Sử thi Iliade- Thi hào Homère: Thiên trường ca bất tử của nhân loại (bài 3)
SỬ THI ILIADE: QUÂN THAM CHIẾN TRẬN ĐÁNH THÀNH TROIE (1193-1183 trước TL) Bài 3. Thi ca khúc II. Phần 2 Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh chuyển ngữ thơ lục bát Theo các sử gia, cuộc chiến tranh thành Troie trong 10 năm xảy ra vào năm 1193-1183 trước Tây Lịch. ...
SỬ THI ILIADE: QUÂN THAM CHIẾN TRẬN ĐÁNH THÀNH TROIE (1193-1183 trước TL)
Bài 3. Thi ca khúc II. Phần 2
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh chuyển ngữ thơ lục bát
Theo các sử gia, cuộc chiến tranh thành Troie trong 10 năm xảy ra vào năm 1193-1183 trước Tây Lịch. Thành Troie còn gọi là thành Ilion, xưa nằm giữa Hellespont, Phrygie và đảo Lesbos, kinh đô nằm tả ngạn sông Mandérès-Scamandre, chu vi khoảng 12 Km, có thành Bunar-Baschi vòng thành 2km dựng trên mõm đá cao 154m. Nhưng theo Schieman người Đức năm 1871-1890 khai quật di tích lại cho rằng thành Troie nằm trong khu vực Hissarlik tiếng địa phương gọi là cổ thành. Vùng này xưa kia thuộc Hy Lạp, nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ.
Uất hận Hoàng hậu Hélène bị Pâris quyến rũ đem về thành Troie.. Vua Ménélas đến gặp anh Agamemnon, vua Mycènes bàn cách trả thù. Hai anh em bàn với lão vương Nestor kêu gọi hợp binh Hy Lạp, kêu gọi các vị anh hùng đã từng cam kết trong lễ thành hôn Ménélas và Hélène, mọi người thề trước thần Olympe nếu rủi ro có chuyện gì xảy ra làm tan vỡ hạnh phúc Ménélas và Hélène thì mọi người có trách nhiệm liên minh để bảo vệ hạnh phúc đó. Khi điểm binh thì thấy thiếu Ulysse và Achille. Agamemnon bèn cho lão vương Nestor và Palamède đi mời.
Ulysse sau đám cưới Hélène – Ménélas, trở về Ithaque cưới người cháu họ Hélène là Pénélope, sinh cậu con trai là Télémaque, tên có nghĩa là Nhìn Trận Chiến Từ Xa, tôi chuyển ngữ tên thành Thế Viễn Mạc. Ulysse không muốn bỏ vợ dại, con thơ đi đòi vợ cho người khác nên giả điên, đi cày ruộng kéo cày với một con ngựa và một con bò và gieo hạt muối. Palamède biết chàng giả điên, nên ẳm Télémaque đặt trước luống cày. Ulysse đành chịu thua, không có gì thoái thác, nhưng căm hận Palamède. Ulysse đành đem thuyền hội quân. Nhưng còn thiếu Achille, vua Agamemnon phái Ulysse đi tìm người anh hùng. Achille mình đồng, da sắt, chẳng tên đạn nào bắn thủng, nhưng chỉ có gót chân, là nhược điểm tử vong, vì khi còn trẻ bà mẹ nắm hai chân tôi vào nước sông Stich cõi âm phủ, để trở nên mình đồng da sắt, bà quên không tôi chổ gót chân bà cầm. Chàng được dạy dỗ để trở thành dũng sĩ toàn diện, nhưng lớn lên nữ thần Thétis lại tiên tri số mệnh chàng sẽ ngắn ngủi nếu tham gia cuộc chiến thành Troie. Bà đem Achille cải trang thành gái, dấu ở đảo Skyros, sống với công chúa Déidamie, chàng có con trai tên Néoptolème. Ulysse và Diomède tìm đến đảo Skyros giả làm người buôn bán nữ trang, vải vóc và áo giáp, khiên, lao. “Cô gái Achille” không thích nữ trang lại mua áo giáp, lao, khiên nên bị lộ diện, phải lên đường đem đạo binh Mirmidons hợp binh đánh thành Troie.
