Sự thật về Quan Lớn Tuần Tranh
CAO LỖ – VƯƠNG QUAN ĐỀ NGŨ TUẦN TRANH- SỰ THẬT LỊCH SỬ VỀ VỊ ANH HÙNG ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM CHỐNG NGOẠI XÂM Vũ Ngọc Phương Trong tín ngưỡng thờ hệ thống các vị Thánh trong Đạo Thánh Mẫu Việt, hiện vẫn có lễ hội tôn thờ Đức Thánh Quan đệ ngũ Tuần Tranh. Họ tên của Vị ...
CAO LỖ – VƯƠNG QUAN ĐỀ NGŨ TUẦN TRANH- SỰ THẬT LỊCH SỬ VỀ VỊ ANH HÙNG ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM CHỐNG NGOẠI XÂM
Vũ Ngọc Phương
Trong tín ngưỡng thờ hệ thống các vị Thánh trong Đạo Thánh Mẫu Việt, hiện vẫn có lễ hội tôn thờ Đức Thánh Quan đệ ngũ Tuần Tranh. Họ tên của Vị thánh này dần được sáng tỏ nhiều năm qua một số giá hầu đồng riêng biệt, khác nhau cả về địa điểm cũng như địa phương. Đã có những phương pháp đối chiếu đủ để chứng minh rằng không có sự liên hệ giữa các Thanh Đồng khi được Thánh giáng cho biết tên của Ngài là Cao Lỗ – Đây là một nhân vật lịch sử đã được ghi trong Đại Việt Sử ký toàn thư, Ngoại kỷ quyển I – Kỷ Nhà Thục như sau:” Vua ( An Dương Vương) sai bề tôi là Cao Lỗ (Có bản chép là Cao Thông) làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy nỏ, đặt tên là Linh quang kim trảo thần nỏ”.
Theo các chứng cứ này, đối chiếu thư tịch thì Cao Lỗ (Chưa rõ họ và năm sinh – mất 179 trước Công nguyên, có một số thư tịch cổ lại ghi tên ông là Cao Nỗ, Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Thần Đô Lỗ Thạch Thần) là một Đại thần – Danh Tướng của Thục Phán An Dương Vương. Ông sinh ra tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay (thời Hùng Vương là bộ Vũ Ninh, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán thuộc quận Giao Chỉ là đất của hai huyện Long Biên và Luy Lâu. Qua nhiều triều đại đổi tên khác nhau. Xem bản đồ Hồng Đức năm thứ 21 ghi là xứ Kinh Bắc, sau đổi là Trấn.Năm Minh Mệnh thứ 3 đổi làm trấn Bắc Ninh. Minh mệnh năm thứ 13 gọi là Tỉnh Bắc Ninh).
Ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát) mà còn được gọi là nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô tại nơi xưa là đất kinh đô nhà nước Việt Thường, và Cao Lỗ là người được An Dương Vương giao cho xây thành Cổ Loa. Xưa xã Cổ Loa thuộc huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh, sử viết thành Cổ Loa rộng ngàn trượng (1 trượng = 1,65 m, như vậy chiều rộng khoảng 1,650.mét) quanh co như hình trôn ốc nên gọi là Loa Thành, lại có tên là Tử Long Thành. Người Trung quốc gọi là Côn Lôn thành vì thành rất cao – Đại Nam nhất thống chí, sách đã dẫn.
Cũng theo một số truyền thuyết và một số bài hát văn chầu lễ Thánh Quan Lớn Tuần Tranh thì ông sinh ra tại Ninh Xá, Ninh Giang, tỉnh Hải Dương ngày nay.
Vào thời Hùng Vương thứ 18, Cao Lỗ là một vị Đại Tướng kỳ tài của nước Văn Lang độc lập, ông được giao hợp nhất quân với Tây Âu Lạc của Thục Phán để Cao Lỗ thống lĩnh chống 50 vạn quân Nhà Tần do Đồ Thư cầm đầu tiến quân vượt sông Dương Tử về phía nam xâm lược Bách Việt. Sau khi đã chiếm hết vùng Ngô Việt, Mân Việt, . . . Quân Tần tiến vào vùng đất của người Lạc Việt. Người Lạc Việt rút vào giữ nơi hiểm yếu cầm cự với quân Tần. Lâu ngày, quân Tần hết lương, người Việt ra đánh giết mấy chục vạn quân Tần cùng Đồ Thư. Nhà Tần phải rút chạy về nước ( Hoài nam Tử, Sử ký, sách đã dẫn).
