cô cũng thực lễ phép, chăm chỉ. Khắp trong làng ngoài xã, ai nhìn vào cũng đều trầm trồ ngợi khen: "Nhà ông bà có cô con gái rượu thực là... quí hoá!". Còn các chàng trai trong làng, mỗi khi thấy cô gái thì đều tơ tưởng, ra ngẩn vào ngơ.

*

*        *

Về đường nhân duyên của con gái, ông già họ Nguyễn cũng đã nhiều phen suy tính kỹ càng. Ông dự định sẽ gả nàng cho một chàng nho sinh. Nhà ông mấy đời nay chỉ quen chân lấm tay bùn, đến đời ông và các con trai, tuy giầu thì có giầu, nhưng vẫn bị mang tiếng là... phường vô học. Vậy ông sẽ phải sửa cái tiếng ấy.

Ông vẫn nhẩm tính. Các vị tân khoa trẻ tuổi trong vùng này chắc chẳng có ai vời đến con gái của ông, vì làm gì có người đứng ra mai mối. Làm sao ông có thể tranh được chàng rể qúi với quan phủ, quan huyện và các vị trong hàng chức sắc khác! Vậy thì cứ gả con gái cho một anh khoá sinh, như thế sẽ hợp với gia cảnh nhà ông hơn. Mai này nhờ trời, anh khoá học hành tấn tới, lại thêm có của nả nhà ông giúp thêm vào, đến kỳ thi mà đỗ đạt rồi ra làm quan, thì ông cũng chẳng được tiếng tốt đó sao! Nhược bằng anh khoá không đỗ, thì vẫn là người có học, ra đường gặp ai cũng được nể trọng, đến chỗ đình trung vẫn chẳng bị người ta rẻ rúng là phường bố đĩ, bố cu - được như thế cũng đã là tốt lắm rồi!

Ý định của ông so với đương thời quả thực là rất hợp tình, không có gì quá đáng cả. Và nhiều người cũng đã từng có suy nghĩ như thế. Con gái ông do biết được ý định của cha, nên cũng hay phấp phỏng đợi chờ.

Nhưng nào ngờ, ông trời thật quái ác, chẳng muốn chiều theo lòng người. Từ lúc cô gái 16 tuổi, ông bố đã kén rể nhưng chưa xong, thì đến năm 18 tuổi, bỗng nhiên nàng mắc phải chứng bệnh phong. Tuy mới chỉ là những dấu hiệu ban đầu, nhưng đã cho thấy nhãn tiền cái kết cục bi thảm đang sờ sờ ra, ở ngay trước mặt. Thời ấy, không thầy nào thuốc nào có thể chữa được bệnh phong. Ai mắc bệnh này thì chỉ còn ngồi chờ chết. Trong tâm lý đương thời, ai cũng muốn tránh xa người mắc bệnh, vì sợ bị lây. Còn đến khi bệnh đã vào giai đoạn cuối, thì chỉ vừa mới trông thấy, mọi người cũng đã sợ rồi. Ngay cả người nhà cũng ngại không muốn tiếp xúc với bệnh nhân trong nhà.

Chẳng còn cách nào khác, ông già họ Nguyễn đành phải làm cho con gái một ngôi nhà nhỏ ở ngoài đồng. Ông cấp cho nàng đầy đủ các thứ cần thiết. Lương thực thực phẩm thì nửa tháng cho người nhà đem ra một lần. Còn rau cỏ nàng có thể trồng ở xung quanh nhà để hái cho tiện.

Mặc dù rất thương con, nhưng dư luận xã hội buộc lòng ông phải xử sự như thế. Còn nàng thì cũng biết thân biết phận mình, chẳng dám oán trách cha mẹ điều gì. Chỉ âm thầm chịu đựng, đêm ngày thui thủi một bóng một hình.

