13/01/2018, 16:45

Phân tích tác phẩm Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) – Văn hay lớp 11

Phân tích tác phẩm Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) – Văn hay lớp 11 Phân tích tác phẩm Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Quảng Bình Nhắc đến văn học trào phúng Việt Nam người ta nhớ đến ngay các tác phẩm của Tú Xương, Nguyễn Khuyến…của nền ...

Phân tích tác phẩm Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) – Văn hay lớp 11

Phân tích tác phẩm Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Quảng Bình

Nhắc đến văn học trào phúng Việt Nam người ta nhớ đến ngay các tác phẩm của Tú Xương, Nguyễn Khuyến…của nền văn học trung đại. Ở văn học thời hiện đại, văn học trào phúng vẫn được dâng cao. Đặc biệt tác phẩm Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng. Không chỉ thế người ta còn biết đến bút pháp trào phúng  của Nguyễn Ái Quốc. Vốn là một nhà chính trị, Người không nhận mình là một nhà thơ, nhà văn mà mục đích cầm bút của Người là dùng văn chương như là một vũ khí để đấu tranh tư tưởng và khêu dậy ý chí chiến đấu của nhân dân. Tác phẩm trào phúng của bác chính là truyện ngắn Vi hành. Với nghệ thuật trào phúng Nguyễn Ái Quốc đã phơi bày bản chất tàn bạo, giả dối của chế độ thực dân Pháp. Cũng với nghệ thuật ấy, Người bày tỏ thái độ khinh bỉ đối với bọn vua quan bù nhìn bán nước cầu vinh, chỉ riêng đối với sự kiện Khải Định sang Pháp dự cuộc Đấu xảo thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã sáng tác truyện ngắn Lời than vãn của bà Trưng Trắc và vở kịch Con rồng tre lên án và chế giễu sâu cay ông vua bù nhìn. Nhân kỉ niệm một năm chuyến đi ô nhục ấy, Nguyễn Ái Quốc lại viết truyện ngắn Vi Hành, biến Khải Định thành đối tượng của những cuộc đàm tiếu khinh bỉ..

Truyện ngắn Vi hành được đăng trên báo Nhân Đạo, tác phẩm đã tố cáo được bộ mặt của chính quyền thực dân Pháp và sự lừa bịp của “quốc mẫu” Khải Định. Ngay từ tiêu đề của tác phẩm, không phải ngẫu nhiên “đứa con tinh thần” của Bác có tên như vậy, mà đó là sự suy nghĩ trăn trở của những người sáng tạo ra nó. Bởi lẽ nó đặt làm sao để tên gọi ấy tạo lên được tư tưởng chủ đề của tác phẩm, không chỉ thế nó còn phải gây sự tò mò hấp dẫn người đọc. Nguyễn Ái Quốc đặt tên tác phẩm là Vi hành, hai từ này thường được dùng cho những bậc vua chúa xưa kia đi khảo sát dân tình đóng giả làm dân thường không cho ai biết. Đi một cách bí mật nhằm hiểu được cuộc sống của nhân dân khổ cực đến đâu và có bị áp bức bóc lột không. Đặc biệt, khi đi vi hành không được lấy tên thật của mình mà phải lấy tên giả. Nhưng, trong tác phẩm này của tác giả, Nguyễn Ái Quốc lại chỉ ra khi đi vi hành Khải Định vẫn lấy cái tên của mình và ông vua này không đi xem dân tình thế đất nước mình như thế nào mà đi sang nước Pháp. Như vậy, Khải Định đâu có phải là đi vi hành thực sự vì dân, lo cho dân mà thật sự hắn đang đi giúp nước xâm lược trên chính đất nước của mình. Ngay ở nhan đề của tác phẩm, tác giả đã cho thấy một sự châm biếm sâu cay.