Đây là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm lần thứ nhất của người Việt được sách sử và thư tịch, truyền thuyết, tín ngưỡng dân gian cả Việt nam và Trung quốc đều có ghi chép.
Sau khi Thục Phán hợp nhất Văn Lang và Tây Âu Lạc thành nước Âu Lạc về đóng đô ở Cổ Loa theo ý kiến của Cao Lỗ. Ông được An Dương Vương trọng dụng giao cho việc xây đắp thành Cổ Loa, tổ chức và luyện tập quân đội trở nên hùng mạnh. Ông cũng là người phát minh ra nỏ liên châu, loại vũ khí đánh xa rất có uy lực thời cổ. Ông đã thống lĩnh quân đội Âu Lạc nhiều lần đánh thắng quân xâm lược của Triệu Đà lúc đó là Nam Việt Vương từ vùng Lưỡng Quảng tấn công xâm lược lãnh thổ Lạc Việt. Quân Việt Âu Lạc được ông rèn luyện, có vũ khí đánh xa là hàng nghìn nỏ liên châu có thể bắn ra cùng lúc hàng vạn mũi tên đồng đã đánh bại quân Triệu Đà.
Vì có công lớn nên ông được giao chức vụ đứng đầu trong Triều đình. Ông đem lòng yêu công chúa Mị Châu – con gái An Dương Vương Thục Phán, nhưng Mị Châu lại phải lòng Trọng Thủy là con Triệu Đà được nhiều lần đi sứ cầu hòa đến An Dương Vương. Thấy quân lực Âu Lạc hùng mạnh, biết không thể đánh bại bằng quân sự, Triệu Đà dùng mưu đưa con Trọng Thủy lấy công chúa Mị Nương để tìm bí mật về tổ chức quân sự và quy cách vũ khí nỏ liên châu. Cao Lỗ can ngăn An Dương Vương không cho Mị Châu lấy Trọng Thủy, vì thế An Dương Vương bắt đầu nghi ngờ Cao Lỗ, nên vẫn cho đồng ý kết thông gia với Triệu Đà mà tin rằng sự hòa hiếu để tránh được chiến tranh xâm lược của Nam Việt ( Sách đầu tiên ghi việc Trọng Thủy lừa Mị châu là sách Giao châu ngoại vực ký do Thủy Kinh chú đã dẫn quyển 14). Sau đó Trọng Thủy trở về Nam Việt trình lên vua Nam Việt Vương Triệu Đà tất cả bí mật về quốc phòng của Âu Lạc.
Quân Triệu Đà tấn công, nhưng không giành ngay được thắng lợi tuyệt đối. Nỏ liên châu cũng không còn phát huy tác dụng như trước vì quân Triệu Đà đã có cách chống lại. An Dương Vương cho rằng Cao Lỗ đã để lộ bí mật quân sự, lại thêm một số quyền thần vốn ghen ghét sàm tấu thêm khép ông vào tội chém. Nhưng vì ông có công lớn, trong án có những sự không sáng tỏ bởi vậy nên Triều đình chỉ bãi hết chức đầy Cao Lỗ lên vùng biên ải (nay là tỉnh Lạng Sơn).
Do bị oan ức không thể giãi bầy được, lại thêm tính cương trực không chịu khuất, khi đến nơi đi đầy, quân áp giải vừa mở gông cùm, Cao Lỗ đã thề lấy cái chết để rõ mình vô tội và nhẩy xuống sông Kỳ Cùng tự vẫn. Sau khi ông chết ngày 25/5 năm Nhâm Thân ( năm 179 Tr.CN), triều đình chia rẽ, quân đội Âu Lạc không có Cao Lỗ thống lĩnh đã thất bại hoàn toàn trước sức tấn công của quân Nam Việt của Triệu Đà vào năm Giáp Tý (năm 177 Tr.CN). An Dương Vương thua chạy đem theo con gái Mị Châu. Trên đường trốn chạy, theo ước hẹn, Mị Châu đã rắc lông ngỗng để báo cho Trọng Thủy tìm theo, vì vậy An Dương Vương không thể thoát, trước khi chết, An Dương Vương đã chém Mị Châu. Đây chính là truyền thuyết Mị Châu -Trọng Thủy nổi tiếng trong văn học dân gian Việt Nam còn lưu truyền đến ngày nay. Nước Âu Lạc bị diệt, rồi bị chiếm nhập vào Nam Việt của Triệu Đà mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất trong lịch sử Việt Nam.