*

*         *

Nói ông trời quái ác, nhưng nhiều khi cũng thấy ông mở lượng hải hà. Hơn một năm sau, một hôm có vị cử nhân trẻ tuổi, người trong huyện Kinh Môn cùng tỉnh, trên đường lên kinh thi Hội, đi qua. Lúc ấy trời gần tối, chàng ta lại đang ở giữa cánh đồng thì bỗng đâu mây đen kéo đến rồi mưa đổ nước xuống ầm ầm. Nhìn phía trước thấy làng xóm còn xa xôi, nhưng ở ngay trước mặt lại có ngôi nhà nhỏ, nên chàng ta vội vàng chạy lại xin nghỉ nhờ. Nàng ra mở cửa, chàng cử trẻ tuổi bước vào. Bốn mắt nhìn nhau, tuy chưa nói, nhưng ngay phút đầu, cảm tình đã có.

Nàng hỏi tên tuổi, quê quán và hỏi làm gì mà chàng qua đây trong lúc mưa gió thế này? Chàng cứ thực thà trả lời, giọng nói cử chỉ lại có phần trìu mến. Nàng hơi bẽn lẽn, nhưng cũng tự giới thiệu là cha mẹ đã già, lại nhà neo đơn, nên phải làm nhà ra đây để trông nom hoa màu. Tiếng rằng là cử nhân, nhưng thực ra nhà chàng cũng thuộc loại không phải giàu có cho lắm, từ nhỏ chàng đã quen với chân lấm tay bùn, nên nghe thấy thế, chàng cũng động lòng thương và có phần còn mến phục thêm nữa.

Ngoài trời vẫn mưa như tầm như tã và có cơ mưa đến hết đêm... Lại thỉnh thoảng có tiếng sấm sét nổi lên đùng đùng. Đang chuyện trò thì trời sập tối. Nàng đứng dậy đi châm đèn rồi mời chàng ở lại dùng cơm. Chàng nhận lời, và họ cùng nhau đi chuẩn bị nấu nướng...

Bữa cơm tình cờ, cũng như cuộc gặp gỡ tình cờ, càng lúc lại càng làm cho tình cảm giữa hai người thêm phần đằm thắm. Dưới ánh đèn, chàng nhận thấy ở nàng một vẻ đẹp thực sự giai nhân: Mắt phượng, mày châu, mũi dọc dừa, còn miệng thì tươi như hoa chớm nở. Lại thêm, khuôn mặt nàng trái soan với mái tóc dài và dáng người thon thả. Chưa bao giờ chàng thấy một người con gái nào lại đẹp đến như thế. Cũng chưa bao giờ chàng nghe được một giọng nói nào lại dịu dàng mà thấm vào lòng người đến như thế. Đặc biệt khi nàng cười, đôi môi chúm chím, hai mắt như hai hạt nhãn long lanh, còn hai gò má thì ửng hồng, càng làm cho chàng thêm đắm say, mê mẩn. Chàng hoàn toàn không hay biết nàng có dấu hiệu của bệnh phong đã thể hiện một phần qua hai gò má ửng hồng. Còn nàng cũng nhận thấy ngay ở chàng một vẻ đẹp nam nhi khoẻ mạnh và một tấm lòng thật hào hiệp. Chàng lại đang trẻ tuổi, học rộng tài cao, và điều ấy đã làm cho nàng càng cảm phục chàng thêm gấp bội phần.

Thế rồi, cái gì phải đến thì cũng đã đến. Cơm nước xong, hai người lại ngồi tiếp tục chuyện trò, rồi ước hẹn trăm năm với nhau. Dưới ánh đèn bập bùng, họ nhìn nhau đắm đuối. Rồi chàng ôm ghì lấy nàng. Còn nàng thì gục mãi khuôn mặt kiều diễm vào một bên ngực chàng. Chàng dìu nàng lên giường. Cuộc ân ái diễn ra thật vô cùng nồng nàn, dường như trời đất sinh ra là để họ giành riêng cho nhau vậy.

