Truyền thuyết về Việt quốc công Lý Thường Kiệt
Lý Thường Kiệt là nhà chính trị kiệt xuất, nhà quân sự thiên tài, đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp chấn hưng đất nước và giữ vững nền độc lập dân tộc. Đức độ và tài năng của Ngài là một tấm gương sáng ngời để các thế hệ Việt Nam mãi mãi noi theo. Theo sách Việt điện u linh thì Lý Thường Kiệt ...
Lý Thường Kiệt là nhà chính trị kiệt xuất, nhà quân sự thiên tài, đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp chấn hưng đất nước và giữ vững nền độc lập dân tộc. Đức độ và tài năng của Ngài là một tấm gương sáng ngời để các thế hệ Việt Nam mãi mãi noi theo.
Theo sách Việt điện u linh thì Lý Thường Kiệt là người phường Thái Hoà, ở bên phải kinh thành Thăng Long, thời Lý. Mãi đến gần đây, quê quán của Ngài mới được xác minh cụ thể thêm, nhờ vào việc nhân dân làng Bắc Biên còn giữ được một quả chuông lớn đúc năm Canh Ngọ (1690), nay treo ở chùa trong làng. Trên chuông có khắc bài minh nói rõ quê gốc của Lý Thường Kiệt là làng An Xá (trong nội thành Thăng Long), rồi sau đó chuyển đến Cơ Xá. Cơ Xá đổi thành Phúc Xá rồi hợp nhất với bãi Trung Hà. Cho đến khi bãi Trung Hoà bị lở hết, nhân dân lại dời về Bắc Biên, nằm ven sông Hồng, ở phía bắc chân cầu Long Biên ngày nay, cách nội thành khoảng 4 cây số.
Cha của Lý Thường Kiệt là Lý An Ngữ, làm quan triều Lý Thái tổ đến chức Sùng ban lang tướng. Lý Thường Kiệt được nối nghiệp cha, ngay từ lúc còn ít tuổi đã được đưa vào cung Long Đức ở ngoại thành để hầu cận Thái tử Phật Mã tức Lý Thái tông sau này, với chức "Hoàng môn chi hậu".
(Xem thêm: Thái tổ Lý Công Uẩn)
Không quản là chức danh nhỏ mọn mà ngay từ thời ấy, nhiều thiên tư của Ngài đã được bộ lộ, khiến nhà vua tương lai rất mực hài lòng. Ngoài ra, Ngài còn là người đẹp trai và có phong tư tuấn nhã, nên đã nổi tiếng khắp kinh thành Thăng Long vào lúc bấy giờ.
Khi Lý Thái tông lên ngôi, Ngài được phong "Nội thị sảnh đô tri", tức là giám sát các công việc xảy ra trong hoàng cung. Điều ấy nói lên Ngài là người trung tín, được nhà vua tin cẩn ngay từ khi còn ít tuổi.
Quả vậy, tính tình của Ngài khẳng khái cương trực, lại biết giữ gìn lễ tiết và làm việc cần mẫn siêng năng, xét đoán các việc công minh, nên được nhà vua càng nể trọng thêm, rồi thăng lên chức Đình uý sứ, trông coi các việc về hình án trong triều. Cuối năm Nhâm Ngọ (1042) Ngài được nhà vua uỷ nhiệm cùng một số đại thần khác soạn thảo bộ "Hình thư". Đó là bộ luật Hình sự đầu tiên của nước ta.
Lý Thái tông thăng hà. Lý Thánh tông nối ngôi (1054), Ngài được phong là Hiệu uý Thái bảo. Ngài giữ chức một cách cung cẩn, trung tín, không để xảy ra sai sót điều gì. Lý Thánh tông tin tưởng, giao cho Ngài "Tiết việt" tức là thay mặt nhà vua, đi kinh lý các sự việc xảy ra trong hai quận Thanh Hoá, Nghệ An và năm châu, ba nguồn kề cận đó, thuộc các bộ tộc người thiểu số. Sau mấy tháng không quản đường xa, lại thêm leo đèo vượt suối mệt nhọc, Ngài trở về, công việc hoàn thành mỹ mãn.