Sau khi ông chết, dân Việt nhớ ghi công đức lập đền thờ ông tại nơi ông tuẫn tiết ở bên sông Kỳ Cùng và tại nơi ông hiển linh là bến Tranh xã Ninh Giang, huyện Vĩnh Lại (nay là Ninh Giang, tỉnh Hải Dương bây giờ). Nơi đây còn được coi là quê nhà của Quan Lớn Tuần Tranh vì cho rằng ông là quan văn ( Thái thú) ở Hồng Châu, có vợ là Dương thị, mà cơ sở là lấy từ truyện “ Chuyện đối tụng ở Long Cung” trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ viết vào thời nhà Mạc.
Hải Dương xưa vào thời Hùng Vương là bộ Thanh Tuyền, đời Tần Hán thuộc Giao Chỉ. Đến đời nhà Trần đổi là Lộ Hải Đông vì đất ấy có chỗ là biển. Năm Quang Thuận thứ 7 đặt Nam Sách thừa tuyên gồm 4 phủ là Thượng Hồng, Hạ hồng, Nam sách và Kinh Môn có tất cả 18 huyện. Phủ Hạ Hồng có 4 huyện là Trường Tân, Tứ kỳ, Vĩnh Lại, Thanh Miện – Theo Đại Nam nhất thống chí, sách đã dẫn.
Đại Nam nhất thống chí ghi về tỉnh Bắc Ninh có Đền Cao Công:” Ở bờ sông xã Đại Than, huyện Gia Bình, bên cạnh đền có tảng đá lớn dựng đứng. Ngoại kỷ Sử ký ghi đời Đường, Cao Biền đi đánh phương Nam qua châu Vũ Ninh, đêm mộng thấy thần về xưng là Cao Lỗ nói ngày trước ta giúp An Dương Vương chế nỏ thần gọi là Linh quang kim trảo thần nỗ, có công đánh lui giặc, rồi bị Lạc Hầu gièm pha, sau khi mất, Thượng Đế thương là người trung nghĩa cho cai quản ở đây. Cao Biền tỉnh dậy đêm việc ấy nói với thuộc hạ rồi đề thơ ở miếu. Sách Tục bác vật chí viết An Dương Vương có thần nhân là Cao Thông chế nỏ mỗi lần bắn giết được 200 người”.
Đền Tranh hay đền Quan Lớn Tuần Tranh thuộc xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế. Thời Lê và thời Nguyễn gọi là huyện Vĩnh Lại (thị xã Ninh Giang hiện nay). Hơn hai nghìn năm qua, hàng năm có lễ hội rất lớn ngày sinh của ông là ngày 14/2 Âm lịch, và ngày giỗ kỵ 25/5 Âm lịch. Ông hiển Thánh là một Vị quan lớn là Đức Thánh Vương quan đệ Ngũ của Đạo Thánh Mẫu Việt. Các giá hầu đồng về ông đều mặc áo bào mầu tím và cầm thanh đại đao như khi ông còn sinh thời đánh giặc ngoại xâm.
Văn lễ Đức Thánh Quan Lớn đệ ngũ Tuần Tranh có rất nhiều bản khác nhau, sau đây là một trong những bản văn chầu Ngài đã góp phần ghi công tích trong lịch sử chống ngoại xâm của Dân tộc Việt Nam:
Ra uy lẫm liệt tung hoành,
Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài,
Văn Lang thời ấy là ai,
Chỉ huy quân Việt diệt loài ngoại xâm,
Ninh Giang chính quán quê nhà.
Ông là Đại tướng danh là Tuần Tranh
Nào ngờ thời vận đổi thay
Đình thần vốn đã tỵ hiềm
Án oan quy tội cho người trung lương
Chỉ vì công lớn, oan gia
Không sao gỡ tội phải ra tội tù.
Lệnh viễn xứ đầy đi,
Sơn cùng thủy tận ngã ba Kỳ cùng.
Anh hùng mang nặng xiềng gông,
Áo chiến bào giờ đã nhuốm mầu chàm xanh
Lòng trung lương nào ai hay biết,
Có trời xanh mới tỏ tâm can
Trẫm mình đáy nước minh oan
Sông Kỳ Cùng rửa hết nhục oan cho người
Đọc:
Ninh Giang chính quán quê nhà,
Danh lam Thánh tích một tòa ngôi cao.
Cảnh Thiên thai Quan Tuần ngự giá
Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài.
Phú:
Nước Âu Việt vào đời Thục phán,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng
Triều đình ra lệnh tiến binh
Thuyền về một bến sông Tranh rợp trời.
Công quốc gia,
Thượng đẳng Thánh linh
Anh hùng mở mặt giang sang
Lưu danh thiên cổ
Vẻ vang giống nòi
Thơ:
Sông Tranh ơi hỡi bến sông Tranh,
Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh,
Ai về qua bến sông Tranh
Nhớ người tráng sỹ tài danh tuyệt vời.