Quân Hy Lạp hợp binh đi đánh thành Troie gồm 1186 chiến thuyền và hơn 100 000 quân. Homère đã kể tên vùng thủ lãnh, số thuyền, số quân như sau. Họ nói mười ngôn ngữ khác nhau, một lệnh truyền được qua mười miệng phiên dịch. Tôi thiết lập sau đây bản tóm lược các đội binh chiến thuyền tham gia cuộc chiến theo lời thơ Homère. Mỗi chiến thuyền trung bình 120 quân, do đó chúng ta có thể ước lượng số quân tham dự.
VÙNG THÀNH TÊN TƯỚNG SỐ THUYỀN SỐ QUÂN
Béotiens Hyria Pénéléos 50 thuyền 6 000 quân
Asplédon Minyens Ascalaphos 30 thuyền 3 600 quân
Phocéens Cypanrissos Schédios 40 thuyền 4 800 quân
Locriens Cynos Ajax Bé 40 thuyền 4 800 quân
Abantes Dion, Eubée Éléphénor 40 thuyền 4 800 quân.
Erechthée Athènes Pétéos, Ménesthée 50 thuyền 6 000 quân
Salamine Athènes Ajax Lớn 12 thuyền 1 400 quân
Argos Tirynthe Diomède,Sthénélos 80 thuyền 9 600 quân
Mycène Corinthe,Cléones Atride Agamemnon 100 thuyền 12000 quân
Lacédémone Phraris, Sparte,Messé Ménélas 60 thuyền 7 200 quân
Pylos Aepy Nestor 90 thuyền 10800 quân
Arcadie Stymphélos Agapénor 60 thuyền 7 200 quân
Bouprrasion Myrsine Amphimachos,Thapios,Diorès 40 thuyền 4 800 quân
Doulichion Échines Mégès 40 thuyền 4 800 quân
Céphalléniens Ithaque Ulysse 12 thuyền 1 400 quân
Etoliens Pleuron Thoas 40 thuyền 4 800 quân
Crète Cnossos Idoménée 80 thuyền 9 600 quân
Rhodes Đảo Rhodes Tlépolème 9 thuyền 1 080 quân
Symè Symè Nirée 3 thuyền 360 quân
Nisyros Eurypyle Phidippos, Antiphos 30 thuyền 3 600 quân
Myrmidons Argos de Pél. Achille 50 thuyền 6 000 quân
Phylkès Pyrasos Protésilas,Podarkès 40 thuyền 4 800 quân
Phéras Glaphyras Eumèlos 12 thuyền 1 400 quân
Méthone Olizon Philoctèle, Médon 7 thuyền 840 quân
Trikkè Eurytos Podalire, Machaon 30 thguyền 3 600 quân
Orménion Astérios Eurypyle 40 thuyền 4 800 quân
Argissa Oloosson Polypoetès,Léonteus 40 thuyền 4 800 quân
Gouneus Kyphos Eniènes, Péraebes 20 thuyền 2 400 quân
Magnètes Pénée Prothoos 40 thuyền 4 800 quân
Quân đội thành Troie do Hector, con trưởng vua Priam, làm Nguyên Soái. Được sự chi viện bởi quân các thành lân cận, khoảng trên 50000 quân .
VÙNG TƯỚNG CHỈ HUY SỞ TRƯỜNG
Dardaniens. Énée, Acamas, Archélochos cung kiếm, trận đồ
Zéleia Pandaros cung nỏ
Adrestée Adrastos, Amphios sấm độn, tiên tri
Perkotès Arisbès, Asios luyện thuần ngựa hoang
Pélasges Hippothoos, Pylaetos lao dài danh tiếng
Thraces, Acamas Piroos
Cicones Euphémos thương dài sắt nhọn
Péoniens Pyraichmès nỏ cong
Paphlagoniens Pylaiménès nuôi la
Halizones Odios, Epistrophos giàu quặng mõ
Mysiens Chromis, Ennomos
Phrygiens Phorvys, Ascage
Méoniens Mesthlès
Cariens Nastès, Amphimachos nữ trang
Lyciens Sarpédon, Glaucos
Đoạn thơ này, có rất nhiều địa danh Hy Lạp, các bản dịch các nước đều dịch theo ngôn ngữ nước mình. Nền văn hoá La tinh, đã chuyễn ngữ hầu hết các tên Hy Lạp ra La Tinh ví dụ như Zeus thành Jupiter, Aphrodite thành Vénus, Hán Việt dịch thành Vệ Nữ.. Các ngôn ngữ Tây phương đều viết theo tiếng La Tinh. Bản dịch tiếng Pháp, Pháp hóa theo tiếng Pháp, bản dịch tiếng Anh, viết theo ngôn ngữ tiếng Anh, bản dịch Trung Quốc phiên âm thành chữ Hán, bản dịch tiếng Nhật phiên âm theo tiếng Nhật. So lại cùng một địa danh, một tên người mỗi nước đọc khác nhau, người Hy Lạp nghe cũng không hiểu, vì đâu Hélène tên người con gái đọc thành nàng Hy Lạp, nước Hy Lạp, còn chữ Grèce lại không dịch. Do đó tôi mạnh dạn Việt hóa các địa danh Hy Lạp, chọn một tên âm giống gần kề, đơn giản bớt các chữ đa âm còn hai âm, hay gần nghĩa, điều kiện duy nhất là làm đẹp câu thơ. Tôi kèm theo bên cạnh tên đã được phiên âm theo tiếng Pháp, vì chữ Hy Lạp khác vần A, B, C khó đọc được. Trải qua ba ngàn năm phần lớn các địa danh đều thay đổi tên, trừ các nơi danh tiếng được Homère mô tả. Việc truy tầm các địa danh, ít nhà nghiên cứu thực hiện được.