Tháng 2 - 1069, Lý Thánh tông thân làm tướng Thống lãnh mang đại quân đi đánh Chiêm Thành vì quân lính nước này thường hay ra quấy phá biên giới. Ngài được phong chức Đại tướng, dẫn đạo quân tiên phong đi đánh mở đường. Do Chiêm Thành chuẩn bị từ trước và đã phòng thủ chắc chắn, nên quân ta đánh mãi không được. Lý Thánh tông rút quân về châu Cư Liêm để nghe ngóng nội tình. Sau khi có lính cấm vệ mang thư của Nguyên phi Ỷ Lan nhiếp chính tới, báo tin Kinh đô vẫn vững vàng, lòng dân vẫn hoà hợp, nên nhà vua cho quân quay trở lại quyết chiến với Chiêm Thành. Lý Thường Kiệt dốc xuất binh lực, xông lên phá tan các tuyến phòng ngự của đối phương, bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ cùng 5 vạn người, cả lính lẫn dân.
Chế Củ cắt đất dâng ba châu: Địa Lý (nay là huyện Lệ Ninh - Quảng Trị), Ma Linh (Bến Hải - Quảng Bình) và Bố Chính (Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá - Quảng Bình) để chuộc tội, xin được tha về.
Sau trận đại thắng, Lý Thường Kiệt được phong Phụ quốc Thái phó kiêm các chức Chử trấn tiết độ, Đồng trung thư môn hạ, Thượng trụ quốc, Thiên tử nghĩa đệ, Phụ quốc Thượng tướng quân, tước là Khai Quốc công. Đó là những tước vị quan trọng, được thay mặt nhà vua trong nhiều việc quốc gia đại sự, từ việc quân cơ đến việc nội trị. Lại được nhận là em kết nghĩa của nhà vua (Thiên tử nghĩa đệ) thì thực là một vinh dự hiếm có!
Tuy nhiên, đó còn là trách nhiệm, lại là sự ký thác của nhà vua mà Lý Thường Kiệt phải gánh vác vì nước vì dân. Và qủa nhiên, Ngài đã không phụ lòng tin tưởng ấy của nhà vua, như càng về sau càng thấy rõ.
*
* *
Tháng giêng năm 1072, Lý Thánh tông băng ở điện Hội Tiên, thọ 50 tuổi, tức là ba năm sau chiến thắng Chiêm Thành và Lý Thường Kiệt được phong thưởng cùng với nhiều người khác. Lý Nhân tông lên kế vị lúc ấy mới có 7 tuổi. Đã từng là Nhiếp chính nên mọi công việc triều chính lúc bấy giờ đều do bà Linh Nhân Hoàng thái phi, và ngay sau đó là Linh Nhân Hoàng thái hậu, tức Ỷ Lan phu nhân, mẹ đẻ của Lý Nhân tông, thao túng.
Cũng trong năm 1073, do nắm quyền hành tuyệt đối mà bà ta, tất nhiên là dưới danh nghĩa nhà vua, đã bắt giam rồi bức tử Dương Thái hậu (vợ chính thất, tức Hoàng hậu của Lý Thánh tông) và 76 cung nữ để chôn theo lăng Thánh tông! Và Thái sư Lý Đạo Thành, tức Tể tướng, người đứng đầu hàng các quan giúp vua trông coi việc triều chính, cũng bị cất chức cho vào Trấn thủ tận Nghệ An...
Trong tình trạng như vậy, nếu một người giữ nhiều trọng trách như Lý Thường Kiệt mà tỏ ra ham hố quyền lực thì ắt sẽ bị thanh trừng ngay không thương tiếc. Tuy nhiên, Lý tướng quân đã không hề tỏ ra nao núng, đúng như câu thành ngữ xưa: "Cây ngay không sợ chết đứng!". Ngài lẳng lặng thi hành trách nhiệm của mình mà không tham gia vào các vụ tranh giành quyền lực.
Từ trước đến nay Ngài vẫn nổi tiếng trong giới quan trường là người khoan hoà chính trực, bản thân sống cần kiệm giản dị, được cả dân chúng lẫn giới quan chức kính nể. Ngài không xu thời, không kết bè đảng, không vun vén quyền lợi cho bản thân và cho họ hàng nhà mình. Đối với Ngài chỉ có công việc, tức việc nước, việc dân, mới là hệ trọng. Và Ngài đã đem hết tài năng và sức lực ra để phấn đấu cho mục đích ấy, còn mọi thứ khác thì Ngài đều xem thường.