Sáng sớm hôm sau, cơn mưa cũng đã ngớt. Nàng khẽ gỡ tay chàng rồi lén dậy thổi cơm. Trong thâm tâm, nàng hiểu rằng đây là bữa cơm cuối cùng giữa hai người, bữa cơm vĩnh biệt. Còn chàng thì dùng dằng chưa muốn dời chân, nhưng sau khi nghe nàng nói, chàng cũng bịn rịn, rồi cất bước lên đường.

Đúng ra, chàng có thể ở lại thêm một vài ngày nữa, vì việc vào trường thi cũng chẳng đến nỗi phải quá vội vàng. Thế nhưng, cả hai người đều hiểu rằng họ không thể ở thêm bên nhau. Làng nước ra đây mà trông thấy thì họ còn có mặt mũi nào. Ấy là chưa kể nếu có ai đó định làm to chuyện ra thì sẽ rầy rà cho cả hai người.

Khi chia tay, họ lại nói với nhau những lời ước hẹn, và cuộc đưa tiễn diễn ra thật cảm động vô cùng.

*

*         *

Còn lại một hình một bóng, bỗng nhiên nàng cảm thấy vô cùng buồn bã, thất vọng. Nàng đóng chặt cửa rồi ngồi khóc ròng rã suốt mấy ngày liền. Nếu trước kia chỉ là buồn tủi thì giờ đây, nàng thực sự đau xót cho duyên phận của mình. Nàng hiểu rằng lời hẹn ước với chàng là hoàn toàn không thể thực hiện được.

Nhưng cùng với nỗi đau, những cảm giác của nàng lại bừng bừng sống dậy, và ý nghĩ của nàng lại nương theo những cảm giác ấy. Nàng thấy chàng đối với nàng hoàn toàn chân thực, không có chút giả dối nào. Chàng cũng chẳng huyênh hoang tự vỗ vào ngực mình: "Quân tử nhất ngôn", mà chỉ nhẹ nhàng nói rằng dù đỗ dù không thì chàng cũng sẽ quay trở lại đây, rồi cưới nàng làm vợ.

Ôi!  Cầu mong sao cho chàng đỗ đạt! Sau ngày cưới, nàng sẽ theo chàng lên Kinh đô nhận chức. Rồi sẽ là nhà cửa, con cái đề huề. Dù ở Kinh đô hay ở trấn, ở phủ, thì đi đến đâu, nàng cũng được mọi người kính trọng, nể vì, và cha mẹ nàng, rồi cũng được vẻ vang với làng với nước.

Còn nhược bằng nếu chàng không đỗ, thì với danh phận cử nhân, dần dà rồi chàng cũng được bổ dụng. Trước có thể là hàng chức sắc ở phủ, ở huyện, còn sau sẽ là tri huyện hay một chức quan nhỏ ở Kinh đô... Dù thế nào thì nàng cũng vẫn có nhà cửa, con cái đề huề. Rồi thỉnh thoảng nàng mang con về thăm cha mẹ, hoặc mời cha mẹ lên chơi. Cha mẹ nàng hẳn sẽ được hả hê, sung sướng trong lòng lắm.

Nhưng chỉ vừa nghĩ đến đấy thôi thì nàng đã lại thổn thức, rồi nước mắt tuôn rơi. Nàng khóc than cho duyên phận của mình! Ôi! Làm sao nàng có thể đang tâm dấu bệnh tật của mình với chàng đến sau ngày cưới? Cho dù lúc ấy, chàng có không ruồng rẫy hắt hủi nàng đi nữa, thì nàng cũng cảm thấy áy náy và sẽ ân hận đến suốt đời. Nàng không thể sinh cho chàng những đứa con mà sau này lớn lên chúng lại mắc phải chứng bệnh như nàng. Nàng cũng không thể chung đụng mãi với chàng để rồi cuối cùng sẽ gây cho chàng nhiễm phải cái căn bệnh quái ác! Hỡi trời cao đất dày, cớ sao lại nỡ đầy đoạ nàng cho đến nông nỗi ấy!