Mở đầu câu truyện một cách khách quan, tác giả không để Khải Định xuất hiện trực tiếp mà thông qua lời kể của hai nhân vật nam nữ thanh niên kể về Khải Định. Việc đàm tiếu về trang phục nhà vua do đôi thanh niên nam nữ người Pháp thực hiện. Lợi dụng cách cảm nhận ngộ nghĩnh của họ đối với cách ăn mặc xa lạ. Nguyễn Ái Quốc đã biến ông vua thành một trò cười rẻ tiền: đầu đội chụp đèn, quấn khăn, tay đeo đầy nhẫn, mũi tẹt, mắt xếch, mặt bủng như quả chanh, không một chút uy nghi, đường vệ. Hơn thế, người bạn gái đã trông thấy nhà vua, hình dung vua là người “đeo lên người hắn đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm“, y như một mụ đàn bà. Còn người thanh niên thì xem vua như một trò vui mắt không phải mất tiền như xem “vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên”, hoặc “trò leo trèo, nhào lộn của sư thánh xứ Công Gô”. Thậm chí còn tung tin Nhà hát Múa rối định ký hợp đồng thuê nhà vua biểu diễn! Thật không còn lời báng bổ, khinh miệt nào hơn đối với một đức Hoàng Thượng! Nhưng đó là sựthật: Khải Định chỉ đóng được một vai hề rẻ tiền trong lịch sử!.Đều là đả kích tên vua nô lệ nhưng nếu Nguyễn Ái Quốc công khai đả kích một cách trực tiếp thì thế giới sẽ thấy được người Việt Nam lên án chính người Việt Nam phản quốc. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc đã rất tinh tế khi xây dựng tình huống trên.

Chính những lời thoại hết sức khôi hài của hai thanh niên người Pháp, từ đó cho thấy bộ mặt của Khải Định rất đáng chê cười, và cái đích cuối cùng của tác giả khi nói đến Khải Định nhằm mục đích chỉ ra đây đích thị là một ông vua bù nhìn, giống như một con rối để cho thực dân Pháp sai khiến chỉ đạo chứ không phải là một ông vua của một đất nước.

Nếu như dừng ở đây, chắc hẳn bộ mặt bỉ ổi của Khải Định vẫn chưa hiện lên đầy đủ, mà tác gải còn lột tả tiếp, sự châm biếm lên đỉnh điểm.  Đó chính là tác giả để cho nhân vật tôi bình luận về chuyến đi sang Pháp của tên vua “Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là Alêchxăng đệ Nhất, … có được uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài, hay không?(…). Hay là, chán cảnh làm một ông vua to, giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời các cậu công tử bé?”. Không chỉ tố cáo bộ mặt xấu xa của tên vua Khải Định, Nguyễn Ái Quốc còn tố cáo thực dân Pháp. Những người luôn tự nhận mình là nền văn minh  và bảo hộ khai hóa nền văn minh cho nước ta. Nhưng thực chất mục đích của chúng là cướp nước ta, áp bức bóc lột dân tộc ta với những chính sách tàn bạo. Đây cũng chính là những tội ác của chúng.

Có thể thấy và cảm nhận được những chua chát, cay đắng trong nụ cười ở đây.  Đó là nghệ thuật mỉa mai, châm biếm có tính chất chính luận hết sức già dặn. Tất cả các chữ dùng đều được sử dụng rất đắt và phát huy tác dụng châm biếm tối đa. Chẳng hạn gọi vua Pháp là “bạn” của vua Nam hoặc nói cảnh sát Pháp theo dõi như  “mẹ hiền rình con thơ”. Và đó cũng chính là nghệ thuật trào phúng để nhằm châm biếm tên vua bán nước Khải Định và những tội ác của bọn thực dân gây ra cho nhân dân ta.