Trong trường hợp ấy, lẽ dĩ nhiên những người ham hố quyền lực khi nắm được quyền hành tuyệt đối, thì họ cũng chẳng dại gì mà hạ bệ Ngài và những người như Ngài, bởi như vậy chỉ có hại cho họ mà thôi, cả về danh tiếng cũng như trên thực tế. Thử hỏi, nếu một người như Ngài mà bị phế bỏ thì quốc gia còn gì là thể thống nữa? Và khi gặp chuyện đại sự thì sẽ lấy ai ra để gánh vác?
Quả nhiên bà Linh Nhân Hoàng thái hậu, quyền biến và khôn ngoan có thừa, đã không động chạm gì đến Ngài thật. Hơn nữa bà ta còn khuyến khích Ngài làm nhiều việc có lợi cho sự cai trị của mình.
Lý tướng quân, lẽ dĩ nhiên cũng hiểu rõ lòng dạ của bà Hoàng thái hậu. Ngài không làm điều gì khinh suất để bà ta mất lòng, còn bản thân vẫn luôn luôn kiên trì phương châm "hiến việc tốt, can việc xấu" của một bề tôi trung thành và công minh chính trực.
Sau khi Thái sư Lý Đạo Thành bị bãi chức, đương nhiên Ngài trở thành một vị quan đầu triều, nhưng chưa được phong. Nếu phải một người xu thời thì lập tức họ sẽ vào hùa với Hoàng thái hậu để mau được thăng chức, nhưng Lý tướng quân đã không làm như thế. Trái lại, Ngài còn làm một việc xưa nay chưa từng có, nhưng rất hợp đạo lý và được nhiều người đồng tình.
Ấy là việc từ trước đến nay, các đại thần dù già dù trẻ, khi vào chầu Vua, nhất nhất đều phải quỳ mọp trước bệ rồng. Đây là một "điển lệ", một "phép trời", là biểu hiện quyền hành tuyệt đối, tối thượng của "Thiên tử" đối với tất thảy mọi thần dân trong nước.
Đứng ngoài trông vào, trường hợp nhà vua già mà các bề tôi trẻ thì còn khả dĩ coi được. Nhưng trong trường hợp ngược lại, tức nhà vua còn trẻ, thậm chí còn quá trẻ, mà bề tôi lại có người già lụ khụ thì thật là trớ trêu! Đương nhiên như thế là trái với đạo lý truyền thống "kính lão đắc thọ" của dân tộc, mà ai ai cũng đều nhận thấy, nhưng lại chưa ai có gan dám nói đến chuyện đó trước cả triều đình!
Lý tướng quân lúc ấy chưa phải đã già. Ngài mới đang còn ở độ tuổi tráng niên sung mãn, nhưng nhìn cảnh nhiều lão thần có công từ các đời vua trước, nay phải quỳ mọp trước mặt nhà vua tí hon mới có 7, 8 tuổi thì Ngài cảm thấy chạnh lòng. Vả lại, sự kính trọng về hình thức đâu đã phải là sự kính trọng từ trong thâm tâm? Hơn nữa, nếu nhà vua bé tí chưa đủ nhận thức, lại coi đây là trò đùa và từ đấy dung dưỡng thêm tính tàn bạo và thói hống hách sau này, thì thật là tai hại cho dân, cho nước!
Sau khi cân nhắc kỹ càng, Lý tướng quân làm sớ tấu trình xin cho các vị công thần cao tuổi mỗi khi vào chầu thì được chống gậy, được ngồi ghế và không phải quỳ.
Lời tấu trình của Ngài được nhà vua chấp nhận. Hơn thế nữa, Linh Nhân Hoàng thái hậu còn lấy lòng mọi người thêm bằng cách sai thị vệ lấy ghế cho tất cả các quan đều được ngồi và tặng riêng cho các lão thần mỗi người một chiếc gậy trúc!
Dẫu sao thì đấy mới chỉ là một ví dụ nhỏ, cũng khá điển hình, để nói lên Lý Thường Kiệt đã là nhà cải cách nền "hành chính quốc gia" ngay từ thuở xa xưa. Sự suy nghĩ của Ngài đối với vận hội, vận mệnh của đất nước thực ra còn to lớn và có ý nghĩa hơn gấp nhiều lần. Ngài là nhà chính trị nhìn xa thấy rộng nhất trong số những người đương thời, và không chỉ là đương thời.
