18/06/2018, 16:20

Sử Việt thời thổ tả

Tạ Chí Đại Trường Hình như đây là lấy từ một phần tên sách của một nhà văn danh tiếng, thôi thì mượn tạm để thay thế ý tưởng của một blogger về tình hình (dịch) “Giới học thuật sử học bằng tiếng Việt bị chết” để thấy đỡ bi quan hơn. – TCĐT NHÓN LẤY MỘT TÚM TÓC LÀM ...

Tạ Chí Đại Trường

Hình như đây là lấy từ một phần tên sách của một nhà văn danh tiếng,
thôi thì mượn tạm để thay thế ý tưởng của một blogger về tình hình (dịch)
“Giới học thuật sử học bằng tiếng Việt bị chết” để thấy đỡ bi quan hơn.
– TCĐT

NHÓN LẤY MỘT TÚM TÓC LÀM ÐIỂN HÌNH

Từ tin tức truyền thông đến khu vực bán học thuật

Xin cứ dẫn những nguồn tin nắm được, chắc cũng không đến nỗi sai lệch nhiều lắm. Tin tức báo chí cho biết ngày 16-1-2013 tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (Hà Nội) có cuộc hội thảo “Cao Lỗ – danh tướng thời dựng nước” do Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND tỉnh Bắc Ninh và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cùng tổ chức. Tin về đề tài thảo luận đưa ra có đổi thay theo nhu cầu riêng biệt của cơ quan truyền thông: Thể thao và Văn hoá ghi lấy tin từ Thông tấn xã Việt Nam, Thanh Niên đặt tựa “Bài học Cao Lỗ”, Tiền Phong với “Xới lại chuyện nỏ thần và danh tướng Cao Lỗ”, và ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị của nó càng nổi bật lên với sự hiện diện của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Theo báo chí, “dù bận rộn”, ông vẫn “ngồi dự hết cuộc hội thảo” và nêu ý kiến tán dương các công trình nghiên cứu đưa ra khiến dẫn đến những suy nghĩ liên hệ với thời hiện tại không cần phải thốt ra lời.

Tin tức về cuộc hội thảo được thông báo trên Xưa và Nay, số Tết 420 (2013) nhưng một số bài tham luận đã đăng trước trên tạp chí này số 417 ở mục Phụ trương. Chúng ta có thể nói ít nhiều về tình trạng nghiên cứu sử học nước nhà, chỉ riêng nhìn về vị trí Phụ trương đó của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Ở đây, chúng ta chú ý đến nội dung các bản tham luận để hiểu về cuộc hội thảo thôi. Các tác giả chỉ có tên mà không thấy dấu tích khoa bảng và chức vụ nhà nước. Báo Tiền Phong cho biết “Hội thảo quy tụ 9 tham luận trong đó 6 tham luận được trình bày đi sâu phân tích những cống hiến của Cao Lỗ, vai trò và phẩm giá của ông, đặc biệt những bài học lịch sử để lại cho đời sau”. Cũng qua các báo đã dẫn, có các Tiến sĩ của Viện Xã hội học, Viện Sử học, Viện Lịch sử Quân sự, có Giáo sư Phan Huy Lê, ông Dương Trung Quốc, Tổng thư kí Hội Khoa học Lịch sử, cùng những người có vẻ là của tỉnh Bắc Ninh tham gia trình bày vấn đề. Nói kĩ như vậy để phân định rành rẽ chuyện chuyên môn do các chuyên gia kia gợi nên và gây tác động.

Vấn đề nhân thân lịch sử của Cao Lỗ và sự lập lờ trong nghiên cứu

Tất nhiên mỗi tác giả có sự riêng biệt xê xích cho thuận tiện với vị trí của mình nhưng nổi bật trên hết là ý tưởng “Cao Lỗ: nhân vật lịch sử” KHÔNG SAI CHẠY. Ðiều đó có ghi sẵn trong chủ đề hội thảo: Cao Lỗ, danh tướng thời dựng nước. Và ở tên các bản tham luận: “Danh tướng Cao Lỗ và bài học lịch sử thời kì đầu dựng nước”, “Danh tướng Cao Lỗ với việc chế tạo vũ khí, cung nỏ thời An Dương Vương”, “Tướng quân Cao Lỗ và thời Thục An Dương Vương trong quan hệ với vùng Hoa Nam Trung Quốc”… Nhà xã hội học có thể né tránh vấn đề một chút: “Sự tích Cao Lỗ Vương là sự huyền thoại hoá sức mạnh tồn tại và phát triển của cộng đồng Việt Nam” nhưng các dẫn chứng vụng về, hỗn tạp vẫn cho thấy không thoát khỏi sự ràng buộc chủ yếu của mục đích tổ chức hội thảo. Có tham luận nêu vấn đề hoài nghi (“Cao Lỗ Vương là huyền thoại hay lịch sử?”) nhưng lại chỉ là một thủ thuật để xác định tính lịch sử của Cao Lỗ, bởi vì được ghi cả năm chết : 179 (chắc là 179tCn.) và xác nhận ông đã “thiết kế, chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa”! Ðiều xác quyết tính lịch sử của nhân vật Cao Lỗ đối với những người nghiên cứu là ông ta có bản quán hẳn hòi, chứng tỏ nơi cái đền trên đất thôn Ðại Trung, xã Cao Ðức, huyện Gia Bình, Bắc Ninh ngày nay để nhà chức trách tỉnh này lấy vai trò chủ đất mà tổ chức hội thảo, rồi tổ chức thêm kỉ niệm 2290 năm sinh chắc nịch có Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan tham dự trong hai ngày 9 và 10 tháng Ba Quý Tị (18-19/4/2013). Và để làm vững chắc cho lập luận, đã có một bài tham luận dài với nhiều đồ thị, biểu đồ minh hoạ khiến Xưa và Nay phải cắt bớt. Bài “Vùng quê Cao Lỗ sau đổi mới” nói chuyện ngày nay nhưng rõ ràng là nêu sự sung túc, phồn tạp sinh hoạt nơi này trong đó có lễ hội Cao Lỗ, có vẻ đề cao tính văn hoá lễ hội đó với dụng ý chứng minh ngược thời gian, là Cao Lỗ CÓ THẬT. “Mánh lới” này từng được thấy thành công vượt tầm mức địa phương lên đến tầm mức quốc gia, đạt bằng cấp quốc tế trong việc UNESCO công nhận Lễ hội Hùng Vương ở Phú Thọ mà có thể sử dụng để chứng minh luôn rằng Hùng Vương có thật!

Họ đã chứng minh tính lịch sử của nhân vật Cao Lỗ như thế nào?

Tất nhiên theo thói quen thông thường nhất là dựa vào sách vở xưa, không những xưa mà còn là nay. Gần nay. Cứ thấy có sách, có chữ dẫn Cao Lỗ là đưa ra, không cần phân biệt. Từ Thuỷ Kinh chú của Trung Quốc, dựa thế cái xa xưa của bản gốc thuộc Hán, Ngũ Ðại gì đó cho đến sách vở của ta: Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái, Ðại Việt sử kí toàn thư, Khâm định Việt sử (?) cương mục… cùng sách của ông nội Tổng bí thư Trường Chinh, của ông Khâm sai đại thần Hoàng Cao Khải thoát lưới Việt gian bán nước như đã gán cho Phan Thanh Giản, nhờ ở ngay vùng trung ương, có toà dinh thự được công nhận lịch sử di tích quốc gia từ những năm 1960. Họ dẫn thần tích, các câu đối trên đền thờ thần không cần biết xuất hiện vào lúc nào, không thắc mắc về thời gian, kể cả dẫn tác giả di tản Cao Thế Dung! Thấy mặt đặt tên cho nên dẫn cả sách nói Cao Lỗ chỉ là “thần nhân”, không thắc mắc với sách vừa cho Cao Lỗ là người thần, vừa là “lương tướng” của An Dương Vương. Dẫn sách nói về một tổ sư nghề rèn thấy có tên là Lư Cao Sơn liền nhất định đó là ông Cao Lỗ! Không thể nói chuyện nguyên tắc sử dụng tài liệu với các bậc khoa bảng Phó Tiến Sĩ, Tiến sĩ, với các viên chức nhà nước Phó Giáo sư, Giáo sư này được rồi.