Hơn 2,180. năm sau khi vị Anh hùng chống ngoại xâm của Dân tộc Việt Nam Cao Lỗ chết oan, danh tính chính thức tên ông mới được xác nhận qua nhiều Thánh Lễ hầu đồng của Đạo Thánh Mẫu Việt. Tên của Ngài – Cao Lỗ đã hy sinh vì Nước rồi hiển linh là một trong 72 Vị Thánh trong Đạo Thánh Mẫu Việt đã làm vinh danh cho tinh thần quật khởi chống ngoại xâm dân tộc và tiêu biểu cho nền Văn minh rực rỡ của Dân tộc Lạc Việt. Sự xác nhận chính danh của Quan Lớn Tuần Tranh là Cao Lỗ đã làm vinh quang rạng rỡ cho Vị Anh Hùng cứu nước đầu tiên của Dân tộc Việt Nam. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm này là cơ sở để xác nhận chính xác nguồn gốc, họ tên, thánh tích của Vị Anh Hùng Dân tộcViệt đã hiển Thánh trong Đạo Thánh Mẫu Việt, đồng thời cũng là thực hiện tâm nguyện của các bậc Tiên Liệt là không có ai là người anh hùng vô danh.
THAM KHẢO
Đền thờ Vương Quan đệ ngũ Tuần Tranh
Cổng đền Tranh- Ninh Giang
Đền Tranh, còn gọi là đền Quan Lớn Tuần Tranh, là một ngôi đền cổ Việt Nam, thờ vị thần sông nước cai quản khúc sông ở gần bến đò Tranh, thuộc xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Thời Trần, tại vùng ngã ba sông Tranh giao với sông Luộc, người dân đã lập ra một ngôi đền thờ vị thủy thần cai quản khúc sông này. Ngôi đền này ban đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ nằm sát bến sông, vì vậy thường bị tác động của thủy triều và dòng nước xoáy. Do bờ sông thường bị xói lở nên đến năm 1935, người dân lập một đền thờ mới tại làng Tranh Xuyên (nay thuộc thị trấn Ninh Giang). Ngôi đền mới này vẫn được dân chúng giữ tên cổ gọi là Đền Tranh.
Đến giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX, đền Tranh được tôn tạo với quy mô khá lớn, kiến trúc theo kiểu Trùng thiềm điệp ốc với những cung và gian thờ khác nhau. Năm 1946, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, nhiều hạng mục ngôi đền bị tháo gỡ.
Đến những năm 60 của thế kỷ XX, đền được chuyển về phía bắc của thị trấn Ninh Giang cách đền cũ khoảng 300m, nay thuộc địa phận thôn Tranh Xuyên, xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang. Đền Tranh qua ba lần chuyển dời cùng nhiều lần trùng tu tôn tạo, đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử và tích hợp được nét đẹp của văn hóa Việt. Căn cứ vào hệ thống bia ký tại đền cho biết, vào năm Tự Đức thứ 5 (1852) đền đã có nhiều người công đức để tu tạo.
Khi thực dân Pháp chiếm tỉnh Hải Dương và Ninh Giang, xây đồn bốt gần khu vực đền nên nhân dân chuyển đền về phía Bắc đền cũ ( hiện nay là doanh trại Lữ đoàn 513 Quân khu 3). Từ năm 1941 đến 1945, đền Tranh được tôn tạo rộng lớn, kiến trúc theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc”, 5 nếp nhà nối liền nhau.
Năm 1946, thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” các nếp nhà của đền lần lượt được tháo dỡ, chỉ để lại cung cấm làm nơi thờ tự.
Năm 1954, đền Tranh được phục dựng lại để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân.
Năm 1966, do nhu cầu mở rộng doanh trại của quân đội, nên nhân dân địa phương cùng Lữ đoàn 513 chuyển 3 gian hậu cung về dựng tại địa điểm mới, cách đền cũ 300m về phía Bắc như vị trí hiện nay.
Năm 1996, được phép của UBND tỉnh Hải Hưng, đền được xây dựng 7 gian tiền tế; Ngày 3 tháng 6 năm 1999, khởi công xây dựng nhà trung từ; năm 2004 hoàn thành việc xây dựng nghi môn và tòa hậu cung, năm 2006 xây dựng đông vu và nhà hóa sớ. Công trình hiện nay khá hoành tráng với kinh phí xây dựng do nhân dân công đức. Đền Tranh là nơi tập trung và phong phú nhất về tín ngưỡng dân gian mà điển hình là nhân vật huyền thoại Quan Lớn Tuần Tranh.