Thôi thì đành gác lại câu chuyện chồng con, coi như nàng không có phúc có phần được hưởng. Và cũng đành gác lại, không thể báo hiếu, không thể làm vẻ vang để đền đáp lại, cả công sinh thành dưỡng dục của mẹ cha.

Chợt nhớ đến lời ông thầy thuốc nói về căn bệnh sau này, nàng cảm thấy vô cùng kinh hãi, chân tay rụng rời. Đang mặt mũi xinh đẹp thế này, đang thân thể, chân tay đầy đặn, trắng trẻo thế này, mà sao đến lúc mặt mũi lở loét, thân thể chân tay cũng lở loét, và các ngón chân ngón tay thì bị cụt lủn đi? Không! Không thể nào như vậy được! Đau đớn thể xác nàng còn có thể chịu đựng, chứ một thân hình gớm guốc đến như thế, thì nàng thà chết đi còn hơn!

Trong suốt mấy ngày, nàng tỉnh rồi lại khóc, khóc rồi lại mê. Và cứ như thế, cho đến lúc nàng cảm thấy sức cùng lực kiệt không thể sống được nữa, và nàng cũng không còn muốn sống thêm nữa, thì nàng lê bước lại phía cửa sổ, mở cửa, rồi nhìn mãi theo con đường mà chàng đã ra đi. Trong lòng nàng lại rộn lên bao nhiêu nỗi niềm và đau xót. Nàng thương cho sự lẻ loi đơn chiếc của chàng, khi nàng đã vĩnh viễn rời bỏ thế gian này. Nàng lại thương cho chàng phải đường xa lặn lội, rồi không biết có công thành danh toại được hay không?

Chắp hai bàn tay vào nhà, nàng gục đầu xuống bên cửa sổ, hướng về phía Kinh đô, nơi chàng đang có mặt để ứng thí, nàng thầm nói với chàng những lời vĩnh biệt. Rồi nàng chúc cho chàng vạn sự bình yên. Nàng cầu mong cho chàng lần này thi đỗ đại khoa. Nàng xin chàng đừng bao giờ quên mối tình đằm thắm và tấm lòng thuỷ chung son sắt của mình. Nhớ lại cái đêm mưa gió bão bùng, trên chiếc giường nhỏ, nàng đã trao cho chàng cả tấm tình trong trắng, trọn vẹn, thì nàng nở một nụ cười mãn nguyện, rồi từ từ khép vành mắt lại. Nàng đã về với cõi vĩnh hằng.

Khi người nhà, theo định kỳ, mang gạo và thức ăn đến cho nàng, thì thấy nàng đã chết. Người này chạy về nhà báo cho ông bà và các con cháu biết.

Mọi người than khóc hồi lâu, rồi đi lo liệu chôn cất cho nàng. Ngôi mộ được đặt ngay trên miếng đất mà nàng đã ở, còn nhà thì dỡ bỏ đi. Từ lúc khâm liệm cho đến khi thắp nắm hương cuối cùng lên trên nấm mộ, cả cha mẹ cho đến tất cả người thân, ai ai cũng đều đinh ninh rằng nàng chết là do trong người sẵn mang bệnh trọng, nên sức yếu và đã bị cảm mạo bất ngờ... Tuyệt nhiên, không một ai nghi ngờ, không một ai hay biết, rằng nàng đã có một mối tình trong đời. Mối tình với chàng trai trẻ đã đỗ cử nhân và đang lên đường đi thi Hội. Một mối tình mà lẽ ra là thật tuyệt vời, nhưng trên thực tế thì lại đầy tuyệt vọng!