Nhưng các “học giả” này lại đúng là những nhân vật có tăm tiếng, có chức danh nhà nước thật như đã thấy. Cho nên, trong những nghiên cứu để chứng minh Cao Lỗ là nhân vật lịch sử, là “danh tướng thời dựng nước”, họ không chỉ sử dụng các phương pháp xưa cũ mà còn viện dẫn đến những ngành khoa học mới, đặt nhân vật Cao Lỗ trong khung cảnh lịch sử cổ Việt theo “thành tựu rực rỡ” của một thời Chống Mĩ Cứu Nước vừa qua. Ðến đây là động đến “vấn đề nhạy cảm” để biết sợ lời răn đe của ông Phạm Huy Thông (1985) nhưng không nói không được.

Nhóm từ chỉ định “thời dựng nước” nói về Cao Lỗ cho thấy các tác giả không thể tách rời với sự kiêu ngạo của thế hệ nghiên cứu cổ sử Việt có công trình tập họp trong 4 quyển Hùng Vương dựng nước, công trình tuy đã lẩn khuất trong thời gian nhưng vẫn chưa có ai trong hệ thống công khai nói ra sự yếu kém của nó. Giáo sư Phan Huy Lê thuộc thế hệ đó nên đến ngày nay còn quả quyết “(Cao Lỗ) là người rất có tài, có công và trước sau như một muốn bảo vệ nước Âu Lạc” cũng không hề gì. Có điều tệ hơn, trong khi bàn về Cao Lỗ, ngày nay người ta còn xác quyết rằng chuyện Trọng Thuỷ Mị Nương là có thật để nói đến “bài học lịch sử” về sự mất cảnh giác dẫn đến tình trạng mất nước. Chuyện nỏ thần “bắn một phát giết 300 người, xuyên qua hơn chục người”, giết hàng vạn người được Giáo sư họ Phan khuyên “không nên vì bức màn bí ẩn của truyền thuyết mà mất niềm tin vào sự thật lịch sử…” nên được thế hệ kế tiếp chuyển qua tập trung vào các mũi tên đá, đồng, bộ phận nỏ do khảo cổ học tìm được. Chứng thực tân kì của khoa học đấy nhé! Tiếc thay ở đây đã có chen vào những ngờ nghệch của kiến thức, nếu không cho là có sự cố ý ráp nối thiếu lương thiện. Sản vật nỏ gỗ và tên tre còn thấy trên Tây Nguyên, được Ðảng dụ anh thanh niên Bà Na, Ra Ðê nào đó bắn dính vào trực thăng Mĩ cho đế quốc hoảng hồn chơi. Tất nhiên mũi tên đó không thể làm bằng chứng xuất phát từ xưởng chế tạo của ông Cao Lỗ nhưng cũng là một gợi ý rằng cái lẫy nỏ tìm thấy ở Làng Vạc Nghệ An không biết làm ra vào thời nào, không thể ghép với ông Cao Lỗ ở Cổ Loa đã bỏ đi trước khi nước Âu Lạc mất. Cả đến các mũi tên đào lên ở thành Cổ Loa cũng vậy. Cứ nói rằng thành Cổ Loa là của An Dương Vương xây với sự trợ giúp của thần Kim Quy theo một chuyện thần thuyết biết rằng không có thật mà phải nhận, chỉ là để có chút tự tín mà thôi. Cứ thấy sự lơ là của nhà nước với Cổ Loa thì đủ hiểu ngầm ý. Chỉ có sự công nhận Cổ Loa là di tích lịch sử cấp quốc gia thôi. Nếu không có một mớ luận cứ bài bác dè dặt mà khó chịu của ông Ðào Duy Anh (không kể tác giả Trung Hoa, và lời chen phụ hoạ của kẻ này?) và chứng cớ cắt mặt thành năm 1960 (?) thì người ta đã cố công cùng sức tổ chức, ví dụ hội Vua giả làng Nhồi, dựng thêm cung điện trên thành Nội để nằn nì chèo kéo xin UNESCO cấp phát bằng rồi.

Thật ra thì với quan điểm văn minh về di sản, một ngôi thành như Cổ Loa, xuất hiện trong mù mịt của lịch sử, năm trăm năm sau được sử quan, học giả đồn thổi có tới chín vòng thành, kéo dài hơn hai ngàn năm hiện diện để học giả Mĩ cho là sản phẩm thời tiền-Việt, một ngôi thành như thế đáng được tôn vinh, gìn giữ không nệ vào là một thời dựng nước hồng hoang hay của tên xâm lược nào cả. Nhớ một hôm nào trong một buổi gặp mặt tình cờ giữa bạn cũ, nghe giới thiệu một nhân vật của Bảo tàng lịch sử Hà Nội được đưa vào Sài Gòn làm việc, tôi đã quên cả dè dặt vụt nói: “Sao các anh phá mả Bá-đa-lộc? Người nằm dưới đó là một ‘thằng Tây’, một cố đạo thực dân nhưng kẻ xây cái mả kia là người dân Gia Ðịnh ngay đầu thế kỉ XVIII, cứ phá kiểu đó thì còn lại cái gì là di tích lịch sử nữa?” Nói liều một lúc, chưa kịp nghe chuyện ông Bí thư quận đã chỉ vào dấu viên đạn hồi Mậu Thân sượt trên vách câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc của Tân Sơn Nhứt, và nói rằng: “Di tích lịch sử là đây”. Cái tường đó hình như bây giờ cũng không còn nữa.

Chẳng nhà nghiên cứu nào thấy chuyện bình thường là đương thời, trong bản tự thuật của Mã Viện, trong tiểu sử của các nhân vật liên hệ nằm ở Hán thư, không có ghi việc trên đường tiến công Mã Viện đã gặp được quân địch kháng cự ở ngôi thành nào hết, dù là viên danh tướng để lại cho đời thành ngữ “Da ngựa bọc thây” đã nhớ cả chi tiết ở nơi “dưới thì nước lụt, trên thì mây mù”, đất trời độc địa đến mức “con diều hâu ở lưng chừng trời bỗng sa xuống nước mà chết”, nơi vùng nước có dáng là hồ Lãng Bạc và con chim bói cá quen thuộc của người dân bản xứ. Chỉ thấy chuyện ông ta xây thành Kén (Kiển Thành) ở khu vực trung tâm kháng cự, tên cái thành-có-nhiều-vòng-quây-quanh và vị trí kia dễ khiến người ta liên tưởng đến thành Loa mà không sợ mang tiếng bợ đỡ kẻ thù. Tuy nhiên có quên thành Kén, từ đó mới kéo ra ông Cao Lỗ liên hệ với mấy mũi tên đồng đào được ở Cổ Loa. Ðể việc chứng thực có sức nặng thì phải có nhà khảo cổ học lên tiếng: “Các cuộc khai quật khảo cổ học… kết hợp với các nhà khoa học Mĩ, (giúp) chúng ta đã tìm được các bằng chứng để khẳng định trong huyền thoại về An Dương Vương và tướng Cao Lỗ có những sự thật…”