ĐIỂM BINH QUÂN THAM CHIẾN THÀNH TROIE
Hỡi Thi Thần chốn Thiên Sơn, 1091
Nữ Thần chứng kiến trận tiền liệt oanh.
Biết từng hào khí anh hùng,
Lời thơ dậy sóng chiến trường ngàn năm.
Ai là các tướng Đa Niên,
Sử xanh còn đó họ tên lưu truyền.
Muôn binh đến tự các miền,
Chiến trường ai kể đến tên được nào ?
Từ mười ngôn ngữ khác nhau,
Quân trung mười miệng truyền trao lệnh truyền. 1100
Tiếng loa sang sảng ngực đồng,
Khắc ghi chín chữ Thi Thần Thiên Sơn.
Ái Nữ Thần Dớt mang khiên,
Dục về trận chiến, chiến trường Ý Long.
Ai chủ tướng, Vua các miền ?
Tên anh hùng đó bao thuyền hội quân.
Chỉ huy đoàn quân Bảo Liên (Béotiens),
Bế Niên, Lỗ Tố và cùng quân cơ.(Pénéléos,Löitos)
Đạt Lê, Bồ Tố , Cổ Nơ, (Archésilas, Prothoénor, Clonios)
Chỉ huy binh đội mang cờ Hy A (Hyria). 1110
Âu Ly núi thạch sơn hà,(Aulys)
Sô Nông, Cổ Tố cùng ra chiến trường.(Schoinos, Scôlos)
Âu Tôn, Thế Phi, núi non,(Etéone, Thespie)
Và Mỹ Ca Lệ vùng đồng đông dân.(Mycalèse)
Hạc, Y, Ê châu chung quanh,(Harma, Ilèse, Erythra)
Anh Long, Hy Lệ, Bế Tôn kề gần.( Eéon, Hylé, Bétéon)
Ô Ca, Mê Độ kinh thành, (Ocalée, Médéon),
Cô Bát, Âu, Thích xứ vùng bồ câu. (Copas, Eutrésis, Thisbé)
Cô Rô, An Lạc xanh màu (Coronée, Aliarte),
Pha Tôn, cai trị dân cư mạnh giàu (Platée). 1120
Hy Bô thành vững hào sâu (Hypothèbes)
Ly Sát cư ngụ nối nhau trị vì. (Glisas)
Anh Tố thánh nữ đức tài, (Onchestos)
Hải Long xinh đẹp, rừng dài thông xanh.(Poséidon)
Hạc Na nho trái đầy đồng (Arna)
Mi, Ni, An Thế giáp vùng biên cương (Midée, Nisa, Anthédon))
Hội quân năm chục thuyền đen.
Một trăm hai chục thanh niên mỗi thuyền.
Đến quân dân Đạt Pha Long (Asplédon);
Ốc Cô Mai với dân thành Minh Nguyên (Orchomène, Minyens ) 1130.
Đạt Ca La Phổ tướng quân (Ascalaphos)
Ý An Mê Nộ anh hùng tướng quân,(Ialménos)
Con trai Thần Chiến và cùng,
Anh Thy công chúa tiết trinh đợi chờ. (Astyosché)
An Đê tôn tử, Ất Tơ,(Azée, Actor),
Lầu cao thêu gấm hững hờ sắc duyên.