Phân tích tác phẩm Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) – Bài làm số 2

Sinh thời, Bác Hồ không có ý định trở thành một nhà văn, nhà thơ, Người chỉ khiêm tốn tự nhận mình là bạn của nhà văn nghệ, là người yêu nghệ thuật. Nhưng, trên bước đường hoạt động cách mạng, Người đã nhận ra tác dụng to lớn của văn chương, Người đã nắm lấy, mài sắc nó và trở thành một nhà văn, nhà thơ ngoài ý muốn. Ở mỗi thể loại, Người đều để lại những dấu ấn về phong cách với những vẻ đẹp lấp lánh khác nhau: khi thì cổ điển và hiện đại trong thơ ca, khi thì giàu chi tiết sống, chân thực, sắc sảo, giàu tri thức văn hoá như trong bút kí, và khi thì “chất trí tuệ và tính hiện đại là những  nét đặc sắc của truyện ngắn Nguyễn Ái Quốc”. Truyện ngắn “Vi hành” Bác sáng tác vào những năm 20 ở Pháp đã thể hiện rất rõ những nét phong cách đó.
 
Trong số những tác phẩm Nguyễn Ái Quốc viết những năm 20 ở Pháp để đả kích Khải Định, "Vi hành" nổi lên là một tác phẩm thành công hơn cả. Nhiệt tình yêu nước của nhà cách mạng trẻ tuổi bắt gặp những hành vi mờ ám của Khải Định trong chuyến Pháp du là tiền đề cho sự ra đời của "Vi hành", một áng văn chương đích thực được sử dụng nhằm mục đích chính trị, xã hội…
 
Người ta thường nói nhiều đến những áng văn “quý hồ tinh bất quý hồ đa” (cần tinh mà không cần nhiều). "Vi hành" là một áng văn chương như thế. Lời thật ít, cốt truyện hầu như không có, chỉ là kể lại những gì mà nhân vật “tôi” mắt thấy tai nghe trên chuyến tàu điện và trên đất Pháp, thỉnh thoảng có xen vào những lời văn như là tâm sự nhẹ nhàng, vậy mà đã nói lên được bao nhiêu điều. Ấy chính là cái “tinh” đáng quý, đáng trọng của "Vi hành".
 
Nói đến chất trí tuệ là nói đến cái sắc sảo, cái thâm thuý, cao sâu. Ở "Vi hành"cũng có một kiểu châm biếm thâm thuý và sâu sắc như vậy. Rõ ràng tác phẩm được viết với mục đích chính trị là tố cáo Khải Định "Vi hành", nhưng trong cả tác phẩm người viết dường như chỉ là nhiệm vụ tường thuật những câu chuyện về Khải Định. Nhà văn đã dựng lên một cuộc lầm lẫn lộn tùng phèo: một đôi trai gái trên chuyến tàu điện tưởng nhầm tác giả là Khải Định, họ nhìn “tôi” bằng một con mắt tò mò, thực chất là đang rất chú ý và bàn tán nhưng lại là ra vẻ không để ý gì. Vậy là, qua câu chuyện giữa đôi trai gái, hình ảnh Khải Định cứ dần dần hiện lên với “cái mũi tẹt”, “mắt xếch”, da bủng như vỏ chanh, đầu đội cái “chụp đèn”, ngón tay đeo “đầy nhẫn”.Rồi hắn còn khoác lên mình đủ bộ lụa là, hạt cườm. Chà, mới chỉ đến vậy thôi đã dựng lên một chân dung hết sức lố bịch, nực cười. Khải Định y như một cái “ma nơ canh” vậy (!). Thật tài tình và cũng thật thâm thuý, với một cách tường thuật khách quan như vậy, dưới con mắt của những người Pháp, Khải Định càng trở nên nực cười hơn. Giả sử, cứ để cho “tôi” hay một người Việt Nam nào đó nói về Khải Định thì có lẽ hắn cũng không hiện lên thảm hại đến vậy. Lại còn những hành vi mờ ám của hắn nữa chứ, thôi thì chỗ nào cũng có mặt: ở “tiệm cầm đồ”, “trường đua”, thậm chí còn gửi lại tất cả những “hành lí” những “ông quan bà kiếc” ở nhà ga để “đi chơi vi hành”. Chỉ những lời đối thoại của đôi trai gái cũng đủ để gây cười rồi. Bộ mặt và bản chất của Khải Định hiện lên lố bịch hơn và khách quan hơn. Đường đường là một ông vua mà ra đường được dân chúng “đón tiếp”, “chào mứng” bằng những câu… rất Pháp: “hắn đấy”, “xem hắn kìa”, lại còn có một “anh vua” nữa chứ. Hàng loạt những chi tiết gây cười, mà toàn những chi tiết được ghi lại khách quan trên đường phố đấy chứ! Trong con mắt của đôi trai gái, của người dân Pháp, Khải Định chẳng khác nào một thằng hề, thậm chí rẻ tiền hoặc không mất tiền. Người dân Pháp mất mấy nghìn Phơrăng để xem “vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên” hay xem trò“nhào lộn của sư thánh xứ Công Gô”. Còn khi Khải Định đến, họ chẳng mất xu nào mà vẫn được xem “anh vua” đang ở ngay trước mắt. Khải Định đến Pháp thật đúng lúc, khi mà cái kho giải trí của người Pháp “cạn ráo?”.: “Nghe nói ông bầu nhà hát múa rối có ý định kí giao kèo thuê đấy!”. Chỉ một câu văn ngắn thôi mà nói lên được bao nhiêu điều về vai trò của Khải Định trên đất Pháp, chẳng qua chỉ là một thằng hề đang sắm vai theo sự hướng dẫn của “mẫu quốc Pháp”(!).
 