Chú ý: Có “các nhà khoa học Mĩ” nữa đấy! Không hiểu tại sao chẳng nhắc đến tên ông học giả Nhật vừa bị xe cán chết (6-2013), nhân đó người ta kể công ông tìm ra khuôn đúc trống đồng và khuôn mũi tên Cổ Loa! Cho nên đã thêm ý tưởng rằng “Với tư liệu mới, đã đến lúc chúng ta có thể nói người Việt thạo đúc tên, nỏ. Người đứng ra phải lả thủ lĩnh lớn, mà truyền thuyết nói đến là tướng quân Cao Lỗ. Ðiều này không phải là không có lí”. Loại chính thể về chiefdom là ý tưởng mới sử dụng trong nước để thêm vào các hình trạng cai trị cổ điển mà nhà sử học vẫn dùng: bộ lạc, nước, quốc gia… và cũng từng được một nhà khảo cổ học gán (2009) cho thời kì sơ sử ở Nam Bộ. Còn có thêm điều tra dân tộc học, văn hoá dân gian, chứng dẫn xã hội học nữa… Nghĩa là, nói theo thời thượng, người ta đã “bằng vào phương pháp liên ngành” để khảo cứu về “danh tướng Cao Lỗ”. Ở đây cũng chưa phải chỗ để nói chung về phương pháp này, thấy được tán tụng nhiều ở Việt Nam từ khi khai thác cạn kiệt tài liệu sử học, trong lúc ngành khảo cổ học sau thời lên ngôi tác quái ở sử học với “thời đại Hùng Vương” đã không đem lại kết quả khởi sắc thêm. Vấn đề ở đây, chưa phải là bàn thảo về những lập luận mang tính tổng quát mà chỉ là rút lại hạn hẹp vào trong việc sử dụng các bằng chứng theo những nguyên tắc căn bản, bình thường của lí trí là đủ. Không thể cứ hễ thấy có mũi tên, có nỏ thì phải nhất định là của ông Cao Lỗ: Cao Lỗ nếu là nhân vật lịch sử thì phải chịu sự giới hạn của thời gian, nơi chốn, còn tên, nỏ là chứng cớ của văn hoá vật chất lâu dài của một hay nhiều tập họp người, có khi không có “bà con” gì với nhau hết. Không thể cứ thấy nói Cao Lỗ dính với An Dương Vương là mở rộng đến thành Cổ Loa, đến đời Hùng Vương, Triệu Ðà, Ðông Sơn… loạn xà ngầu như thế. Làm việc nghiên cứu theo kiểu đó thì cũng dễ thôi, nhưng muốn được chấp nhận thì phải trông đợi thẩm quyền ở một nơi chốn không dính dáng gì đến học thuật.

 

Sự kiện trần trụi và hoang tưởng tập thể nhỏ, lớn

Mà chuyện học thuật thì cũng chẳng có gì ghê gớm lắm. Nó cũng phải tuân theo những quy luật bình thường của cuộc sống như bất cứ ở lãnh vực nào. Sách vở bảo Cao Lỗ là thần nhân mà muốn chứng minh là người thường thì phải tìm cho ra thân xác cụ thể của con người đó. Chuyện của quá khứ thì tìm nơi các bằng chứng của quá khứ, biện biệt đúng sai từ các bằng chứng đó, có mang khoa học mới vào cũng phải dựa vào các thành quả gần cận nhất đến quá khứ đó… Công việc tiến hành theo với ý thức về sự tương đối của chuyên ngành, ý thức về mong muốn tiếp cận chân lí chứ không phải là làm thay sử học. Cho nên chớ đem các bài bác viển vông của sự tầm thường hay của triết lí cao siêu vào đây. Về sự xác định nhân thân Cao Lỗ trong khung lịch sử đã được trình bày nơi khác nhưng cũng xin nói lại ở đây.

Chuyện bình thường là, dù ở bất cứ tài liệu nào cũng không thấy dấu vết “người” của kẻ được gọi là Cao Lỗ hay Cao Thông. Có thấy nhắc đến hành tung như người thường thì đó cũng chỉ là mượn tiếng “người” để cho thế nhân, người đọc sách, người nghe kể chuyện hiểu được mà thôi. Chuyện ở đất Việt thì người ở xa chỉ là “nghe ngóng” nhất là khi xét đến các điều kiện xuất hiện của nó đối chiếu với xác nhận của tác giả, người ghi chép. Vậy cho nên Cao Lỗ hay Cao Thông của Thuỷ Kinh chú hay Giao Châu ngoại vực kí dù có xưa hơn Việt điện u linh tập(1329) cũng không có độ khả tín bằng. Huống chi về mặt chính quy, VÐULT là ghi chép của nhà nước tại chỗ (Lí, Trần) chứ không phải của du khách từ xa.

Trong chi tiết, ngoài xác nhận “thần nhân” của sách Trung Hoa, sách Việt còn dẫn từ quan chức Ðỗ Thiện (xuất hiện 1127) nêu thêm các dạng khác làm nổi bật tính chất thân xác cụ thể của ông thần: “Vương vốn tên là Cao Lỗ, một lương tá của An Dương Vương, tục hiệu là Ðô Lỗ hoặc Thạch Thần”. Chữ Hán đi vào khung Hán Việt quen thuộc, được chấp nhận không thắc mắc nên ít ai lưu ý dịch ra “tiếng Việt” để cho thấy ông thần-người kia có tên nôm na là “thần Ðá”, “To Thô”, “Cao Thô”, nghĩa là để thấy nổi bật lên là Cục/Hòn/ Tảng Ðá. Vua quan đời Lí ít học, còn gần với sự kiện nguyên thuỷ nên thấy sao nói vậy, gán cho ông thần cái tên thô thiển theo hình thức xuất hiện, còn vua quan Trần nhiều chữ, xa đời thấy có dịp lí tưởng hoá nhân vật đến cầu cúng nên phong cho các tên Quả Nghị (1285), Cương Chính (1288), nói lòng vòng Cứng Cỏi, Cứng Thẳng thì cũng chỉ là Ðá thôi! Ðể cho thấy ông Cao Lỗ giống như bà con với Lí Ông Trọng ngự trị ở đền Chèm, ông Ðống Phù Ðổng “vụt lớn lên” cưỡi ngựa đi cứu nước, vốn là những tảng đá menhir của nền văn minh cự thạch ở Ðông Dương tập trung nhiều nhất ở Thượng Lào và nhân hoá với các ông Khổng Lồ bình dân “húi sạch rừng, bưng ngang lũ”, bắt cá biển bằng tay không…

Nhà khảo cứu ngày nay khi tìm quê hương cho nhân vật lịch sử của-mình, đã chứng minh đền thờ là ở ngay “quê hương thần” (thôn Ðại Trung…), vô tình cũng xác nhận bản chất thật của thần khi trích dẫn thêm Ðại Nam nhất thống chí: “đền Cao Công ở bên bờ sông, cạnh đền có tảng đá dựng đứng”, và thêm với quan sát của mình về các nơi có thờ “Ðại Than Ðô Lỗ Thạch Thần Ðại Vương”. Bấy nhiêu đó là đủ rồi. Nếu muốn nói thêm về “biểu tượng văn hoá” của Cao Lỗ lại là chuyện khác. Mà hình như vấn đề này cũng chỉ là được gợi ý từ các biến động của mấy mươi năm vừa qua mà thôi.

Không có cách nào chứng minh theo cách bình thường khác tuy cũng thấy là không dễ được chấp nhận, có khi vì nó bình thường — tầm thường quá trong tìn hình hoang tưởng lịch sử tràn đầy trước mắt. Không kể đến hiện tại có điều kiện thúc hối các học giả trong nước tìm cách bồi đắp cho thần tượng của mình, có người may mắn vượt ra ngoài khuôn khổ cũng thấy khó kềm được vướng vít của quá khứ. Nhớ có lần đọc một bài của blogger Le Minh Khai thấy lối giải thích của chúng tôi không được chấp nhận. Chen vào đây là làm chuyện bắt-quàng nhưng cũng thấy cái quá khứ “truyền thống” thật là nặng nề, sâu đậm, gây ảnh hưởng (mong là thoáng chốc trong tiềm thức) của con người thấy thật là ôm đồm thông thái, thông hiểu đa ngữ và rất mực thoải mái với các cách thức nghiên cứu trong thời đại văn minh. Chỉ là để không ngạc nhiên với các tác giả cuộc hội thảo.