Nhận thấy sự học lúc bấy giờ đã phát triển ra nhiều tầng lớp nhân dân trong nước, vậy mà nhiều việc công lại làm không chạy. Nhiều viên quan lại ở địa phương, thậm chí cả ở triều đình trung ương, lại không được học hành gì cả. Họ không có tri thức, nên xử đoán nhiều việc chỉ theo cảm tính của mình. Ngay cả sự bàn bạc công việc giữa triều chính, nhiều vị đại thần cũng tỏ ra lúng túng, không biết diễn đạt thế nào cho trôi chảy. Thật đúng như sách đã nói: "Nhân bất học bất tri lý", và tình trạng này nếu kéo dài, thì chỉ làm cho mọi việc ngưng trệ và đất nước suy yếu đi mà thôi.
Sau khi cân nhắc, Lý tướng quân đã làm tờ sớ, tấu trình với nhà vua hết mọi đường lợi hại, rồi xin cho mở khoa thi "Minh tinh bác học" và "Nho học tam trường". Khoa thi trên để chọn người tài giỏi trong nước ra đảm nhiệm các công việc quan trọng trong triều ngoài nội, còn khoa thi dưới là chọn người thực hành các công việc giấy tờ, sổ sách tại các địa phương.
Lời tấu trình này cũng ngay lập tức được chuẩn y, để thay cho cách tuyển dụng "cha truyền con nối" và dùng tiền "mua quan tiến chức" trước đấy.
Tháng 2 năm Ất Mão (1075) nhà vua xuống chiếu cho mở cả hai khoa thi này, và Lê Văn Thịnh, chàng trai vùng Kinh Bắc đã đỗ đầu trong kỳ thi tuyển "Minh tinh bác học", tức là người mở đầu cho nền khoa bảng của nước ta.
Người Chiêm Thành, sau lần thất bại phải cắt đất (1069) vẫn ấm ức nuôi ý chí phục thù. Lực lượng của họ lại mạnh dần lên. Nhận thấy Đại Việt có sự lục đục sau cái chết của Lý Thánh tông, quân Chiêm Thành lại ra cướp phá biên giới (1074), và ở phía Bắc, quân Tống cũng đang chuẩn bị lực lượng để kéo sang.
Trước tình thế ấy, bà Linh Nhân Hoàng thái hậu đã có sự thay đổi về triều chính. Lý Đạo Thành bị biếm chức vào Nghệ An nay được triệu về Kinh làm Thái phó bình chương quân quốc trọng sự (1074). Và năm sau (1075), đầu tháng 8, Phụ quốc Thái phó Lý Thường Kiệt lại dẫn quân đi đánh Chiêm Thành.
Thấy Lý Thường Kiệt dẫn quân đến, quân Chiêm Thành liền rút vào cố thủ. Nhận thấy không nên để hao tổn lực lượng nhiều vào Chiêm Thành mà chủ yếu là phải bảo toàn lực lượng để đối phó với nhà Tống ở mặt bắc, nên Lý Thường Kiệt cho lui binh, sau khi đã củng cố và tăng cường thêm cho lực lượng ở lại phòng bị.
Để vua Chiêm Thành phải từ bỏ ý đồ đòi lại đất, Lý Thường Kiệt cho hoạ địa đồ hình thế núi sông ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính. Ngài đổi tên hai châu phía trong, Địa Lý thành Lâm Bình, Ma Linh thành Minh Linh, dặn dò quan sở tại chiêu mộ thêm dân chúng các nơi về ở, và lo phòng thủ cho chắc chắn, rồi kíp lên đường về Kinh đô.
*
* *
Lúc bấy giờ ở bên nước Tống, Tể tướng Vương An Thạch quỉ quyệt đang thi hành chính sách 'thanh miêu' để tăng cường ngân khố quốc gia, chuẩn bị tiềm năng và lực lượng bành trướng xuống phía Nam, đồng thời với việc lo đối phó với nước Kim ở phía Băc...
Nhận thấy Đại Việt sau hai lần chiến tranh với Chiêm Thành chắc đã hao binh tổn tướng nhiều, lại thêm bây giờ Chiêm Thành đang chuẩn bị lực lượng đánh ra đòi đất, còn trong nước thì đàn bà nhiếp chính đang làm xáo trộn nội tình... nên Vương An Thạch tâu với vua Tống nên nhân cơ hội này mà dấy binh xuống phía Nam xâm lấn...