Một công trình làm nổi bật diện mạo thị trấn Ninh Giang trước năm 1947 đó là ngôi đền uy nghi nằm ở phía Tây Bắc, nay nằm ở khuôn viên đơn vị công trình. Đền Tranh thờ thần và đặt trong khám và đây đó trên xà trên khung cửa được gắn những rắn thần bằng vải nhồi bong màu sặc sỡ, ban đêm được ánh điện soi sang lấp lánh cửa đồ thờ, hương án làm tăng thêm vẻ uy nghi vốn có của nơi thờ tự.
Trong dân gian truyền tụng là” đền thiêng lắm, linh ứng lắm, cầu gì được lấy”nên hàng năm kỳ mở hội, khách thập phương từ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định vv… về trẩy hội khá đông. Lễ hội được mở từ ngày 14/2 âm lịch. Ngày rước thần có những ông đồng, bà đồng “xiên lình” thủng qua hai má của con người khi được Thánh linh ứng, sau khi rút thanh thép xiên qua mặt ra lại liền như cũ không có sẹo, không chẩy máu.
Những sai lầm nghiêm trọng về sự thật lịch sử Quan Lớn Tuần Tranh
Câu chuyện truyền thuyết chi tiết về: “ Truyện ông Dài, ông Cụt” – Sự sai lầm này xuất phát từ việc lấy truyện của Nguyễn Dữ ( thời nhà Mạc) gán ghép vào lịch sử sự nghiệp Quan Lớn Tuần Tranh, chúng ta tham khảo dưới đây:
Đền Tranh còn có tên gọi là đền Quan lớn Tuần Tranh. Có tích kể rằng: “Tương truyền, Quan lớn Tuần Tranh là viên quan phủ Ninh Giang. Ngày xưa, tại bến sông Tranh, có hai con rắn dữ thường nổi lên quấy phá. Một hôm, chúng bắt đi nàng hầu xinh đẹp của quan. Vị quan này khởi kiện Diêm Vương. Rắn bị xử thua phải mang cả dòng họ dời đi nơi khác. Từ đó bến sông sóng yên nước lặng, nhân dân nhớ ơn vị quan phủ mà lập đền thờ, tôn là vị thần bảo vệ khúc sông”
Rằng Người là vợ chồng một nông dân nghèo và vợ chồng viên Tri phủ. Thần là thuồng luồng, Bạch Long Hầu( thần mưa), Long cung” truyện đối tụng ở Long cung” còn một chi tiết sau khi thuồng luồng ra hầu tòa và bị đày lên phương bắc thì ngôi đền bên bờ sông tường siêu, vách đổ, bia gãy rêu trùm.
Ngày xưa, có hai vợ chồng già làm ruộng một hôm đi ra ngoài đồng, thấy hai quả trứng lạ, nhặt đem về nhà. Được ít lâu, hai quả trứng nở ra hai con rắn rất khôn, hai vợ chồng đi đâu chúng nó thường bò theo. Hai người không con nên cứ nuôi chúng nó, xem như là con, thường ngày cho ăn uống tử tế. Một hôm, người chồng cuốc vườn, vô ý cuốc đứt một khúc đuổi của một con. Sau đó, vợ chồng mới gọi hai con rắn đặt tên cho là con Dài, con Cụt. Hai con rắn lớn lên, ăn rất tợn, nhà nghèo không đủ nuôi, chúng nó thường đi bắt gà, chó của hàng xóm mà ăn. Hai vợ chồng không nuôi nổi, mới đem thả xuống sông Tranh, bây giờ thuộc Hải Dương.
Hai anh em rắn Dài và Cụt được Thủy Vương nhận làm bộ hạ và cho cai quản cả một vùng sông rộng. Rắn Cụt tính khí dữ tợn hơn rắn Dài, hoành hành khắp vùng, làm cho dân chúng phải kiêng sợ gọi tên là ông Dài và ông Cụt. Có khi chúng bắt cả người, còn cướp súc vật là chuyện thường xảy ra. Ghe thuyền qua lại trên khúc sông, thường bị ông Cụt nổi sóng dữ tợn làm cho đắm. Cha mẹ nuôi ông Dài, ông Cụt thỉnh thoảng lại phải ra bờ sông van lơn xin con nuôi đừng làm hại người ta. Chúng cũng nghe theo được ít lâu, rồi lại đâu vẫn hoàn đấy. Có lần hai vợ chồng họ Trịnh đi thuyền qua đó, ông Cụt thấy người vợ là Dương Thị nhan sắc xinh đẹp, muốn bắt về làm vợ, cho hai người con gái bưng lễ vật đến hỏi. Hai vợ chồng hoảng sợ bỏ thuyền lên bờ trốn tránh. Nhưng rồi ông Cụt cho bộ hạ theo dõi, thừa một đêm mưa gió, bắt Dương Thị đem về dưới Thủy Phủ. Sáng ngày, người chồng theo dấu ra đến bờ sông chỉ còn thấy quần áo của vợ trút bỏ lại đó.