Kết thúc của cuộc chiến 30 năm dù diễn ra thật huy hoàng, gây ngây ngất nhưng rồi cũng lại phải kéo đất nước về đúng vị trí trong thời đại toàn cầu. Trong chiến tranh, ít ai chú ý đến sự thất vọng của phóng viên O. Fallaci đến Sài Gòn của biểu tình tăng ni dưới uy thế Thích Trí Quang, của ngọn lửa Thích Quảng Ðức cháy rực trên màn hình thế giới, nhưng bà ta lại thấy ra những ngôi chùa chỉ là hơn một cái nhà, không giống như ở các xứ đồng đạo Miến Ðiện, Thái Lan, kể cả Lào, Miên. Mà có được dẫn đi thăm chùa Một Cột thì chắc bà ta cũng sẽ hỏi như học giả ngoại quốc hỏi hướng dẫn viên Trần Quốc Vượng: “Hình mẫu ở đây còn chùa thật thì ở đâu?” Có nghĩa là dấu vết quá khứ của Việt Nam không tương xứng với các biến động vừa qua. Không thể trưng ra Ðại tứ khí vốn chỉ hiện diện có vài chữ xưa, để khoe với người ngoài, với kẻ hậu sinh. Chỉ còn lại văng vẳng các lời hô hào, ca tụng “trái tim loài người/ lương tâm của nhân loại”.

Và học giả nội địa, trong vị trí thuộc hạ truyền thống, có thể là với cả sự thành tâm tận lực với khả năng kiến thức của mình, thấy có bổn phận lấp đầy khiếm khuyết đó. Phải nhân nói về một nhân vật lịch sử mà đề cao cả sức mạnh dân tộc: “Sự tích Cao Lỗ Vương là sự huyền thoại hoá sức mạnh tồn tại và phát triển của cộng đồng Việt Nam”. Có thế mới được người cầm quyền lơ đãng chịu đọc bản văn cũng của đại biểu tầng lớp thư lại thảo ra, gián tiếp tán tụng tầng lớp mình: “(Cao Lỗ là người) có tầm nhìn xa, tỉnh táo cảnh giác và đầy bản lĩnh để can ngăn nhà vua không sa vào quỷ kế của kẻ thù, dù rằng vì chuyện đó bị nhà vua xa lánh. Nhưng khi đất nước bị xâm lược, tổ quốc bị lâm nguy thì lại ra phò vua giúp nước (?!)… Cao Lỗ là một vị anh hùng dân tộc, biểu tượng của trí tuệ, bản lĩnh và sức mạnh Việt Nam trong thời kì đầu dựng nước”. Có tự khen như thế, sử gia Việt mới có thể nấp lánh bắt chước người xưa làm phận sự gián quan, đưa ra những câu sáo mòn, nêu ý kiến thời sự về tình hình đất nước hiện tại, chỉ đường dẫn lối cho nhà cầm quyền, chêm một chút phê phán kiêu ngạo ngầm mà không giấu được ý thức nhẫn nhịn bất lực của tầng lớp: “(Lịch sử mất nước của Âu Lạc) là bài học về nhận thức đối với kẻ xâm lược, về việc sử dụng người hiền tài, về việc phải biết lắng nghe ý kiến khuyên can. Ðó còn là kinh nghiệm về chiến lược chiến thuật tổ chức kháng chiến bảo vệ đất nước. Thành cao hào sâu, vũ khí tốt, quân đội mạnh nhưng… bị tách ra khỏi nhân dân và mất khả năng huy động được sức mạnh của nhân dân thì cuộc chiến đấu bị cô lập và thất bại khó tránh khỏi”.

*

Trong lúc này, định kiến về Bài học lịch sử không thể nào gạt bỏ được để một khoa học lịch sử Việt Nam thực sự thành hình, cho nên hãy cứ bằng lòng với những xuất hiện của nó. Bởi vì đây cũng là chứng cớ lịch sử.

Người thắng / kẻ thua, và rồi LỊCH SỬ
Hồi đó, có một quyển sách… 

  

BÊN THẮNG CUỘC

Không cần khen Phò mã tốt áo: quyển sách đã gây được tiếng vang lớn. Với thời internet, có người đã nhấp chuột, gõ máy để có sự kiện, con số đủ thuyết phục người hoài nghi. Sách được dịch ra tiếng nước ngoài (Nhật) cũng được thông báo (BBC phỏng vấn 14-7-2013). Lại có ý nghĩ rằng sự ồn ào rồi cũng sẽ chóng qua như mọi thứ thời trang khác trên đời, nhất là khi bắt đầu đặt một chân là trên thế giới ảo. Tuy nhiên chính khu vực này cũng là một yếu tố thành công cho tác giả không phải chỉ vì sự loan truyền mà cả trên tiến trình hình thành tác phẩm nữa.

Số lượng trang sách không mang tính cách tiểu thuyết feuilleton lằng nhằng ngày nào, nói lên đầy ắp các sự kiện được dẫn chứng – chê hay khen lại là chuyện khác. Tác giả là một phóng viên có nghiệp vụ, quen sự ghi chép, có ý thức về cái đích nhắm tới như đã thú nhận, thì từ năm 1997 đó, tạm cho là 15 năm đã qua, đã tích tụ được những điều dành cho các trang giấy, hẳn cũng có thể gọi là nhiều. Có điều giá thuộc vào lớp người trước, Huy Ðức không thể có, không thể ví dụ thành thạo sử dụng máy ghi âm, không có cái PC chứa tạm gọi là bao nhiêu data cũng được – chưa nói đến những iPhone, iPad, tablet… thêm dạng hình thông tin hầm bà lằng, và loại quảng bá cái gì mà Amazon Kindle và Smashbook. Kĩ thuật mới chật vật đi vào kiến thức của các nhà lãnh đạo già bao nhiêu thì lại dễ dàng mang ích dụng cho lớp người trẻ bấy nhiêu. Với phương tiện mới, Huy Ðức rõ ràng vượt được Vũ Thư Hiên quá xa nếu ta nghĩ đến những thú nhận khó khăn của tác giả Ðêm giữa ban ngày, một quyển sách tạm gọi là đồng dạng, từng nổi tiếng một thời, khi ông này phải viết dấm dúi, đánh máy lén lút, giấu đút bản thảo, đem nó ra khỏi nước… Cái lợi thế về kĩ thuật internet đã phá vỡ mọi sự bưng bít thông tin của mọi quyền hành nào muốn giấu nhẹm với dân chúng. Có internet, Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt mới dám khởi động đòi đất của Nhà Chung trong tay người cầm quyền Hà Nội. Có internet, vụ Tiên Lãng mới ồn ào, gây phản ứng cấp thời mà lan rộng gây khó khăn với nhà cầm quyền hơn là vụ nông dân Thái Bình (1997) trong thế kỉ trước. Có internet, những quyển hồi kí mà những người vượt qua được nỗi sợ hãi di luỵ đến muôn đời con cháu mai sau, đã dằn run rẩy viết lên nhưng vẫn không có nơi phổ biến, đã được tung lên mạng, dù có khi được đẩy đưa trách nhiệm vào tay kẻ khác. Tấm màn thâm cung bí sử che lấp những điều lưu truyền qua xầm xì lấm lét, bị vẹt ra khiến người ta thoải mái tỏ bày với anh chàng kí giả có “âm mưu”, để rồi giật mình khi thấy nó xuất hiện trên giấy trắng mực đen… Tác động chính trị của internet cũng rõ ràng không vượt qua tầm mắt của những người đầy phương tiện đã đem ra để bảo vệ quyền lực.