Vua Tống y theo và lập tực cho chuẩn bị. Sai Thẩm Khởi, Lưu Di đến trị nhậm Quế Châu (nay là Quế Lâm - Quảng Tây), một mặt kích động các bộ tộc thiểu số ở trên đất Đại Việt nổi loạn, mặt khác, điều quân các nơi về tập trung huấn luyện, cả đánh thuỷ lẫn đánh bộ, rồi tích trữ lương thực, khí giới, xe cộ, thuyền bè...
Nạn xâm lược đã rành rành ra ở trước mắt! Vua Nhân tông lúc ấy mới tròn 10 tuổi, còn quyền Phụ chính thì ở bà Linh Nhân Hoàng thái hậu.
Bà Linh Nhân tuy là người quyền biến, có tài trị quốc (đã được thử thách qua lần Nhiếp chính khi Lý Thánh tông đi đánh Chiêm Thành), nhưng không thể không bị quần thần và dân chúng dị nghị, mất lòng tin, qua vụ sát hại Dương Thái hậu cùng 76 cung nữ và hạ bệ Thái sư tôn thất Lý Đạo Thành, vừa mới cùng xảy ra 2 năm về trước.
Tuy bà đã kịp thời sửa chữa sai lầm (và cả tội lỗi!) bằng cách hết sức lấy lòng các quan đại thần (như ở đoạn trước đã nói) rồi đưa về Kinh đô và thăng lại cho Lý Đạo Thành từ Tổng trấn lên Thái phó để lo việc quân cơ (Thái phó bình chương quân quốc trọng sự), nhưng dẫu sao bà cũng không thể thay đổi được thực chất tình hình nếu như không dựa hẳn vào Lý Thường Kiệt.
Quan Phụ chính Thái phó, Thượng tướng Lý Thường Kiệt, sau khi từ biên giới phía Nam trở về, do vậy liền được phong ngay làm Thái uý, tức là được chính thức đứng đầu hàng các võ tướng trong triều.
Như đã nói, đối với Lý Thái úy, chỉ có việc nước, việc dân mới là quan trọng, còn chức tước, dù to dù nhỏ thế nào, thì từ trước đến nay, Ngài đều không hề bận tâm ham hố. Đối với Ngài, đó chỉ là trách nhiệm và bổn phận, không hơn. Và phải nói, chính đức độ và tài năng của Ngài, trong tình hình triều chính lúc bấy giờ và trong hoàn cảnh đất nước ở hai đầu biên giới như vậy, đã là ngọn cờ, là tấm gương để mọi người, từ dân chúng, binh lính đến quan lại nhìn vào mà đoàn kết, cùng nhau đưa hết sức lực ra gánh vác công việc chung. Ngài chính là vị tướng tài năng văn võ song toàn và đức độ mẫu mực!
Lý Thái uý cho rằng ngồi chờ giặc đến rồi mới đánh trả lại, thì chỉ là hạ sách. Chi bằng trong lúc chúng đang chuẩn bị lực lượng ở gần biên giới, mọi thứ hãy còn dang dở, mà đem quân đến đánh trước mới là tốt hơn. Đánh như thế là đánh trên thế mạnh và đánh đúng thời cơ. Chúng tưởng ta nội tình lục đục, trên dưới không đồng lòng là chúng lầm to. Chúng tưởng ta hao tổn lực lượng và sa lầy ở Chiêm Thành là chúng cũng lầm to nốt. Đánh một kẻ chủ quan thiếu phòng bị lại chưa đủ lông đủ cánh như thế thì rõ ràng là chắc thắng hơn, dẫu rằng đường đất đi lại có xa và điều kiện tác chiến có khó hơn.
Lời bàn của Lý Thái uý lập tức được cả triều đình tán thưởng. Và không phải ai khác, chính Ngài sẽ thống lĩnh đại binh, cùng với phó tướng là Tông Đản, đi đánh quân Tống ở bên kia biên giới.
Thế là, đầu mùa đông năm ấy, tháng 10 - 1075, tức là ngay sau khi từ Chiêm Thành trở về, Ngài đem hơn 10 vạn quân, bằng cả hai đường thuỷ, bộ tiến đánh châu Khâm và châu Liêm (thuộc Quảng Đông - Trung Quốc).