Giọng văn như dửng dưng, lãnh đạm, nhưng thực ra đã tạo nên một hiệu quả châm biếm tuyệt đối. Một bức chân dung, một bản chất của “đức ông Khải Định” hiện lên thật hoàn chỉnh. Cái trí tuệ, cái sâu sắc của ngòi bút nhà văn chính là ở chỗ đã tạo nên một kiểu “bịa” mà “rất nghệ thuật”. Thử hỏi làm sao lại có sự nhầm lẫn tai hại đến vậy? Người dân Pháp đã đành, lại còn cả chính phủ cũng không nhận ra“thượng khách” của họ, nên để “tránh thất thố trong ngoại giao”, “nhà cầm quyền Pháp đã sai người bảo vệ tất cả những ai có màu da vàng”. Nghiễm nhiên, tất cả người Việt Nam trên đất Pháp trở thành hoàng đế! Nhưng “bịa” đấy để mà nói lên sự thật, một sự thật trăm phần trăm được thể hiện dưới một hình thức “bịa”. Có một sự thật không hề xuyên tạc – ấy là việc Khải Định "Vi hành" làm những việc mờ ám, không chính đáng trên đất Pháp.
 
Hành động của Khải Định đã khiến cho những nhà yêu nước ở Pháp lúc đó như Phan Chu Trinh cũng phải lên tiếng. Vốn là người Việt Nam yêu nước, căm ghét ách thống trị của bọn phong kiến thực dân, nên Nguyễn Ái Quốc đã sáng tác những tác phẩm bày tỏ thái độ lên án, tố cáo Khải Định. Nhưng, không như các tác phẩm khác, "Vi hành" quả có một lối châm biếm hết sức sắc sảo và thâm thuý. Với việc dựng lên một tình huống nhầm lẫn, nhà văn đã gián tiếp lên án Khải Định – lấy cái nhìn khách quan của người Pháp để tố cáo Khải Định thì thật là khách quan và trí tuệ. Khải Định hiện lên cụ thể hơn, lố bịch hơn, trơ trẽn và dơ dáy hơn. Chính phủ Pháp cũng không thể bắt bẻ nhà văn được, chẳng qua “tôi” chỉ nói lên sự thật. Đấy là thái độ của mọi người đối với Khải Định, chứ không phải là thái độ của người cộng sản Nguyễn Ái Quốc tố cáo một tên vua bù nhìn bán nước. Vậy là, đâu cần phải nhiều lời văn vẫn nói được nội dung mình cần nói, mà nói một cách đầy nghệ thuật nữa chứ!.
 