Người có trách nhiệm một thời nói ra ý nghĩ của mình, chịu kể chuyện “nội bộ” cũng chỉ vì nghĩ anh kí giả kia là của “phe ta”. Hãy cứ nhìn bà Dương Thu Hương từng được bắt tay Tổng Bí thư, rồi sau khi phản tỉnh chỉ phải ở tù vài tháng, và viết thư vẫn gọi tướng công an là “Anh”! Chuyện thoáng qua ngày ấy đã có thể là “sử” nhưng bằng cớ gần gũi thì đầy dẫy nơi các cuộc biểu tình những năm 2007, 2011… trong đó các lời đấu khẩu giữa một bên có quyền lực dùi cui và bên kia có những cái miệng la lối, thấy cứ như là chuyện gấu ó lẫn lộn giữa cái làng Hà Nội của tân cựu hương chức có đàn em đi theo. Và chỉ có nhắm mắt lại mới không thấy những bày tỏ về cùng một sự kiện cũng có khác trên phố Hà Nội và đường Sài Gòn. Cùng chống mất đất, Ðoàn Văn Vươn của Hải Phòng cho nổ súng hoa cải nhưng hai người phụ nữ ở Hậu Giang chỉ có thể vùng vẫy trần truồng mà thôi. Sự cách biệt / khác biệt đi theo với lá cờ, chìm lấp bởi các cách nhìn sôi động từ các vị trí khác biệt mang tính thời sự trong vụ Phương Uyên – Nguyên Kha (5-2013) nhưng đã là trọng tâm công kích của phe Lề phải, và đủ lọt vào mắt ông Jonathan London để ông không bằng lòng về sự xuất hiện cho là “lạc hậu” đó. Kẻ thua cuộc biết phận mình, không dám ngạo mạn nhưng cũng được một người thắng cuộc ranh ma chỉ rõ, là “Các ông (lãnh tụ) ấy muốn tỏ ra bình dân nên cũng dễ tiếp cận lắm”. Cái lợi thế ta/địch lớn lắm dù đôi khi cứ tưởng chỉ là của những “chuyện nhỏ”. Cung Tích Biền muốn lưu giữ các phần viết tiểu thuyết của mình từ các trang báo hàng ngày trước 1975 cũng không được. Về phần Huy Ðức thì không phải chỉ thoải mái đọc Sài Gòn Giải Phóng mà còn tận mắt ghi chép các tài liệu mật về cải tạo, đánh tư sản, cho vượt biên “bán chính thức”, đọc giấy tờ của cái Tổng cục II ghê gớm kia…

Lại không phải chỉ có vấn đề của nội dung sách trần trụi. Giống như hòn đá ném xuống nước có những vòng to nhỏ lan truyền. Sách nói chuyện chủ yếu về một quốc gia mà lại được xuất bản đầu tiên trên đại lục, cách nơi xảy ra một bờ đại dương chứa đến ¾ nước địa cầu. Chuyện lại không phải mới hôm qua mà bắt đầu từ 30-4-1975, nếu không muốn kéo thêm về trước. Cho nên ngoài sự lệch chuẩn không gian còn có cả sự lệch chuẩn thời gian để cho những tâm tình phán đoán đủ đổi thay, nhân rộng khác biệt. Khoảng thời gian đó giúp cho những sự kiện ẩn giấu, đi từ những xầm xì lén lút ra lời công khai theo kiểu bị chê là “ngồi lê đôi mách” nhưng có khi lên đến báo chí bình thường, sách vở nghiên cứu mà người ở xa không biết. Ðó là lí do một chừng mực hữu lí của những người công kích sách đưa ra: “Chuyện ai cũng biết hết rồi”. “Không có gì mới”, là nói trong tầm mức sự kiện phổ biến đó chớ không phải đem đặt trên bình diện phát hiện nghiên cứu, như một vài học giả đã nổi nóng. Vả lại ngay cả ở tầm mức nhận định, thời gian cũng chen vào gây biến chuyển chứ không còn dừng lại ở lằn ranh khởi đầu. Không phải “ai cũng biết hết” nhưng có nhiều, có khá nhiều người biết để không ngạc nhiên mà tán thưởng đến mức vồ vập, như những người đang có một số vị trí an bình nào đó trên đất mới, không có cơ hội tiếp xúc với thực tế, không rảnh rang nghe chuyện tiếu lâm thời mới như biến dạng của sự thật phi chính thống, râm rang từ lâu trong nước – và đôi khi cũng lộ diện công khai bất ngờ, có lẽ trong sự sơ suất “mất cảnh giác” của người cầm quyền: “Hồ hởi làm sao được hỡi Hồ?” (Vương Hồng Sển, Nxb. Trẻ 2003). Ngay ở tầng lớp nghiên cứu, nơi một vài bài nhận định về cuốn sách Bên thắng cuộc của một vài nhân vật được giới thiệu là gồ ghề, cũng vẫn chỉ thấy những ý kiến nhàn nhạt “ai cũng biết rồi”. Người cùng tiếng nói còn như thế huống chi khách khoa bảng ngoại quốc sao lại không luận bàn theo cách có người chê là “ai cũng biết”, dù rằng khách ở vào vị trí thuận tiện để thu nhận sự kiện, có khi bởi vị thế “Tây” của mình lấn lướt đám dân nội hoá bản xứ, bởi sự cả nể của người cầm quyền không che giấu được mặc cảm tự ti một khi sự tự tôn đành phải loại bỏ.

Khoảng cách địa lí không làm mờ nhạt sự kiện mà còn khuấy động thêm chỉ vì có một nhóm dân tản lạc chưa thể nào quên khá khứ rướm máu: “Chúng tôi có gần bốn mươi năm để làm người thua cuộc / Chúng tôi không viết hoa vì đã thua người thắng lâu rồi” (Nguyễn Tấn Cứ). “Mỗi một người Việt xa xứ mang theo cả một kho truyện đầy bi hài của một giai đoạn lịch sử nước Việt. Tốt nhất là đừng đụng đến nó, nó như một ngọn lửa âm ỷ cháy, dễ bùng lên…” Người của Phe thắng cuộc Lưu Trọng Văn không phải đến Australia mà đến Mĩ thì cũng vẫn giữ nguyên ý kiến đó. Ở đây không còn kịp cho vấn đề dàn trải lí lẽ Phải Trái. Sự kình cãi giữa những kẻ lưu vong trên khu phố Bolsa diễn ra bằng các lời đối đáp đem lại hãnh diện cho người đắc thắng có-chữ: “Ðã đọc chưa?” – “Không cần đọc, không cần biết!” Không cần biết đến những thống kê lằng nhằng rắc rối, những tranh chấp cung đình phức tạp của những kẻ ngự trị bằng quyền lực, đã hay đang đấu đá nhau. “Thấy mặt là đã không ưa rồi!” Bỏ xứ chạy, cứ tưởng là nhà ai nấy ở, không ngờ người ta rượt ra tận biển khơi, hoang đảo đập phá hình tích trốn chạy “đi được thì con nuôi Má, không được thì con nuôi cá…” Rồi thừa thắng xông lên, họ lấy tính cách chính thống chiếm lĩnh dân nước, mở rộng uy thế của một thành phần quốc tế, dẫn dụ kẻ “chiêu hồi” nói lời đầu hàng nhục nhã, đem rao giảng đạo đức bình thường mà trở thành độc tôn của kẻ thắng vào đến tận từng nhà trên đất mới, gây thêm nỗi nhục hí hửng tưởng lầm “chỉ một lần thôi / Không thể có cơ thua thêm lần nữa bao giờ!” Nghị quyết 36 kia không phải là lời hoà giải nhưng là mưu toan mang tính tấn công vào “hang ổ cuối cùng”của bọn sổng thoát, nhen nhúm lại sau ngày 30-4-75. Muốn “cấm cửa Việt cộng” như các thị xã Westminster, Garden Grove đã làm, người ta phải nại cớ thật sự khác: sợ tốn tiền “chào đón”! Chửi thề, chổng mông tuột quần như ngày nào ở San Jose đúng là chướng, nhưng trong đó có sự thú nhận thất bại, là phản ứng của kẻ cùng đường, dồn tức giận vào người trước mắt, bên cạnh. Trong giới hạn tranh chấp thu gọn thì báoNgười Việt cũng nên coi mình cũng chỉ là một nạn nhân của thời thế, cái thế chịu đựng của sự hiện diện có-thế của mình – hãy so sánh với sự chống đối Việt Weekly thì dễ chấp nhận hơn.