Sau trận chiến đấu ngắn, hai viên tri châu này rút vào cố thủ. Ngài lập tức cho quân ta bao vây. Vua Tống lệnh cho Đô giám Quảng Tây là Trương Thủ Tiết đến cứu ứng.
Tuy ở đồng đất nước người nhưng Lý Thái uý nghiên cứu địa hình địa vật rất kỹ. Ngài cho đặt phục binh tại một nơi hiểm yếu trên con đường từ Quảng Tây tới, mà quân của Trương Thủ Tiết nhất định phải đi qua. Đó là cửa ải Côn Lôn tại Nam Ninh.
Một mặt vẫn cho quân vây hãm hai châu Khâm, Liêm; mặt khác, Ngài rút một lực lượng mạnh và bố trí sẵn tại Côn Lôn. Khi toàn bộ quân của Trương Thủ Tiết rơi vào trận địa phục kích, quân ta từ hai bên nhất loạt dùng cung tên bắn ra. Hàng ngũ quân địch rối loạn. Lúc bấy giờ, quân ta từ bốn phía mới xông vào đánh cho quân Tống tan tành. Trương Thủ Tiết bị chém đầu ngay tại trận.
Sau khi nghe tin quân cứu viện bị đánh tan, hai viên tri châu Khâm, Liêm đều kéo cờ trắng ra hàng (tháng 11). Quân ta vào thành, tịch thu lương thực, khí giới rồi lại tiếp tục tiến đánh châu Ung (tháng 1 - 1076).
Tri châu Tô Giam đốc xuất binh mã cố thủ đến hơn một tháng sau mà không nao núng. Lý Thái uý cũng quyết tâm hạ thành cho bằng được. Sau khi đi quan sát kỹ bốn mặt thành về, Ngài cho quân lính chuẩn bị thật nhiều bao đất. Trong đêm tối, từ nhiều hướng phụ, Ngài sai đốt đuốc tiến công để thu hút lực lượng địch, còn tại các hướng chính, Ngài cho quân lính mang bao đất áp sát chân thành, đắp thành ụ mà trèo lên. Quân ta từ đó vào được thành, đánh địch quân từ nhiều phía. Tô Giam thế cùng lực kiệt, phải cho quyến thuộc 36 người uống thuốc độc, còn tự mình cũng tự sát chết theo. Quân ta toàn thắng.
Mười vạn quân với ba trận thắng liên tiếp, vang dội, đủ để cho triều đình nhà Tống biết thế nào là sức mạnh Đại Việt, rồi Lý Thái uý cho rút binh ngay.
*
* *
Quả nhiên, tháng ba năm ấy, nhà Tống đốc xuất 30 vạn binh mã từ Quảng Đông, Quảng Tây do Quách Qùi, Triệu Tiết chỉ huy, ồ ạt kéo sang. Ở biên giới phía Nam, nhà Tống cũng xúi dục hai nước Chiêm Thành, Chân Lạp cùng đem quân tiến đánh.
Không hề nao núng, triều đình Đại Việt chia binh ra làm hai ngả tiếp chiến. 10 vạn quân ở mặt trận phía bắc do Lý Thái uý chỉ huy. Thấy quân giặc đông, quân ta ít, Ngài cho củng cố tuyến phòng ngự kiên cố ở phía bắc sông Như Nguyệt (sông Cầu). Quân Tống kéo đến, vấp phải lực lượng đề kháng mạnh mẽ này, đã không thể tiến thêm được nữa.
Để cổ vũ tinh thần chiến đấu của ba quân, trong đêm tối, Lý Thái uý cho một viên tướng thật tốt giọng, cầm loa quả bầu khô, đứng ở cửa sông Nam Quận ngay trước cửa đền Trương Hát, đọc một bài thơ như sau:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Nghĩa:
Sông núi nước Nam thì do vua Nam ở
Rành rành ranh giới đã phân định tại sách trời
Cớ sao lũ giặc kia dám kéo đến xâm phạm?
Chúng bay xem: rồi sẽ phải chuốc lấy nhục nhã, tơi bời).
Đó là bài thơ "thần", là "bản tuyên ngôn độc lập" đầu tiên như bây giờ đánh giá, được chính Thái úy Lý Thường Kiệt chọn và chỉnh lí lại từ một bài thơ đã lưu truyền trong dân gian qua các thời trước đó. Lời thơ đanh thép, như là kết tinh ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc, được thể hiện qua tâm hồn và nghị lực của vị tướng tài ba lỗi lạc.