Lại nữa, thi thoảng nhà văn cũng xen vào những lời như là trò chuyện, tâm sự với cô em, những câu hỏi “hay là” thật lấp lửng, tả thì ít mà gợi thì nhiều. Cái sở trường của lối văn trữ tình thâm thuý là ở chỗ đó. Nhà văn đặt ra những câu hỏi “hay là ngài muốn xem dân Pháp dưới quyền cai trị của bạn ngài là Alêchxăng đệ nhất có được uống nhiều rượu và hút nhiều thuốc phiện như dân An Nam hay không?”, “hay là ngài muốn đi thực tế để mang về văn minh cho nhân dân An Nam ngu dốt?”, “ hay là chán cảnh làm một ông vua to, ngài lại muốn nếm thử cuộc đời các cậu công tử bé?”. Những câu hỏi dồn dập như vậy tưởng như những lời luận bàn ngoài lề nhưng lại mang hiệu quả châm biếm rất cao. Vai trò của Khải Định thế là đã rõ. Thật là lối châm biếm của một bậc cao nhân phương Đông. Nói ít mà gợi nhiều, đó là một lối văn “ý tại ngôn ngoại” rất truyền thống của người phương Đông. Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu những tinh hoa văn hoá của người Việt và người phương Đông để phục vụ mục đích chiến đấu của mình. Đòn đánh của nhà cách mạng trẻ tuổi vào Khải Định không phải là những nhát roi quất mạnh vào bộ mặt dơ dáy của hắn mà chỉ bằng cười ruồi, nói mát. Người phương Đông thường nói với nhau: nói nhiều khi còn đau hơn vả đánh. Nhiều lời nói đặt ra đúng nơi, đúng chỗ và đúng đối tượng nhiều khi tạo nên một hiệu quả rất lớn. Bắt nguồn từ truyền thống thơ ca dân gian, truyện dân gian, Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng nó một cách đầy sáng tạo vừa cổ điển, trí tuệ của một bậc “đại trí” là vừa rất mực hiện đại của một nhà cách mạng trẻ tuổi mang trong mình một tinh thần của thời đại mới.
 
"Vi hành" dựng lên một tình huống nhầm lẫn, ấy là chỗ giống với các tác phẩm văn học dân gian, nhưng chỗ khác, chỗ hiện đại ở đây chính là tình huống nhầm lẫn được sử dụng như một bút pháp, một khuynh hướng chủ đạo quán xuyến toàn bộ tác phẩm. Việt Nam ta có truyện dân gian Trạng Lợn nổi tiếng, nhưng cuối cùng thực chất của Trạng Lợn cũng được bộc lộ. Còn ở đây, từ đầu đến cuối tác phẩm vẫn là một tình huống nhầm lẫn. Có thể nói, tư tưởng chủ đạo của tác phẩm "Vi hành" được xây dựng xung quanh trục nhầm lẫn. Đó là cái mới, cái sáng tạo của nhà văn. Với cách viết ấy, dường như bản chất của Khải Định được khẳng định rõ ràng và chắc chắn hơn. Khải Định là một con người tồn tại thật chứ không phải là con người của truyện dân gian, được nhân dân xây dựng trên cơ sở hư cấu và cường điệu. Một lần nữa, bản chất của Khải Định cùng cái bộ mặt dơ dáy, trơ trẽn của tên vua bù nhìn như “bị đóng đinh, cột chặt vào lịch sử đất nước”.
 
"Vi hành" viết dưới hình thức một bức thư. Ngay ở dưới tên tác phẩm nhà văn đã đề rõ “Trích những bức thư gửi cô em họ do tác giả tự dịch từ tiếng Nam”. Thư là một hình thức mới lạ với người phương Đông nhưng là rất quen thuộc với người Pháp, người châu Âu. Đã có “Những bức thư Nam Tư”, “Những bức thư từ cối xay gió” của người châu Âu. Do hoạt động trên đất Pháp, mục đích của Nguyễn Ái Quốc là nói cho người Pháp hiểu được bản chất thật của Khải Định, tính chất bịp bợm của chính quyền thực dân, nên sử dụng hình thức viết thư quen thuộc của người châu Âu là hay hơn cả. Đây là một minh chứng cho quan điểm sáng tác của Nguyễn Ái Quốc: hình thức tác phẩm phải phù hợp với mục đích và đối tượng hướng tới. Đây cũng là một nét hiện đại trong sáng tác của Người. Một thái độ phê phán rất mực trí tụê và thâm thuý mang phong vị Á Đông, được diễn tả dưới một lối văn Tây phương hiện đại. Trên bước đường hoạt động của mình, Bác đã tìm ra những hình thức sáng tác biểu đạt được cao nhất mục đích của mình. Cái đích cần đi đến là tố cáo Khải Định và bọn quan thầy thực dân trước công chúng Pháp, do đó không có gì tốt hơn là viết dưới hình thức văn chương quen thuộc và sở trường của họ.
 