Gọi Huy Ðức là Việt-cộng-con, dựa vào thời điểm 30-4-1975 đó, có lí không phải từ thành kiến về nơi xuất thân của anh mà còn từ chính ưu thế vẫy vùng của anh trong tiến trình phổ biến quyển sách nữa. “Bên thắng cuộc nói gì viết gì / cũng không ghê rợn bằng chúng tôi đã sống”. So sánh với hiện tượng best-seller của sách báo ở hải ngoại thì rõ ràng sự xuất hiện của các quyển Ðêm giữa ban ngày, Chuyện kể năm 2000 (có người còn nhắc thêm các sách của Nguyễn Khải, Nguyễn Ðăng Mạnh…) và bây giờ, Bên thắng cuộc, tuy mang yếu tố khích động tò mò về chuyện trong nước nhưng cũng không tránh khỏi cho thấy có sự vồ vập ẩn giấu từ sự thu hút của Bên thắng cuộc. Sách vở Bên thua cuộc cũng đã có nhiều nhưng được coi như thêm một bằng cớ thua cuộc nhục nhã (kiểu ông Hoàng Phúc Hải, cựu sĩ quan Cộng Hoà, đương kim đại biểu Quốc hội của Tp. Hồ Chí Minh đưa ra). Hay rộng rãi ra thì chỉ là tiếng thở than, căm giận có thể gợi thông cảm của kẻ thất thế chứ không thể là một bằng cớ cần ghi nhận về một sự biến, một thời đại. Ở đây nổi bật lên vấn đề: phần của người thua cuộc phải được nói lên từ người thắng cuộc mới có giá, giá bao nhiêu thì còn tuỳ… Những người phản tỉnh một thời tự ca tụng, nay thấy như một dịp để bào chữa xuê xoa với kẻ mình hất hủi xưa kia. Cả người thua cuộc xiêu xiêu đang sống trong an bình, cũng có dịp coi như một lần tự sướng để phải được nhắc nhở: “Không có gì phải sung sướng ghê lên / khi họ bắt đầu trò chơi sám hối…/ khi họ buộc phải chìa ra bàn tay hoà hợp”. Hoà hợp hoà giải là lí tưởng đẹp như mơ nhưng cũng là bằng chứng thử thách trí óc ngu muội của con người. Huy Ðức không có chủ ý vẫn phải chịu đựng sự hoài nghi không phải chỉ trở thành định kiến mà còn là sự hiển nhiên, đương nhiên: “Bên thắng cuộc nói gì viết gì / cũng không gì mới hơn”. Phong trào vượt biên bị chặn lại vì thế giới kinh hoàng trước làn sóng người đổ ào ra biển chứ không phải vì người cầm quyền Hà Nội chùn bước trước nhu cầu an ninh của mình, phải “xuất khẩu phản động / nghèo đói”, trong đó không khỏi có tham vọng “tát nước theo mưa”, cấy người làm cách mạng thế giới theo đà tự huyễn với chiến thắng choáng ngợp ngày 30-4-1975. Cứ nhìn những diễn tiến từ bao nhiêu năm qua, và những lời công kích đúng lập trường, hay tuy có chệch hướng vừa đủ mà vẫn không mất tính chính thống, được đưa ra từ trong nước, nơi các comments trên mạng ủng hộ Nhà nước đương quyền, hay cả trên các phát biểu bất chợt của những nhân vật như hiện vật khảo cổ đồng thời với con cháu họ, thì đủ biết.

Và “lịch sử” kế tục

Bởi vỉ lịch sử vẫn tiếp tục ở một phía. Có lẽ vì được ra ngoài, Huy Ðức mới có thêm được các chứng thực đầy kinh hoàng về chuyện cải tạo, vượt biên. Cho nên mới có phản ứng gay gắt của anh sĩ quan Thuỷ quân lục chiến nọ. Còn trường hợp nếu kẻ liên can không biết tới thì lại không có dịp cải chính. Ví dụ chuyện nhà nước ta đến những năm 1980 còn giữ “BẢY TƯỚNG LĨNH Nam Triều Tiên” già yếu gần chết trong các trại tập trung. Người không thạo chuyện binh lửa thì dễ tin như nghe chuyện anh hùng Nguyễn Văn Bé “ba lần dũng sĩ: diệt Mĩ, diệt nguỵ, diệt xe tăng” của Viện Sử học, trong khi Seoul mắc lo đào củ sâm làm kim chi, có vài anh mang bằng Tiến sĩ Việt (!) viết tiếng Việt không xuôi đăng bài, in sách dạy dân nhà nước ta học sử, những người đó chắc không đủ chữ để tìm ra tin vể Bảy ông tướng của mình còn mắc nạn trong rừng chữ của Huy Ðức. Chỉ có anh lính thường của Bên thua cuộc mới giựt mình: “Cấp bực (ví dụ) Tiểu đoàn trưởng của Ðại Hàn là tướng hay sao mà để Việt Cộng bắt tới BẢY người như bắt ruồi vậy?”

Loại viết theo thời sau 30-4-1975 — kể cả của những người từng quậy tưng bừng giữa đường phố, hiên ngang trên sách báo, ở nghị trường, loại viết cầu sống này, bọn tù cải tạo đã ngậm ngùi đọc và cười ngất trong trại. Không có gì lạ. Ông Hoàng Ngọc Hiến từng nói với tôi (đại khái): “Ðọc sách của anh mới biết chuyện dữ dằn bên trong nhà giam (Dân chủ Cộng hoà)”. Ấy là tôi được ở trong một nơi nghe nói chưa đủ “đô” so với các nơi khác, dù rằng Gia Trung là trại công an trực thuộc trung ương đầu tiên của Miền Nam. Sự cách biệt trong, ngoài vòng rào giúp ta hiểu vì sao người ta truy bức tác giả Chuyện kể năm 2000. Sức tràn lấn của binh đội chiến thắng ngày 30-4-1975 khiến cho những biến động sau đó, dù to lớn, dù đau thương thức mấy cũng chỉ được coi như những xáo trộn đương nhiên phải có chứ không thể đặt thành vấn đề chính nghĩa cho chế độ.

Cho nên, chớ nghĩ rằng các bài viết chê trách Bên Thắng Cuộc trên báo chí trong nước, dù là của Công an, cũng chỉ là đơn thuần kiếm cơm, theo chỉ thị. Mà có là xỏ xiên móc ngoéo, mắng mỏ chửi bới thì cũng chỉ giống nơi phía đối kháng – cái khác ở đây là họ đứng ở vị trí thành phần cai trị nước mà thôi. Căn bản của sự lên tiếng vẫn là bằng chứng của lịch sử đã thành hình. Ðả phá “cái nhìn thiên kiến về lịch sử” của quyển sách vì cho rằng phải “hiểu đúng về bản chất của cuộc chiến tranh” kết thúc ngày 30-4-1975 đó, là tóm thâu cả một tin tưởng được thành hình để làm nên chiến thắng, là chính lịch sử đã qua của họ, là quá khứ ùn ùn thiên lệch được trân trọng viện dẫn: “nhân dân một lòng theo Ðảng”, để người ta chống đối những ai “bắn vào quá khứ” theo cách lúc nào cũng dễ tìm ra một danh ngôn phù trợ cho mình. Ở trình độ thấp hơn, là những người ném đồ dơ vào nhà kẻ chống đối, còn anh, nhắc đến Tổ quốc, công lao tiền nhân… dùng cho một phản biện, là một thủ thuật đã trở thành bình thường mà người thanh niên thế hệ mới, được dạy bảo để bênh vực cho chế độ anh cho là không thể nào có mặt trái. Anh chỉ đau lòng thấy các thần tượng “bị phỉ báng” mà không có dịp để bào chữa, chứ không nhận ra rằng sinh thời các “vĩ nhân” đó hành động không cần tự bào chữa, không cần ai bào chữa giùm, vì đã có một thời đại ùn ùn dâng lên che lấp các khuyết điểm – chưa nói đến xấu xa, của họ. Trong giai đoạn tiến chiếm quyền hành, họ đã tụ tập được một lớp quần chúng trung thành được gọi là Ðảng viên, hưởng chút ân huệ đứng ngoài pháp luật để đổi lấy ảo tưởng là tầng lớp ưu tú của nhân loại, có những người như họ với vị thế lãnh tụ thần thánh nằm ở tột đỉnh, đứng trên pháp luật của mọi thời. Họ đã vượt qua những triều đại đi trước trong khi thừa hưởng luôn cả những thu xếp trong quá khứ, để sống với đặc quyền đặc lợi (“có chiếu cố đến nhân thân”) kéo dài đến sau khi chết, lưu giữ cả cho thế hệ tiếp nối. Ðó là trường hợp tập ấm khá khôi hài trong tù của Cù Huy Hà Vũ, với một số đối xử riêng biệt, bất ngờ phải xuất hiện công khai khi nhà cầm quyền lấy đó làm chứng cớ cho tính nhân đạo ban phát đều khắp trong tù ngục của chế độ mình.