Người chồng không biết làm thế nào, đành nuốt hận đi đây, đi đó tìm người phép tắc thần thông để trừ ông Cụt. Một hôm, họ Trịnh gặp một ông già ngồi bói ở chợ, lân la hỏi mới biết là Bạch Long Hầu tức là Thần Mưa ở dưới Thủy Cung. Bạch Long Thần rẽ nước mời họ Trịnh về nhà mình ở dưới biển, giúp bàn việc kiện ông Cụt với Long Vương. Họ Trịnh đưa cái thoa của vợ nhờ người nhà Bạch Long hầu làm của tin để dò tìm Dương Thị ở dưới Thủy Phủ. Khi đã bắt liên lạc được với Dương Thị rồi, họ Trịnh bèn cậy Bạch Long Hầu đưa đến triều đình Long Vương để tố cáo tình địch đã cướp vợ mình. Long Vương cho đòi ông Cụt tới. Ban đầu ông Cụt còn chối cãi, toan làm dữ với họ Trịnh, nhưng đến khi Dương Thị ra kể lại sự tình bị ông Cụt bắt cóc, ép duyên, thì họ Trịnh liền được kiện. Long Vương xử cho Dương Thị trở về mặt đất với họ Trịnh, con của nàng sinh với ông Cụt thì giao lại cho ông Cụt. Ông Cụt bị đày đến ở sông Kỳ Cùng, thuộc về Lạng Sơn ngày nay. Ngày ông Cụt bị giáng chức đi đày, các loài thủy tộc đi theo tiễn chân đầy cả một khúc sông.
Đền Tranh một năm có ba mùa lễ hội. Hội tháng 2, từ ngày 10/2 đến ngày 20 / 2 âm lịch, trọng hội vào 14/2 âm lịch là ngày sinh của Quan lớn Tuần Tranh, đây là hội chính hàng năm. Hội tháng 5, từ ngày 20/5 âm lịch đến 25 / 5, trọng hội vào 25 là ngày hoá của Đức Thánh. Lễ hội đền Tranh có quy mô rộng lớn có nhiều khách ở các tỉnh phía Bắc và cả ở miền Nam ra dự Lễ, là Lễ hội lớn của Hải Dương, có sức hấp dẫn lạ thường, bởi thế khách thập phương đến đây rất đông. Không chỉ trong những ngày hội kéo dài tới 7 ngày. Những ngày thường cũng đông khách thập phương đến lễ và hát chầu văn.
Đền Tranh được dựng lại và tôn tạo trên địa phận thôn Tranh Xuyên xã Đồng Tâm. Không những đền được tôn tạo lại rất bề thế uy nghiêm mà còn được mở rộng rất nhiều, bên cạnh còn có chùa Tranh mới được xây dựng thêm. Không chỉ ngày hội mà ngày thường khách đến lễ cũng rất đông.
Đền hiện nay có 11 ban thờ:
1- Ban thờ Phật
2- Ban thờ Thánh mẫu
3- Ban thờ Ngọc hoàng Thượng đế
4- Ban thờ Ngũ vị tôn ông
5- Ban thờ Tứ phủ chầu bà ( Thiên phủ, Địa phủ, Thuỷ phủ, Nhạc phủ)
6- Ban thờ Quan lớn Tuần Tranh
7- Ban thờ Sơn trang.
8- Ban thờ Động chúa sơn lâm
9- Ban thờ Thành hoàng: Quý Minh và Vũ Đô Mạnh
10- Ban thờ Mẫu địa
11- Ban thờ Đức thánh Trần
Phần hội ở đây rất giản dị, đặc biệt phần lễ thì vô cùng phong phú và hấp dẫn. Những lời khấn ở đây hầu hết được viết thành thơ và được thể hiện bằng điệu chầu văn rất mượt mà , sôi nổi.Có thể nói, lễ hội đền Tranh là lễ hội hát chầu văn. Dưới đây là một trong những bài chầu văn hiện nay tại đền:
Văn hầu Quan Lớn Tuần Tranh
Chính quán quê nhà Ninh Giang,
Danh lam thắng tích một toà ngôi cao.