Vậy là, chất trí tuệ đã hoà hợp với hình thức biểu đạt hiện đại trong một bức thư.
 
Một đặc điểm của thư (tác phẩm trữ tình) là gợi nhiều hơn tả, có khi chỉ một câu mà nói lên được bao điều. Hình thức gợi nhiều hơn tả vừa thể hiện chất trí tuệ, thâm thuý cao siêu, đồng thời lại hiện đại. Tính hiện đại được tạo nên từ chính mục đích sáng tác của nhà văn không phải thâm thuý để đi vào một hiện tượng siêu hình không thể lí giải, cắt nghĩa nổi, mà để tố cáo tên vua bù nhìn bán nước và quan thầy cướp nước. Do đó vừa thâm thuý vừa tinh ý cũng lại rất mực rõ ràng.
Người châu Âu thường có lối giễu bằng cười cợt, cách nói của Bác đúng là một thứ giễu, mà lại là “giễu chết tươi”! Hình thức viết thư mang lại hiệu quả cao. Nhà văn thoải mái chuyển cảnh, chuyển giọng văn mà hơi văn, ý văn vẫn liền mạch. Trong "Vi hành" không phải chỉ có giọng châm biếm, mỉa mai sâu cay mà còn có cả những giọng tâm tình thủ thỉ giữa “tôi” và cô em họ. Nhưng những lời tâm sự tưởng như bâng quơ không chủ đích thế lại tạo ra những khoảng trống ngân vang trong tâm hồn người đọc. Sau việc thuật lại những câu chuyện về Khải Định là lời “tôi” nói với cô em họ, những hồi tưởng về những kỉ niệm tuổi ấu thơ, những khi “tôi” và “cô” còn ngồi vắt vẻo trên đùi ông bác và nghe kể chuyện về ông vua Pie bên Nga. Và nhân đó lại liên tưởng ngay đến Khải Định "Vi hành", nhưng không phải để thăm thú lương dân mà chỉ là để thoả mãn những ham muốn thấp hèn của mình. Dù có chuyển cảnh, chuyển giọng một cách tự nhiên tưởng như không nằm trong câu chuyện về Khải Định lại tạo ra những liên tưởng, những góc nhìn khác nhau về Khải Định. Chẳng qua những lời “nói thêm” tưởng chừng bâng quơ ấy là để tạo hiệu quả cao hơn cho mục đích tố cáo của mình đấy thôi. Tác giả quả là không hề có cảnh thừa, từ ngữ thừa, ý tứ thừa. Từ nào, câu nào, cảnh nào cũng lấp lánh toả sáng tầm tư tưởng nhân sinh.
 
Lối viết thư rất Pháp tạo nên một kiểu viết biến hoá kì thú. Ngòi bút trong tay Nguyễn Ái Quốc dường như linh diệu hơn: khi dựng cảnh, khi dựng người, khi là cảnh ở Trung Quốc, khi ở Pháp, khi ở Việt Nam, thậm chí khi ở Nga. Hình thức viết thư được sử dụng khiến cho tác giả dựng cảnh, chuyển cảnh dễ dàng linh hoạt. Những cảnh tưởng như đã xa xưa lắm từ thời vua Nghiêu, vua Thuấn, những kỉ niệm của tuổi ấu thơ, tất cả đều được đặt cạnh nhau cùng lúc với bút pháp “đồng hiện”. Giọng văn vừa mới mỉa mai thâm thuý lại vui tươi hóm hỉnh. Cái thâm thuý là của một bậc đại trí phương Đông, cái hóm hỉnh rất Pháp là của nhà cách mạng trẻ tuổi đang tràn đầy nhiệt huyết. Trong "Vi hành" có cả hai đặc điểm đó. Vẻ đẹp của "Vi hành" chính là sự toả sáng của trí tuệ phương Đông và hiện đại phương Tây được kết tinh nơi ngòi bút của Người.
 