Nào ngờ Thần Chiến đến bên,
Tay hùm cưỡng bức cho nàng hoài thai.
Sinh con dũng tướng cõi người,
Hợp quân mang đến ba mươi chiến thuyền. 1140
Đến đoàn quân dân Phổ Liên,(Phocéens)
Chế Đô thống lĩnh đội quân kiên cường (Schédios)
Và tướng Âu Bích anh hùng (Epistrophos)
Anh Phi Tô công tử vốn dòng Nam Bô, (Iphitos, Naubolos)
Chi Ba Sĩ Tố cơ đồ, (Cyparissos)
Phi Thông núi đá bên bờ Kim Sa, (Python, Crisa),
Đô Ly, Ba Lộ sơn hà, (Daulis, Panopée)
Đạt Ninh, Hy Phạm cùng ra chiến trường. (Arnémorie, Hyampolis)
Chân Phi bờ biển cát vàng (Céphise),
Ly Lê hùng cứ suối nguồn ấm no.(Lilée) 1150
Bốn mươi thuyền chiến binh cơ,
Giáp binh, chiến tướng bên bờ tả quân.
Bồ Liên gươm giáo trùng trùng,(Boétiens)
Nhịp quân vang bước oai hùng trang nghiêm.
Đến đoàn binh quân Lỗ Liên,(Lociens)
An Bắc thống lĩnh binh đoàn gọn nhanh (Ajax)
Ô Lê tôn tử bé con (Oilée)
Trùng tên An Bắc vai hùm lớn cao,
Thế La tôn tử khác nhau (Télamon)
Giáp mềm nhưng vác ngọn sào trường thương. 1160
Vượt xa tướng sĩ An Kinh,
Quân dân cư ngụ nơi vùng Sĩ Nô (Cynos).
Ô Bông, Can Lý A Rô (Oponte, Calliaros)
Bắc Sa , Cát Phổ và hồ Âu Lê.(Besse, Scarphé, Augée)
Tà Phê, Thổ Nốt, Bồ Khê (Tarphé, Thronios, Boagre),
Bốn mươi thuyền chiến cùng về hội quân.
Dưới quyền An Bắc anh hùng,
Quân Lô Liên hội quân thuyền tiến công. (Lociens).
Vùng Âu Bể, dân An Băng (Eubée, Abantes)
Lên đường hồ hỡi, công thành quân Troa. 1170
Thanh Chi, Âu, Ích đồng nho,(Chalcis, Érétrie, Istia)
Di Ông (Dion) cao ngất thành đô kiên cường,
Kê Thanh bờ biển cát vàng, (Cérinthe)
Ca Thi (Carystos) hùng cứ, dân vùng Ty Ra (Styra,
Âu Công (Éléphénor) cai trị sơn hà,
Cháu dòng Thần Chiến (Arès) con nhà San Đông (Chalcosdon).
Thủ lĩnh hào hiệp An Băng,(Abantes)
Tóc dài phủ gáy, nhanh chân chiến trường.
Ngọn thương sắc bén kiên cường.
Đâm lồng ngực giặc, giáp đồng thủng xuyên. 1180
Hội quân bốn mươi thuyền đen.
Đoàn quân thiện chiến khắp miền lừng danh.
Đến đoàn quân Quán Trí Thành (Athènes),
Kinh thành vững chải, trấn vùng Rạch Thê (Erechthée).
Trái tim rộng đón nữ khuê,
Ái nữ Thần Dớt sinh về nơi đây.
Đền cao hùng tráng dựng xây,
Bò cừu tế lễ, năm ngày hội vui.
Phi Tô, Mai Thiết tướng tài (Pétéos, Ménesthée) tướng tài,
Khắp trong thiên hạ, sánh binh hùng. 1190
Kỵ binh, khiên giáp, thương đồng,
Ninh Tô Vương lão(Nestor) sánh đồng sức ngang.
Tuổi cao từng trải chiến trường,
Binh năm mươi chiếc thuyền đen về cùng .
Đóng cùng Trí Thành binh đoàn (Athènes).
Sa La Minh tôn tử anh hùng lừng danh.(Ajax Salamine)
Dẫn theo mười hai chiến thuyền,
Về đây chung sức góp quân công thành.
Đạt Quốc vùng đất đồng bằng (Argos).
Ty Thanh kiên cố lũy thành ngất cao.(Tirynthe) 1200
Hạc Môn, An Sĩ kề nhau (Hermione, Asiné),
Chế ngự biển cả, vịnh sâu thương thuyền.