Ðắm mình vào giá trị đạo đức tưởng chỉ dành riêng cho tập thể mình, người ta viện dẫn đến trường hợp cặp đôi : Lưu Quý Kỳ – Lưu Ðình Triều: “Không nhẽ, bố anh lại… không có trái tim”. Trong chuyện này có sự lệch chuẩn thời gian, sự đổi thay tâm tình qua năm tháng mà Huy Ðức khi “phân trần” với Lưu Ðình Triều đã giữ vững lời lẽ của mình. Còn bọn cải tạo, không chỉ có bằng chứng trên thân xác mà còn ghi được trên giấy tờ, thì thấy rằng chuyện người “cách mạng” bảo lãnh cho người thân đang cải tạo cũng xảy ra theo thực tế phức tạp của cuộc sống chứ không phải là chuyện của sĩ diện đạo đức vu vơ. “Ảnh sợ mất tuổi Ðảng, má ơi!” Du kích làng, điếc không sợ súng, có khi làm giấy bảo lãnh nguỵ với lời lẽ mạnh hơn bất cứ ông Cao cấp nào. Còn muốn bảo vệ giá trị đạo đức cho ông Lưu Quý Kỳ thì có thể viện dẫn đến lập luận về dân chủ tập trung, về sự hi sinh cá nhân cho lí tưởng, về sự xấu xa của đạo đức tiểu tư sản so với nền đạo đức vô sản ưu việt, về tinh thần khoan dung trời biển của dân tộc Việt, tất cả đầy dẫy trong sách vở mới, nhẫy tai trong các cuộc hội họp. Từ đó đã xuất hiện một phong cách hành xử lạ lùng, không có nơi nào, cả trong sách vở tranh bá đồ vương, về một lối thành thực nói dối trước những người biết mình đang nói dối! Lối hành xử vẫn còn lẩn khuất trong đường hướng chủ đạo dẫn dắt đất nước bây giờ, không chỉ ở chuyện “cải tạo” đã trở thành quá khứ.

Nhắc lại chuyện xưa, khi Lưu Hữu Phước rủ rê người điên Nguiễn Ngu Í: “Hay là Nguyễn hãy vào chơi Thiên Thai với Lưu một chuyến…” và được trả lời: “Ở Thiên Thai không có tình người”. Người cộng sản tự phụ mình đầy nhân tính nhưng cái nhân tính đó chỉ là dành cho đời sau, đời của thứ lí tưởng mà dần dà với thực tế được thấy là hoang tưởng, còn với ở đời này thì “tình yêu giai cấp” được cổ xuý đó mang tính cách giai đoạn, phường hội, dẫn đến tình trạng trở trái làm mặt, xoay chuyển phụ thuộc vào sự điên đảo của quyền lực ban phát – không phải cùng phe là “diệt”, “tận diệt”, cái đó khó có thể gọi là nhân tính. Lằng nhằng thêm về một hai trường hợp riêng rẽ như thế cũng để chỉ lặp lại, là lịch sử đã thành hình, đủ cho một cái khuôn may ra có thể vẽ thêm một chút gam màu cho bắt mắt hơn chứ còn lâu mới tìm được một cái khuôn khác.

Lịch sử là tập họp, kết tụ của những diễn biến đã xảy ra, tiên vàn là trong hình thức xuất hiện trần trụi của chúng. Nhưng cùng lúc, tác động lan toả cũng đã khác trên những tập đoàn khác nhau để dẫn đến những suy luận thành hình khó xoá bỏ. Tấm hình cô bé trần truồng kêu khóc giữa khung cảnh bom đạn đem lại huy chương quốc tế cho người phóng viên tập sự, thật ra chỉ là chụp được cách xa mặt trận, nếu ta chú ý tới hậu cảnh gần với toán lính đi theo, đầu súng chúc xuống đất (nhận xét của Trần Hoài Thư). Thế mà nó đã được chỉnh sửa tung ra theo nhu cầu thông tin nhạy cảm cấp thời – chưa tính tới sự khích động tiềm ẩn từ khuynh hướng tả phái của nhóm, tập đoàn, ít nhiều cũng làm nên một yếu tố chống đối một phe nhóm – sau này là Phe thua cuộc. Mọi thứ như thế cùng lúc với các yếu tố khác đã làm lệch cán cân quyền lực trong tranh chấp đương thời. Sự định hình quanh bức ảnh vẫn không suy suyển dù rằng với thời gian, Phe thắng cuộc đã phô bày sự bất xứng của mình. Chính hình tích cô bé cũng đã mờ nhạt nơi phía bồi đắp thêm vinh quang cho cô, vì lúc lớn lên cô đã không chọn lựa phía ấy nhưng bốn mươi năm sau, khi xuất hiện trên tivi (The Power of the Picture, đài ABC 2, 3-6-2012), vẫn thấy lửa napalm như chồm lên người cô, như cháy tràn thị xã Củ Chi ngói lầu tở mở của năm 2012, còn cách thế phát biểu tiếng Anh lưu loát, dáng vẻ phúc hậu an bình thì không gợi lại một chút gì giả trá được tạo dựng dành cho hình ảnh cô ngày xưa. Vinh quang từ đó chỉ có người thắng cuộc được nhận lãnh, không suy suyển.