Trong "Vi hành" có một thứ ngôn ngữ rất hiện đại. Lối văn biến hoá kì thú và ngòi bút của nhà văn thì tha hồ tung hoành trên một phạm vi rất rộng. Vì vậy "Vi hành" đả kích Khải Định nhưng cũng là đả kích bọn vua thầy thực dân. Chẳng phải thế sao? Nguyễn Ái Quốc để đôi trai gái trên tàu phát biểu về Khải Định nhưng cũng gián tiếp nói lên thực chất của xã hội Pháp: thanh niên ham sống vì danh tiếng, háo danh, không có lí tưởng, thích săn những tin giật gân trên báo chí, người dân thì không văn minh. Còn chính phủ Pháp? Chà, đây mới là chỗ cần nói thì ra, những kẻ luôn làm nhiệm vụ của một “bảo mẫu bám lấy đế giày tôi”, lo lắng khi “chỉ mất tôi trong dăm phút”, rồi “như người mẹ hiền rình đứa con thơ chập chững bước đi thứ nhất”… Thực chất đây chính là việc kiểm soát gắt gao chính phủ đối với những người Việt Nam yêu nước trên đất Pháp lúc đó mà nhà văn đã  nói lên bằng những câu vui, hóm hỉnh, nhưng thâm thuý, sâu sắc. Vậy là một mũi tên trúng hai đích: vừa đả kích Khải Định, vừa vạch trần được bản chất của xã hội văn minh “mẫu quốc Pháp”. Một lối viết kì thú tuyệt vời như vậy không dễ gì đạt được ở những tác phẩm khác, kể cả tác phẩm của Người.
 
"Vi hành" đã rất thành công trong khi xây dựng những mâu thuẫn trong cùng một hiện tượng: đó là mâu thuẫn giữa bản chất và hình thức. Trong Khải Định là mâu thuẫn giữa địa vị cao sang của một thiên tử và một bản chất đồi bại của những kẻ ham chơi bời, thích sang. Trong chính quyền thực dân đó là mâu thuẫn giữa những khẩu hiệu mà chúng rêu rao ở An Nam với bản chất thật của xã hội thiếu văn minh, văn hoá. Tất cả được đặt trong thế đối lập tạo nên những tiếng cười ruồi chua chát, sâu cay.
 
Trí tuệ và hiện đại, đó là hai nét đặc sắc trong phong cách viết truyện ngắn Nguyễn Ái Quốc. "Vi hành" đã thể hiện đầy đủ những vẻ đẹp đó. Vẻ đẹp của phong cách cũng là vẻ đẹp của con người – văn là người. Đúng vậy, văn của Bác thể hiện con người của Bác. Nhưng, chẳng qua nếu phải nói một câu về Người thì chỉ có thể nói giản dị thế này thôi: tất cả những hành động của Người, những tác phẩm của Người viết ra dù ở thể loại nào, phong cách nào cũng là để đạt được một điều mà Người mong muốn – độc lập của nước, hạnh phúc của dân. Hiểu như vậy, ta càng yêu kính hơn một con người “đại nhân, đại trí, đại dũng”. Cái “trí”, cái “dũng” chẳng qua là vì cái “nhân” cao cả đấy thôi!
 