Lẫm liệt tung hoành uy gia,
Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài.
Cảnh Thiên thai Quan Tuần ngự giá,
Bộ tiên nàng thứ tự dâng huê.
Chầu thôi lại trở ra về,
Truyền quân dâng nước Thuỷ tề mênh mông.
Cảnh am thanh nhiều bề lịch sự,
Vốn đặt bầy tự cổ vu lai.
Có phen xuất nhập trang đài,
Đào lan quế huệ xum vầy xướng ca.
Phú:
Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
Đấng anh hùng cổ kim lừng lẫy,
Khắp xa gần đã dậy thần cơ,
Cửa sông đâu có phụng thờ,
Ninh Giang lại nổi đền thờ Tuần Tranh
Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
Bao phen đắp luỹ xây thành,
Khắc miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.
Thơ:
Sông Tranh ơi hỡi bến sông Tranh,
Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.
Ai về qua bến sông Tranh,
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
Bến sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
Thanh long đao năm xưa cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
Chỉ có thanh long đao Quan đệ ngũ, chính người trong phủ Ninh Giang
Nhưng nào ngờ đâu khi đất trời thay đổi,
Người anh hùng cổ mang nặng xiềng gông.
Ngày hai nhăm tháng năm, Quan lớn bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng.
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.
Trước cung điện, triều đình xét hỏi,
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
Quan lớn Tuần oan vì ong bướm lả lơi,
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.
Bắt đày chốn sơn cùng, thuỷ kiệt,
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
Gió lạnh sương sa vì đời bội bạc,
Sự ngay gian đảo lộn trắng đen.
Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
Lỡ hại người trong lúc phong ba.
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng.
Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ,
Nợ trần hoàn quyết trả cho xong.
Tháng hai vừa tiết trung tuần,
Thử lòng ông lão, mộng trần ứng ngay.
Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ,
Đôi bạch xà tựa cửa hôm mai.
Trí đã quyết khỏi vòng cương toả,
Hay đâu còn mắc nợ oan khiên.
Ngài vừa hay có lệnh ban truyền,
Quan quân tầm nã khắp miền sông Tranh.
Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
Cho sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn.
(Trích từ tài liệu du lịch lễ hội tỉnh Hải Dương).
Nhận xét:
Trải hơn hai nghìn năm với vô cùng các biến cố đã phần nào che lấp sự thật về Vị Anh hùng đầu tiên chống ngoại xâm trong lịch sử Dân tộc Việt Nam – Cao Lỗ, nhân vật đã được ghi rõ trong sách sử và thư tịch cổ. Nhưng trong một số câu trong các bài văn lễ Quan Lớn Tuần Tranh cũng còn cho thấy phảng phất dấu ấn của một phần nào đó sự thật lịch sử như các đoạn văn sau trích dưới đây:
Những câu như : “Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài”, cho ta thấy đây không những là một vị Tướng, mà còn là tướng tài. Hình ảnh của Vị Tướng tài này càng rõ hơn với những câu:’ Gương anh hùng muôn đời soi tỏ, Thanh long đao năm xưa cứu nước, anh hùng là ai? Chỉ có thanh long đao Quan đệ ngũ, chính người trong phủ Ninh Giang” chính những câu này làm rõ hơn hình ảnh một vị Võ Tướng, vậy nên sự truyền thuyết về Ngài nguyên xưa là Quan văn – huyện lệnh Ninh Giang, đấu tranh với Thần sông ( Ông Cụt) rất sai lệch, có lẽ đây là sự thêu dệt từ nguyên truyện “ Chuyện đối tụng ở Long cung” của Nguyễn Dữ người làng Đỗ Tùng, huyện Trường Tân nay là làng Đỗ Lâm, huyện Ninh giang, tỉnh Hải Dương. Ông là học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông có đi thi Hội và ra làm quan dưới thời nhà Mạc ( từ năm 1530 đến năm 1627).Sau vì bất mãn, ông bỏ quan về dậy học. Trong 20 truyện viết dưới hình thức như thần thoại cổ tích, bên trong câu chuyện là sự phản ánh tình trạng xã hội đương thời qua cái nhìn bất mãn của nhà Nho với tư tưởng “Trung quân” cho rằng Nhà Mạc lên làm vua là sự thoán đạt, cướp ngôi nhà Lê, mà không thấy rằng lúc đó nhà Lê đến Lê Chiêu tông và Lê Cung Hoàng, anh em chém giết lẫn nhau, không biết gì đến chính sự, hoang dâm vô độ. Xã hội lúc đó đã suy sụp, thối nát cần phải thay đổi.