*

*        *

Chàng cử nhân trẻ tuổi, khi bước chân ra khỏi nhà nàng, lúc đầu còn có phần bịn rịn bùi ngùi, nhưng sau đó thì nhẹ bước lâng lâng. Dậy lên trong lồng ngực chàng, khiến cho con tim phải thổn thức, ấy là nỗi vui mừng khấp khởi khôn nguôi: Tưởng gặp phải cơn mưa mà hoá ra lại có được duyên trời. Chân chàng soải những bước dài, không nhanh mà cũng không chậm, còn miệng thì lẩm bẩm khấn khứa thành lời: "Kính xin trời đất thánh thần, xin phúc ấm tổ tiên ông bà phù hộ độ trì cho con lần này có tên trên bảng, dẫu chẳng khôi nguyên, á nguyên, thì chí ít cũng khỏi phụ lòng mong ước của người con gái mà từ nay con đã hẹn hò"

Chàng cử nhân chưa có vợ thật, phần vì bận học hành thi cử, phần vì chưa có ai để lọt mắt xanh, nên khi thấy nàng, chàng đã đem lòng yêu thực sự. Lúc hẹn ước rồi thề nguyền, chàng đã nói ra như vậy với nàng. Còn bây giờ, trong tâm trí chàng, trên đường đi hay ở nhà trọ, hình bóng nàng vẫn luôn luôn hiện lên, một cách thật rõ nét. Nhất định chàng sẽ cưới nàng. Nhất định chàng sẽ ăn đời ở kiếp, chia ngọt sẻ bùi cùng với nàng.

Tuy nhiên, đôi khi chợt nghĩ rằng mình sẽ không thi đỗ, thì lập tức chàng cảm thấy tái tê. Chàng ái ngại cho mình thì ít mà ái ngại cho nàng thì nhiều. "Nhưng không sao! - Chàng nghĩ - Dẫu thế nào thì nàng cũng vẫn là chỗ dựa, là niềm an ủi của ta kia mà!" Nàng đã nói như thế, và chàng lại càng cảm thấy yêu mến nàng hơn. Một người vợ đẹp, lại đức hạnh vẹn toàn, thì làm sao không đánh đổi một sự nghiệp được nhỉ? Chàng tự mỉm cười, cho mình, và cho tất cả các bậc mày râu khác trên đời.

Khi bước chân vào trường thi thì chàng cảm thấy mình hoàn toàn bình tâm, tĩnh trí, và lại có phần còn phấn khởi thêm nữa, vì ít  nhất chàng đã không phải  lo lắng đến chuyện đỗ hay trượt. Đối với chàng, dù đỗ hay trượt thì cũng chẳng có điều gì hệ trọng cho lắm.

Cả bốn trường thi, chàng đều làm bài một cách thoải mái, không gò gẫm. Nghĩ chín chắn đâu ra đấy rồi, chàng mới bắt đầu viết. Mà viết cũng thật rõ ràng, phân minh. Đến khi đọc lại, chàng vẫn cảm thấy đầu óc mình tỉnh táo, nhận ra ở các bài, ý tứ đều đầy đủ, mạch lạc, còn hành văn thì trôi chảy, lưu loát. Riêng trường thi thơ, phú, thì chàng cảm thấy đặc biệt hài lòng. Cảm hứng cứ như tự đến với chàng. Nó tràn trề, lai láng, tựa như chàng chỉ cần vảy bút là đã thành thơ, thành phú rồi. Lúc ấy, chàng nhớ lại, chính là lúc hình ảnh Nàng đang hiện về một cách rõ nét nhất.

Cho hay, khi làm thơ làm phú, dẫu là đang thi cử ở nơi trường ốc, thì việc trong tim có mang theo hình bóng của một người đẹp, quả là vô cùng hệ trọng, nó có ích hơn tất cả các điều khác cộng lại.