Tri Đô, Phi Đỗ, Âu Ôn (Trézène Épidaure, Eiones)
Âu Linh, Mã Sách với đồng nho xanh. (Egine,Masès)
Những chàng trai trẻ An Kinh,
Đỗ Minh (Diomède) thống lĩnh lừng danh trận tiền.
Tiếng hô sang sảng vang rền,
Thế Lộc phó tướng, anh hùng Kha Ba.(Sthénélos, Capanée).
Âu Dương là tướng thứ ba (Euryale)
Mai Chi tôn tử là vua hùng cường. (Mécisthée) 1210
Tả Lộc con cháu giống dòng, (Talaeos)
Lừng danh sức mạnh như thần hiên ngang.
Dưới trướng Đỗ Minh anh hùng (Diomède)
Tám mươi thuyền chiến đen đồng giáp binh.
Đến My Liên giàu bạc vàng, (Mycènes)
Cô Thanh, Kê Ốc kinh thành nguy nga. (Corinthe, Cléones)
Cùng dân cư Ốc Nê A, (Orneia)
Ái Thy đáng mến cùng là Sĩ Côn, (Araithyrè, Sicyone)
An Đắc cát cứ một vùng (Adraste)
Hy Bê Kê Sĩ và đồng Cô Khê (Hypérésie, Gonoesse) 1220
Băng Lê, An Lộc cùng về (Pellénè, Aegialos)
Đồng bằng Hy Lý thuyền bè hùng binh,
Đông quân nhất trăm chiến thuyền,
Chỉ huy An Trích Đại Vương anh hùng (Atride Agamemnon),
Uy nghi giáp phục, trượng thần,
Chỉ huy toàn thể anh hùng An Kinh,
Anh vua Mai Ninh hùng anh (Ménélas),
Vì em đốc xuất tinh binh chiến thuyền.
Dến quân La Thế Đệ Môn, (Lacédémone)
Pha Ly, Xích Bạc đầy đồng bồ câu (Phraris, Sparte) 1230
Bi Lê, Âu Khê ngụ cư, (Brysée, Augéia)
An My, Ân Lộc trấn từ La Nga (Amyclas, Eloa, Laas)
Quang vùng Ốc Ty quê nhà (Oetylos),
Vua Mai Ninh Lộc xông pha chiến trường, (Ménélas)
Em ruột An Gia Đại Vương,
Sáu mươi thuyền chiến hùng cường giáp binh.
Anh hùng nung nấu nỗi tình,
Mất Hạ Lan nỗi hận lòng không quên.(Hélène)
Đến Phi Lô xứ hùng cường,(Pylos)
An Liên, Thy Ốc và vùng An Khuê (Arènè, Thryon, Alphée) 1240
An Phi thành vững gần kề, (Aepy)
Chi Ba, Am Phí cùng về Phi Long (Cyparissè, Amphigénia, Ptéléon)
Âu Lộc và thành Đô Long (Elos, Dorion)
Nơi Thi thần cất tiếng lòng ca thanh,
Vua Ninh Tô, Chiến Xa Công, (Nestor),
Chín mươi thuyền chiến hùng cường vạn quân.
Đền Đạt Ca Ly hùng binh (Arcadie),
Dưới Chi Liên, mộ anh hùng Phi Tô (Cyllène, Aepytos),
Nổi danh cận chiến hạ cờ,
Ốc Cô, Phê Ốc cừu bò đồng xanh,(Ochomènê, Phénéos). 1250
Chi Bê, Sa, Tế đồng bằng (Shipé, Stratì, Epipè),
Tê Gê, Mân Tị trấn vùng Phú Lô, (Tégée, Mantinée, Stymphélos)
Dân cư Phan Cát ấm no,(Parrhasiè)
Tôn tử An Ca lộc, An Gia Phê Nô anh hùng (Ankannéos, Agapénor)
Sáu mươi thuyền chiến chở quân,
An Gia Vương tặng chiến thuyền quân trang.(Agamemnon)
Hùng binh đông đảo mỗi thuyền,
Quân vương An Trích lo phần chở chuyên (Atride),
Đưa qua biển sóng rượu vang,
Vì quân miền núi, biển ngàn không quen. 1260
Đến đoàn quân Bồ Phá Sơn (Bouprason)
Vùng Âu Lịch đến kinh thành Nguyệt Sơn (Elide, Myrsine)
Hy Minh thành phố biên cương, (Hyrmine)
Ô Lê núi đá An Sơn địa đầu (Olénie, Alésion).