Trong đêm tối, dưới ánh trăng sao vằng vặc, lời thơ vang lên sang sảng ôm trùm lấy núi sông, như thấm sâu vào mỗi đường gân, thớ thịt của từng chiến sĩ. Ai ai cũng thấy bồi hồi xúc động và náo nức, quyết chiến đấu hy sinh đến cả tính mạng của mình để giữ lấy nền độc lập quốc gia.
Lời thơ ấy cũng chính là lời của hai vị thần Trương Hống, Trương Hát, hai vị tướng tài ba và bất khuất của Việt vương Triệu Quang Phục thuở trước. Khi sinh thời hai vị thà chết chứ không chịu quì gối trước một kẻ phản trắc là Lý Phật Tử (tức hậu Lý Nam Đế), và khi mất đi, đã từng phù trợ cho Nam Tấn Vương (tức Ngô Xương Văn, con thứ Ngô Vương Ngô Quyền, người truất bỏ Dương Tam Kha tiếm ngôi để kế nghiệp cha, lên làm vua) đánh thắng Lý Huy làm loạn ở châu Tây Long rồi được lập đền thờ tại cửa sông Như Nguyệt và cửa sông Nam Quận.
Được lời "hịch non sông" cổ vũ, quân ta trên dưới một lòng, dưới sự chỉ huy tài tình của Thái uý Lý Thường Kiệt đã tổ chức nhiều đợt tập kích đánh vào phòng tuyến của địch. Phó tướng Triệu Tiết bị giết cùng với hơn một nghìn quân Tống khác. Quách Quì núng thế, mặc dù quân số nhiều hơn gấp ba lần, cũng đành phải tính đường rút quân lui về phía châu Quảng Nguyên là địa phận của nước ta ở giáp biên giới với nước Tống. Quách Quì tính nước ăn chắc, vì không thể đối mặt với Lý Thái uý mà tiến vào kinh thành Thăng Long, nên y liền chiếm lấy châu Quảng Nguyên để dâng công lên vua Tống.
Ở biên giới phía Nam quân dân ta cũng không để cho binh lính Chiêm Thành, Chân Lạp tái chiếm. Thế là nền độc lập của dân tộc vẫn tiếp tục được giữ vững, mà trong đó, Lý Thái uý chính là ngọn cờ, là linh hồn của cuộc chiến đấu.
*
* *
Tuy nhiên, sau chiến thắng địa vị quan trường của Lý Thái uý không tăng mà cũng không giảm - nghĩa là vẫn giữ nguyên như cũ. Vẫn kiên trì phương châm "hiến việc tốt, can việc xấu" của một bề tôi trung thành và không màng danh lợi cho mình, Ngài lại ra sức tu bổ cho nền văn trị trong nước. Với trọng trách "trong thì cầm đại chính, ngoài thì coi sư lữ", Ngài "dốc một lòng lấy việc an xã tắc" làm vui. Triều Lý lúc bấy giờ, vua hãy còn nhỏ tuổi, bà Linh Nhân phụ chính, quả là đã biết dựa vào người trụ cột là Ngài, nên đã chấn hưng được đất nước.
Ngay sau chiến thắng (1076) có chiếu của nhà vua cầu lời nói thẳng. Rồi cất nhắc những người hiền lương có tài văn võ, cho quản quân dân. Lại chọn quan viên văn chức, người nào biết chữ thì cho vào Quốc Tử Giám để học.
Tiếp đến năm sau (1077) mở hội tụng kinh "Phật thuyết Nhân vương" trong đó có đoạn nói rằng "Vua các nước cầu nguyện kinh này thì muôn dân được tai qua nạn khỏi", và thi "lại viên" bằng phép viết chữ, phép tính và hình luật.
Năm 1078 sửa lại thành Đại La, rồi đòi được nhà Tống trả lại châu Quảng Nguyên...
Rồi tiếp những năm sau nữa. Năm 1085, tháng 8, mở kỳ thi văn học, chọn nhân tài lần thứ hai, Mạc Hiển Tích đỗ đầu... Năm 1089 định lại quan chức, v.v...