Còn nói gì đến các sự thật chòng chéo hơn. Như tính cách lệch chuẩn văn hoá khi tôi nói về bức hình tướng Loan bắn người đặc công, “bức hình làm thay đổi đường hướng cuộc chiến” (National Geographic tháng 10-2013). Ông ta được tình thế xếp hàng với tập đoàn những người đồng minh muốn thấy chiến binh ra trận như tướng trên sân khấu hát bội: “Như ta đây là… Việt cộng!” Ông ta vốn cũng xuất thân như những người ông chống đối, cho nên đoàng một phát trong lúc nóng giận – hay để tỏ oai phong / “giựt le” , cũng không có gì là tàn nhẫn hơn cách thế đồng đội, cả bà con dân chúng, từng phải chịu đựng khuất lấp trong xóm làng, có thể là cùng ngày hôm đó trên xứ Huế quê hương của ông. Rủi ro là các hình chụp từ các đống xác sình thúi vài tháng sau, lúc sôi động đã qua một ít, lại không có một tấm hình tương đương lúc người ta “đập đầu cá lóc”, để làm bằng chứng, khỏi phải tranh cãi về thủ phạm đích danh với những người khăng khăng một mực, phát biểu như tụng kinh, hô khẩu hiệu, ngây thơ đến chết người: “Phe ta mang chính nghĩa ngời ngời tiến hành cuộc chiến tranh thần thánh, có lẽ nào lại như thế!” Ðể Huế hàng năm có trống rung, cờ mở ăn mừng chiến thắng, mắt ngơ tai điếc trước những bàn thờ khấn vái hàng trăm, hàng ngàn người cùng một ngày khuất bóng. Chuyện không dừng ớ đó. Bức hình như bằng chứng tội phạm, không tha lúc Ông thua cuộc chạy trốn sự xua đuổi của cả những người cùng phe, chắc hẳn cũng chưa thấy được giải thoát ngay cả lúc chết dù tác giả bức hình đã lên tiếng phân trần cho ông. Sự hận thù có thể hạ nhiệt với thời gian nhưng bằng chứng chính/tà vẫn không suy suyển. Thế hệ sau của Phe thắng cuộc có người lặp lại bằng bức tranh triển lãm vẽ người đặc công nhăn mặt nhận được quả trứng vào mắt! Và đau thương hơn, có con cháu kẻ di tản, được hưởng gia tài khoan dung trên đất mới, cũng lại chê trách thế hệ trước, coi như đó là bằng chứng của lí lẽ thua cuộc hiển nhiên. The Power of the Picture không chỉ là sức mạnh tự thân của hình ảnh mà còn phải vướng thêm sự định hướng của thời sự, thời thế cho nên Mĩ Lai mới lấn át Dak Sun ở xứ Thượng (1967) và gây cả tranh cãi, phân vân trước thực trạng Huế! Muộn màng bên lề còn có chuyện đám con cháu lính Ðại Hàn, sống trong thế giới an bình, tách rời khung cảnh truyền thống chiến tranh “thảo phạt” / chặt (loài) cỏ rác, nên lên tiếng tố giác tội ác tày trời của cha anh họ trên đất Việt hiền hoà họ được tiếp đón ngày nay, nhờ các đồng tiền củ sâm đấy bổ dưỡng! (Nói cho cùng thì chuyện “cải tạo” chỉ là hồi tiếp theo của quan niệm truyền thống thảo phạt kia. Những phóng viên ngoại quốc ít oi còn hiện diện trong ngày 30-4 năm ấy, đang phải lăng xăng quanh dinh Ðộc Lập xem cái xe tăng nào húc đổ cây cổng đã mở ra, có ai quan tâm tới cảnh đập đầu, thắt cổ nơi tỉnh, làng xa tít mờ mịt đâu!)

Quyền lực vững vàng của chính quyền thừa hưởng từ chiến thắng càng củng cố thêm những quan điểm ủng hộ cũ, hay được coi là mới mà thật ra chỉ vì làm theo thói quen của phát biểu. Trên các bản tham luận trong các cuộc hội nghị Việt Nam học ở Hà Nội của học giả ngoại quốc, thấy có các nhóm từ (đại khái) “từ lúc / qua quá trình Ðổi mới…” Loại lời ca trong khẩu hiệu “Ðảng Cộng sản Việt Nam quang vinh…” trở lại trên tivi CBS. Giới thiên tả quốc tế ngượng ngùng lẩn tránh sau các biến động vượt biên, sau sự suy yếu của phong trào cộng sản, hay đã chuyển hướng qua các đề tài mới kiểu Bênh vực đồng tính… cũng có dịp trở lại minh định chính nghĩa cũ với loại khảo cứu muộn màng kiểu Kill Anything that Moves (2013) của Nick Turse. Ðã nói, lịch sử vẫn còn dịp là của người chiến thắng.

Nên lịch sử chính thống vẫn đang rùng rùng đi tới

Vì có cái thắng nào lại không có cái hữu lí của nó? Có lí hay không chỉ là do khác tiêu chuẩn định hình cho phán đoán. Vượt trên mọi trở ngại lựa chọn tiêu chuẩn, Bên thắng cuộc đã tỏ rõ quyết tâm của mình. “Giới lãnh đạo VNDCCH nắm chắc mục tiêu ‘dân tộc – cộng sản’ thẳng tiến vào Nam đến chiến thắng tận Sài Gòn, không ngừng bước trước bất kì trở ngại nào và không ngần ngại trước bất kì hi sinh nào”. Sử gia F. Guillemot chỉ lặp lại với một dạng khác lời của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dù phải chiến đấu đến 5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”. Có thế nên sau chiến tranh, ông Trần Bạch Ðằng mới chê bai chuyện Mĩ kiên trì tìm vài ngàn người mất tích của họ, để so sánh với 800 000 MIA Việt nằm trên Trường Sơn, được giao phó cho nỗi nhớ của người thân và sự lùng sục của các ông bà ngoại cảm xoáy tiền của nhà nước vô tội vạ với sự chuẩn nhận chia chác của các nhà lãnh đạo cùng tâm thức, làm phát sinh thêm một ngành “khoa học tâm linh” phồn tạp với các danh xưng Tổ chức, Trung tâm, Viện Nghiên cứu… không chừa các ghi chú bằng Anh ngữ oai phong với những người đầu ngành là các Tiến sĩ, một cựu Bộ trưởng Giáo dục lên tiếng bênh vực ngay cả khi các “đồng nghiệp” ra toà vì tội lường gạt! Chỉ với thời gian làm loãng các đầu óc nhồi nặn căm thù, có người mới nhận ra: “Cuộc chiến chỉ tính nó là thắng lợi là chiến thuật là đấu trí mấy ai đong đếm máu người mấy ai nhòm ngó đến nỗi đau khổ nhỏ nhoi cụ thể”, để chỉa mũi dùi trách móc vào “người đàn ông quyết liệt… đêm đêm đi lại trong ngôi biệt thự xây kiểu Pháp giữa khu nhà dành cho những ngôi vị cao nhất” (Lê Minh Khuê, 2012). Người đàn ông quyền lực đó lúc còn chưa đạt đỉnh cao đã chịu ăn mặc tồi tàn, sống cam khổ, đủ dáng vẻ chuẩn mực đạo đức cao vời, lấn át thực tế chiếm đoạt, giúp an ủi thuyết phục cô tiểu thư con một chức chưởng thời “thuộc địa”, “phong kiến” vừa bị buộc bỏ tình nhân đã có vợ để lấy người có vợ khác! Và một khi đã “quyết liệt” bằng thân xác kẻ khác thì cũng dễ an tâm chuyên chú vào những mục tiêu cố định, đem lại thành công chắc chắn, không dành chỗ cho những dao động khác chen vào.

Ðây là lần đầu tiên – mà có lẽ cũng là độc nhất trong lịch sử, Việt Nam có một lớp người làm chính trị với tính cách chuyên nghiệp – ăn, ngủ, thở, chết đều là với cái đích quyền bính. Ðối địch với họ chỉ có những người hời hợt của đất thuộc địa lạc đường vào lịch sử, ngu ngơ giữa chợ đời chính trị, ngông nghênh gắn bảng tên “révolutionaire annamite” trong khi đi cầu cơ, những người vung tay múa chân giật micro trên sân khấu cải lương, hờn dỗi chống ba-toong làm ăn mày biểu tình, hay đem pha trộn chút lí tưởng nhà nho thời suy tàn với sắc màu lãng mạn Tây phương trong hình ảnh nhân vật một chiều trên bến vắng “lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang”, để rồi không chế ngự được nghịch cảnh, phải vật vã khùng điên lúc cuối đời. Chính trị đối với những người này là những lúc hăng say bất chợt, vụt thấy “bên kia sông là ánh mặt trời”, vui làm buồn bỏ, hoặc rồi sẽ trở về đời thường ở ẩn như ngày xưa, hay “trùm chăn” theo nghĩa thời nay, nhai nuốt ân hận, nếu có bị đưa đẩy vào cuộc đời gió bụi thì cũng sẽ đến hoang mang lạc lõng, tàn tạ như lời nhận xét trong lúc thành thật cuối đời của ông Nghiêm Xuân Hồng khi nói về các lãnh tụ đồng thời (1945): “Có gì đâu, chỉ là (thuốc) phiện với đĩ thôi…” Cứ đọc hồi kí của “Việt cộng” tư sản Trương Như Tảng, hay loại hồi kí “khoe một thời, giấu một lúc” của Lý Quý Chung thì đủ rõ những hoàn cảnh khác nhau mà cùng chung một tính chất. Và cũng có thể k

0