Sau cuộc thi, chàng bỏ đi ngao du đâu có ở Kinh đô và các vùng lân cận. Về nhà hay về gặp nàng bây giờ thì chàng không dám. Tốn tiền, chậm ngày giờ xem yết bảng, và cái chính là, về thì biết ăn nói thế nào? Dẫu có cảm thấy bài làm của mình cũng không đến nỗi, nhưng chàng vẫn chưa dám tin chắc là mình sẽ đỗ. Chàng tự ti, nghĩ rằng thiên hạ này thiếu gì người tài, lại nữa, ở nơi thôn quê học với ông thầy hàng tỉnh, thì khó lòng mà địch nổi với những anh tài ở đất Kinh đô. Cứ xem cái vẻ huyênh hoang của họ khi đến trường thi thì cũng đủ rõ. Họ làm như thể đã đỗ thật không bằng. "Chắc là họ đã tìm cách đút lót trước cho quan chấm thi rồi, cho nên mới có cử chỉ như thế? - Chàng chợt nghĩ, nhưng rồi lại chép miệng - Thôi mặc kệ họ! Nếu ta không đỗ, thì vẫn còn nàng kia mà!"

Hôm yết bảng và làm lễ xướng danh, chàng từ nhà trọ đi ra, với tâm  trạng hoàn toàn dửng dưng, không vui không buồn mà cũng chẳng háo hức. Chàng thấy một đám rất đông, gồm đủ các hạng người, đang nhộn nhạo lên ở chỗ treo bảng. Được một lúc thì thấy từ đám đông ấy có sự chen lấn xô đẩy và tiếng la hét om sòm. Chàng không dám chen vào nhưng thấy từ đấy đi ra một vài người có vẻ mặt hớn hở, vênh vang. Lại thấy nhiều người khác nữa, khuôn mặt rúm ró, đau khổ, trông đến tội nghiệp. "Ôi! Thi với cử - Chàng nghĩ - Thật phù du là con đường công danh sự nghiệp. Thật phù du là cái kiếp người!".

Chàng chưa kịp xem bảng yết, thì đã đến lễ xướng danh, nên vội đến để nghe. Chàng thấy cứ mỗi khi tiếng loa gọi đến tên ai, lại thấy có tiếng la hét và một vài người nhảy lên câng câng, trông rất tức cười. Vô khối người khác cũng nhấp nhổm. Chán quá, đã toan bỏ ra ngoài cho khỏi nóng bức thì chàng chợt nghe thấy tiếng gọi tên mình. Cứ ngỡ là tên trùng với tên của ai đó, hoặc giả không phải tiếng loa mà chỉ là tiếng gọi thường, nên chàng lắng tai nghe, và mãi đến lần thứ ba, mới dám  đáp to lên: "Bẩm có". Rồi chàng chen lên, đứng vào hàng những người đã đỗ đạt. Tiếng loa vẫn tiếp tục, được một lúc sau nữa thì dừng...

Chàng không được chọn thi Đình, nhưng cũng chẳng cảm thấy buồn, mà trái lại, còn cảm thấy vui nữa. Sau khi vào cung nhận mũ áo vua ban, rồi dự yến tiệc của bộ Lễ, chàng trở về nhà trọ, cảm ơn chủ nhà, và thu dọn đồ đạc. Khi có lính hộ tống đến, chàng ngồi lên võng, để họ rước đi. Cái lệ đặt ra là phải thế, dẫu chàng có từ chối thì cũng không được kia mà.

"Ừ thì vinh qui - chàng nghĩ - nhưng trước hết, hãy về thăm nàng cái đã". Chàng chỉ cho những người lính đi theo con đường cũ, còn trong lòng thì khấp khởi mừng thầm. Tuy nhiên, đến những chỗ lội hoặc đoạn đường vắng vẻ, thì chàng bảo những người khiêng võng dừng lại, để chàng xuống đi bộ.