Mỗi binh đoàn mười chiến thuyền,
Bốn binh đoàn chỡ qua miền Âu Biên. (Épéens)
Âm Phi, Thái Bắc tướng quân, (Amphimachos, Thapios)
Tôn tử Tề Lộc anh hùng lừng danh (Ctéatos).
Hạc Tô con cháu giống dòng (Actor),
Tôn Tử An Mã tiếng danh lưu truyền (Amarynkée). 1270
Tướng quân Đô Thiết anh hùng,(Diorès )
Bồ Sâm thống lĩnh binh đoàn thứ tư (Polyxène)
Âu Giác dòng dõi anh thư, (Augias)
Con vua Gia Thế đẹp như thiên thần. (Agathénès)
Đến quân Âu Tần, Đông Chân, (Échines-Doulichion),
Đối mặt Âu Lịch hai hòn đảo thiêng, (Elide)
Mai Giác thống lĩnh chiến thuyền, (Mégès)
Phi Lê tôn tử sức thần ngợi ca. (Phylée)
Dòng Thần Vương giỏi chiến xa,
Bốn mươi thuyền chiến xông pha chiến trường. 1280
Uy Lĩnh tướng Chế Phan Niên, (Ulysse,Céphalléniens)
Vua quân An Thạch núi miền đảo xanh. (Ithaque)
Núi Nễ Sơn vẫy lá cành, (Nériton)
Tiễn quân Cổ, Lý hùng anh lên đường (Crocylée, Aegilip).
Dã Thanh, Sa Mô đảo cồn,
Và vùng lục địa đồng xanh kề gần.
Đội quân mười hai chiến thuyền,
Uy Lĩnh thống lĩnh oai nghiêm như thần.
Thọ Kha chủ quân Tố Liên (Thoas, Etoliens),
An Đại tôn tử dân vùng Lệ Sơn (Andraimon, Pleuron). 1290
Phi Liên, Thanh Lý, Lệ Môn (Pykène, Chalis, Olénon),
Vùng dọc bờ biển và hòn Ly Đông,(Calydon)
Ô Vương Mai Lạc từ trần,(Oenée, Méléagre),
Không con trai để nối dòng lên ngôi.
Thọ Kha dũng tướng anh tài, (Thoas),
Triều đình đề cử lên thay trị vì.
Âu Liên vương quốc quyền uy,
Bốn mươi thuyền chiến quân đi biển ngàn.
Đến Kiết Toa, Anh Đô Mai Vương, (Crétoie, Idoménée)
Trường thương danh tiếng, chiến trường dọc ngang. 1300
Cổ Sơn, Quốc Tinh hùng cường (Cnossos, Gortyne),
Thành cao hào lũy, phố phường phồn vinh,
Lý Tô, Mỹ Lệ kinh thành, (Lyctos, Milet),
Ly Ca, Pha, Ry dân lành thảnh thơi. ( 5Lycastos, Phaestos, Rytion)
Xứ Kiết trăm phố thành vui, (Crète)
Mê Long phó tướng sánh vai anh hùng.(Mérion)
Như Ân Lộc tiếng lẫy lừng, (Enyalos),
Tám mươi thuyền chiến ra quân vây thành.
Thế Bồ, Hùng Kiệt giống dòng (Tlépolème, Héraclès),
Lớn cao gan dạ chiến trường xuất chinh. 1310
Đảo Rốt đem chín chiến thuyền,
Chia ba phó tướng quân cùng chỉ huy.
Linh Đô, Du Lộc, Ca My (Lindos, Iésulos, Camire),
Sức thần Hùng Kiệt uy nghi anh hùng (Héraclès).
Lớn trong cung điện vững bền,
Đóng thuyền hùng cứ một vùng biển khơi.
Rồi chiêu binh mã tranh ngôi.
Giết ông cậu nắm cơ ngơi triều đình.
Lý Xiêm già yếu bại vong,(Lycymmios).
Các con cháu chẳng đảm đương binh quyền. 1320
Trị ba bộ tộc hùng cường,
Nước giàu hùng mạnh Thần Vương trị vì.
Ni Vương Sĩ Mê chỉ huy,(Nirée de Symè)
Ba chiếc thuyền chiến đi ra chiến trường.