Lúc bấy giờ nhà vua cũng đã khôn lớn, có thể đảm đương được việc trị quốc và đất nước thì đang ở buổi thái bình. Lý Thái uý lúc ấy cũng đã già, nhưng vẫn như xưa, là vị quan thanh liêm, chính trực. Năm 1101 nhân đổi niên hiệu, Lý Nhân tông cho Ngài kiêm chức "Nội thị phán thủ đô áp nha hành điện nội ngoại đô tri sự" nghĩa là từ nay Ngài sẽ là người phán quyết các việc phải trái xảy ra trong triều ngoài nội trước khi đưa lên nhà vua phê duyệt. Có thể nói, Ngài là người cao nhất trên thực tế, đã nắm quyền "cầm cân nảy mực" tức thi hành sự công bằng xã hội lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, chức trách chính của Ngài vẫn là vị tướng cầm quân mỗi khi đất nước lâm sự. Vì vậy, năm 1103, Ngài lại lên đường đi đánh Lý Giác làm loạn ở Diễn Châu (Nghệ An). Lý Giác thua trốn sang Chiêm Thành.
Vua Chiêm Thành là Chế Ma Na nghe theo Lý Giác xúi bẩy, đã đem quân chiếm lại ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính mà trước đây Chế Củ đã dâng Lý Thánh tông để chuộc mạng.
Tháng 2 - 1104, Lý Thái uý lại phải xuất chinh, dẫn đại binh đi đánh Chiêm Thành. Chế Ma Na đại bại, phải nộp lại đất như cũ. Và đấy cũng là trận thắng cuối cùng của Lý Thái uý.
Do đường sá xa xôi, lại phải leo đèo vượt dốc mà tuổi đã cao, sức đã yếu, nên khi trở về, Lý Thái uý bị ốm nặng. Tháng 6 năm 1105 Ngài qua đời, khép lại một sự nghiệp lẫy lừng từ lúc thiếu thời cho đến khi nãm chiều xế bóng. Cả triều đình và muôn dân đều thương tiếc Ngài. Lý Nhân tông truy tặng Ngài thêm chức "Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu, Thái uý, Bình chương quân quốc trọng sự" và tước "Việt quốc công". Lại cho người em của Ngài là Lý Thường Hiến được kế phong tước Hầu.
*
* *
Lúc sinh thời, Ngài rất ghét chuyện đồng cốt quàng xiên mà nhiều kẻ đã lừa gạt mọi người để kiếm lợi. Ngài phạt bọn chúng rất nặng, nên thói tục nhơ bẩn cũng được rửa sạch phần nhiều. Tuy nhiên, Ngài đã rất khuyến khích việc thờ phụng những người có công với dân với nước, công nhận họ là những phúc thần. Đó cũng là một đóng góp thêm về văn hoá và tín ngưỡng, nằm trong sự nghiệp chấn hưng đất nước và giữ vững nền độc lập dân tộc của Ngài.
Các triều đại trước đây mỗi khi chính vị, đều có sắc tặng phong cho Ngài. Chỉ riêng thời Trần đã có các mỹ hiệu "Trung phụ công", "Dũng mãnh", "Uy thắng"... Đền thờ chính của Ngài ở xã Ngọ Xá, Vĩnh Lộc, Thanh Hoá. Hương khói quanh năm, tôn nghiêm, kính cẩn. Ngày nay, nhiều trường học, đường phố... đã mang tên Ngài.
Sau đây là một bài "Minh", khắc trên bia chùa Linh Xứng, nói về con người, hành trạng và công đức của Ngài:
"Thái uý trong thì sáng suốt khoan hoà, ngoài thì nhân từ giản dị. Những việc đổi dời phong tục nào có quản công. Làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì ôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hoà giúp đỡ dân chúng, nhân từ giúp đỡ mọi người, cho nên nhân dân kính trọng. Dùng uy vũ để trừ bọn gian ác. Đem minh chính để giải quyết ngục tụng, cho nên hình ngục không quá lạm. Thái uý biết dân lấy no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để lỡ thời vụ. Tài giỏi mà không khoe khoang, nuôi dưỡng cả đến người già ở nơi thôn dã, nên người già thì nhờ đó mà được an thân. Phép tắc như vậy có thể gọi là cái gốc trị nước, cái thuật yên dân, sự tốt đẹp đều ở đấy cả. Giúp chính sự có ba triều, dẹp yên loạn ngoài biên tái, chỉ khoảng vài năm mà tám phương yên lặng. Công thật lớn lao".