*

*         *

Khi tốp người vào đến cánh đồng có ngôi nhà của nàng thì chàng nhìn mãi mà chẳng thấy nhà đâu. Đi đến tận nơi, thấy trên nền đất cũ, chỉ còn lại một ngôi mộ mới đắp. Chàng rùng mình, chợt nghĩ đến sự chẳng lành. Tuy nhiên, chàng vẫn cố chờ đến khi trong làng có người đi ra. Chàng vẫy tay lại hỏi, thì người đó đáp: "Cô ấy chết rồi!", khiến cho chàng vô cùng choáng váng tưởng như có tiếng sét đánh ở bên tai. Chàng liền đến bên nấm mộ, vật vã kêu khóc. Vừa khóc chàng vừa kể lể, gọi mãi tên nàng. Những người lính và người làng đều cảm thấy bùi ngùi. Họ xúm lại an ủi, khuyên can, rồi người làng dẫn đường cho chàng, trở vào nhà ông họ Nguyễn.

Đến nơi, vừa trông thấy ông lão từ trong nhà bước ra cổng đón, chàng đã quì xuống xụp lạy, theo đúng nghi lễ của con rể đối với bố vợ, khiến cho ông lão, vừa ngạc nhiên, vừa xúc động, nước mắt tuôn trào.

Thấy sự lạ, anh em họ hàng lúc ấy cũng lục tục kéo đến. Khi chủ khách tề tựu trong nhà, chàng kể lại đầu đuôi câu chuyện, từ lúc mắc mưa được nàng giúp đỡ, cho đến khi hai bên hẹn ước với nhau tính chuyện trăm năm.

Ông lão vừa nghe, vừa bùi ngùi trong dạ. Tuy nhiên, sau đó ông nói ông không dám nhận chàng làm con rể, vì ông nghĩ, chàng bây giờ đường đường là một vị đại khoa, còn con ông thì đã chết rồi. Khi ông lão nói xong, chàng bèn đứng ngay dậy, trịnh trọng:

-Thưa cha mẹ cùng các ông các bác trong anh em, họ hàng. Các cụ ngày xưa đã dậy: "Một ngày nên nghĩa, đoạn đường nên quen", thật đúng với hoàn cảnh của con lúc bấy giờ. Lại đến câu: "Lời nói như dao chém đá", thì con nghĩ, đời đời con cũng chẳng dám quên. Dẫu bây giờ cô ấy đã khuất rồi, nhưng xin cha mẹ vẫn cho con được nhận là vợ, để lo liệu các việc về sau cho cô ấy.

Ông lão vừa nghe, vừa lấy khăn chấm dòng nước mắt, còn bà lão thì oà lên, nức nở tự bao giờ. Anh em họ hàng, ai nấy cũng đều cảm thấy ngậm ngùi, rồi mỗi người mỗi câu, khuyên ông bà hãy nên nhận chàng làm con rể. Trong lời nói của mỗi người, chẳng mấy ai không nhắc đến câu: "Gia đình chúng tôi xin đội ơn quan tân khoa đã có tấm lòng thương yêu, độ lượng..."

Ngay chiều hôm ấy, ông già họ Nguyễn cho dựng rạp, mổ lợn... để mời anh em và họ hàng, làng xóm đến dự, chứng kiến cho lễ nhận rể của ông. Lại sai người nhà mang lễ  vật ra tận ngoài mộ, để chàng rể làm lễ tế vợ của mình. Chàng mặc áo trắng, chít khăn  trắng, rồi hành lễ theo đúng phong tục và nghi thức đòi hỏi. Còn trên bài vị của nàng, thấy ghi rõ dòng chữ: "Vợ chính thất của quan tân khoa Tiến sĩ..."

Làng nước được chứng kiến hai cuộc hành lễ liền, ai nấy cũng đều trầm trồ khen ngợi. Thật là trọn nghĩa vẹn tình. Trên thế gian hỏi dễ mấy ai có được tấm lòng thương yêu và độ lượng như vị quan tân khoa trẻ tuổi này?