Có lẽ trong nội dung truyện” Chuyện đối tụng ở Long cung” có viết:” Huyện Vĩnh Lại ở Hồng Châu khi xưa có nhiều giống thủy tộc. Men sông người ta lập đền thờ đến hơn mười chỗ,… Về đời Minh tông nhà Trần, có quan Thái thú họ Trịnh làm quan ở Hồng Châu,…” Chỉ qua một đoạn ngắn mở đầu cho ta thấy:
1/ Thứ nhất là sự ngộ nhận từ địa danh “ Huyện Vĩnh Lại” trong truyện của Nguyễn Dữ mà gán ghép vào sự tích Quan Tuần Tranh vốn là một vị tướng trở thành quan văn.
2/ Thứ hai là khi đưa vào truyền thuyết dân gian đã không nhận thấy sự sai lệch ngay ở các đền thờ:” có hơn mười chỗ” thì việc thờ thần sông đâu phải là đền Quan Lớn Tuần Tranh.
Cũng cần phải thấy đây là câu chuyện văn học, bởi vậy sự phóng tác cũng như tiểu thuyết hóa câu chuyện là chính, tác giả không quan tâm đến sự thật lịch sử là vào đời nhà Trần (ghi rõ là Trần Minh Tông làm vua nhà Trần từ năm 1314 đến 1329), thì không có chức quan Thái thú.
Chức vị này chỉ có trong thời Bắc thuộc lần thứ nhất dưới sự thống trị của nhà Tây Hán và Đông Hán, đến thời Tam quốc, nước ta thuộc về nhà Đông Ngô (Ngô Cam lộ năm thứ 1 – Ất Dậu 265 sau CN) là còn gọi là Thái Thú (giống như chức Toàn quyền Đông dương thời Pháp thuộc). Năm Mậu Tý (năm 265 sau CN – Ngô Bảo đình năm thứ 3) Nước Ngô lấy Lưu Tuấn làm Thứ sử Giao châu, từ đó về sau thời Tấn, Tống, Tê, Lương,… kết thúc năm Canh Thân ( năm 540 sau CN) cộng lại 314 năm gọi chức quan này là Thứ sử. Sau từ thời Bắc thuộc lần thứ 3 dười các triều Tùy, Đường,… từ năm Quý Hợi ( năm 603 sau CN) đến năm Đinh Mão ( năm 907 sau CN) tổng cộng là 304 năm và 32 năm Nam Bắc phân tranh ở Trung Quốc thì chức quan này gọi là Đô hộ phủ, Tiết độ sứ,…không còn gọi chức quan này là Thái thú. Vậy nên nếu xét về sự thật lịch sử truyện “” Chuyện đối tụng ở Long cung” của Nguyễn Dữ không có giá trị gì về lịch sử, chỉ có thể đánh giá về văn học sáng tác mà thôi.
3/ Thứ ba là trong các câu thơ còn nhắc lại thời Văn Lang và Thục phán An Dương Vương của nhà nước Âu Lạc, đó là những hiện thực lịch sử thời đại của Người anh hùng Cao Lỗ lãnh đạo quân Việt kháng chiến đánh thắng quân 50 vạn quân xâm lược của nhà Tần, rồi sau đó là thời kỳ đầu đánh thắng quân xâm lược Triệu Đà. Sau vì bị án tình oan mà phải chết. Xin trích một số câu thơ dưới đây có sót lại tàn dư của hiện thực lịch sử của Vị anh hùng Cao Lỗ:
“Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.
Trước cung điện, triều đình xét hỏi,
Quan lớn Tuần oan vì ong bướm lả lơi,
Người anh hùng cổ mang nặng xiềng gông.
Ngày hai nhăm tháng năm, Quan lớn bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng”
Lịch sử, nhất là thời cổ đại, thường trở thành truyền thuyết cũng là lẽ thường không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu khắp các nước trên thế giới. Đánh giá lại chiến tích, công trạng của Cao Lỗ, năm 2005 Ủy Ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã lấy tên Ngài đặt cho một trong những đường phố lớn nhất tại Đông Anh, nơi xưa kia Ngài đã tổ chức xây dựng tòa thành Cổ Loa, tòa thành lớn nhất trong lịch sử dựng nước, giữ nước Việt Nam và cũng tại đây Ngài đã phát minh ra nỏ liên châu nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam và Thế giới. Án tình oan của Ngài truyền kỳ trong dân gian trở thành một thiên tình sử của người Anh Hùng giữ nước mãi mãi còn lưu truyền trong tâm thức người Việt.
Hà Nội, tháng 7 năm 2013