Từ đấy trở đi, các việc đến với quan tân khoa cứ tuần tự như tiến. Chàng về quê vinh qui bái tổ, rồi lên Kinh đô nhận chức. Đường quan tước thăng tiến dần. Tuy nhiên chàng vẫn giữ trọn đạo con rể đối với hai ông bà họ Nguyễn.

Ba năm sau, chàng từ nhiệm sở trở về để cải cát cho người vợ xấu số. Chàng xuất tiền ra xây một ngôi tháp lớn ở ngay trên nền đất cũ, rồi cho đặt xương cốt của vợ mình vào. Xung quanh tháp chàng định cho đắp hàng chữ nổi nhưng sau nghĩ thấy làm như thế e có người dị nghị, chắc không thuận, nên lại thôi.

Chàng vẫn giữ mãi bổn phận con rể với hai ông bà, cho đến lúc họ qua đời, rồi cải cát, cúng giỗ. Còn ngôi tháp thì đứng đó, thi gan cùng tuế nguyệt, là chứng tích muôn đời cho một mối tình thuỷ chung, son sắt, xứng đáng để cho mọi thế hệ phải tưởng nhớ, khâm phục.

Dân chúng trong vùng quen gọi đó là tháp Báo Ân. Tên ấy dù có thể chưa chính xác và cũng không thấy ghi ở các mặt trên tháp, nhưng đã được khắc sâu vào mãi trong tâm trí mọi người, từ thế hệ này đến các thế hệ khác...

*

*         *

Vũ Trinh (1759 - 1828), một vị quan chức dưới cả hai thời Lê mạt - Nguyễn sơ, đồng thời cũng là một tác giả văn học lớn, đã ghi lại câu chuyện này trong tập Lan trì kiến văn lục của ông. Tuy nhiên, ông mới chỉ kể lại một cách sơ sài. Riêng đoạn chàng cử nhân đỗ đại khoa, thì ông lại viết, đại ý: Bài vở của chàng lẽ ra không được đỗ, nhưng linh hồn cô gái (lúc ấy đã chết) hiện về, nhận là vợ của chàng, rồi xin với quan chấm thi hãy thương tình mà cho đỗ. Quan nể tình, nghe theo...

Quan chấm thi nói lại sự thể ấy với chàng tân khoa. Và chắc là do chàng được đỗ nhờ âm phù của cô gái, nên sau đó mới "tạ ơn" bằng cách: đến nhận làm con rể, làm lễ tế, cải táng, xây tháp v.v...

Phải chăng như thế đã là đúng với hiện thực? Chúng tôi nghĩ, có lẽ không phải như vậy. Chuyện âm phù làm sao có được bằng chứng? Lại nữa, tình tiết này thấy nhan nhản trong các sách vở thời trước viết về thi cử, cả sách Ta lẫn sách Tầu, nên chúng tôi nghĩ rằng đó chỉ là  một cách lý giải chuyện đỗ đạt theo quan niệm của người xưa mà thôi. Ngay cả các tác giả tài danh của thời hiện đại, như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, cũng do ảnh hưởng của quan niệm ấy, nên đã kể lại một cách khá tự nhiên những tình tiết này trong một vài tác phẩm viết trước cách mạng (1945).

Nhưng dẫu sao thì cũng rất có thể, câu chuyện âm phù này là có thực, ai mà biết được? Vậy chúng tôi cứ trình bày lại những kiến giải của Vũ Tiên sinh để bạn đọc tự mình suy ngẫm và kết luận.

Việc thể hiện lại toàn bộ câu chuyện theo một hướng khác, như chúng tôi đã làm, có thể cũng chỉ là một cách lý giải. Suy xét như thế nào là tuỳ ở bạn đọc. Tuy nhiên chúng tôi cũng cho rằng trong câu chuyện này, chuyện thi cử đỗ đạt chỉ là thứ yếu, còn chuyện con người, chuyện đối nhân xử thế mới thực sự là quan trọng.

0