"Vi hành" cho ta một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về văn phong Nguyễn Ái Quốc. Người đã vô tình đánh rơi vào kho tàng văn học những viên ngọc quý hay những đoá hoa thơm. "Vi hành" là một viên ngọc, một đoá hoa như thế mà mỗi chi tiết, mỗi tình huống đều như muốn sáng lên vẻ đẹp của trí tuệ và tinh thần hiện đại Hồ Chí Minh!

Phân tích tác phẩm Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) – Bài làm số 3

Đối với Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh thì sáng tạo nghệ thuật là hành vi cách mạng. Ngay những tác phẩm đầu tay viết trên đất Pháp đã mang tính chiến đấu quyết liệt vào thực dân Pháp và bọng phong kiến tay sai. Năm 1922, Khải Định được bọn thực dân đưa sang “mẫu quốc” dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở Macxây. Chuyến đi ô nhục này nhằm mục đích lừa dối thực dân Pháp, khẳng định bọn thực dân xâm lược là những “bậc” khai hóa. Mục đích chính của chúng là kêu gọi các nhà đầu tư Pháp đổ tiêng vào Đông Dương. Những người yêu nước Việt Nam đã phản đối, lên án chuyến Tây nhục ngã của vương quốc An Nam. Và hàng loại các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc đã ra đời như: “Lời than vãn của Bà Trưng Trắc”, “Sở thích đặc biệt”, “Con rồng tre”… Năm 1923, Khải Định đã về nước nhưng bóng ma của hắn vẫn gây bất lợi cho các nhà hoạt động cách mạng ở Pháp. Bác viết “Vi hành” là một đòn chí tử, hạ gục tên vua bù nhìn bán nước cũng như bọn thực dân pháp đang đeo mặt nạ “khai hóa” kia. Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu tên của tác phẩm này. Trong tiếng Pháp thì tên tác phẩm này có nghĩa là không ai biết, dùng tên giả. Nguyễn Ái Quốc muốn ngụ ý châm biếm  rằng Khải Định ứ tưởng người Pháp kính trọng y lắm, nhưng thật sự thì chẳng ai biết mặt, biết tên y cả. Dịch giả Phạm Huy Thông đã chọn một cái tên dịch ra tiếng Việt rất thích hợp với dụng ý của Bác, đó là “Vi hành”. Nghĩa của cái tên này có ba vấn đề cần phải chú ý.

Thứ nhất, người vi hành phải là vua chúa, những người có quyên uy trong xã hội. Điều thứ hai là những bậc vua chúa ấy phải cải trang, cải danh, phải đi vào trong sinh hoạt của quần chúng. Còn nét nghĩa thứ bac ho ta hiểu vi hàn gắn với những mục đích cao đẹp. Sau khi tìm hiểu những điều mắt thấy tai nghe, những bậc vua chúa ấy thường đưa ra những chính sách phù hợp với quyền lợi của nhân dân. Còn quốc vương An Nam thì sao? Ngay trong phần bình luận của nhân vật “tôi” thì ta đã thấy sự đối lập giữa những người vi hành thật và giả. Nhân vật “tôi” đã dẫn ra hai bằng chứng về những đấng minh quân, một người ở Phương Đông, một người ở Phương Tây, một người ở trong truyền thuyết, một người bằng xương bằng thịt rất nổi tiếng thời hiện đại. Đó là vua Thuấn người đã từng mặc áo tơi đi cày với nông dân; đó là vua Pie, người đã từng làm công nhân ở các công xưởng nước Anh. Khải Định là vị hoàng đế của chúng ta – cùng vi hành đấy, ngài đã sang Pháp. Có phải chăng ngài đang theo bước vua Thuấn và vua Pie để làm một vị minh quân sáng suốt? Không! Mục đích vi hành của ông vua này là để thỏa mãn những thú vui bản thân, để thực hiện những hành vi ám muội.

Nhân vật “tôi” đã gọi chuyến đi của Khải Định là “nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé”. Đó là một kẻ  đang tập tành thói ăn chơi bừa bãi bằng chính những đồng tiền xương máu của người dân An Nam. Như vậy, tên truyện “Vi hành” cho người đọc một tư duy ngược, một vi hành trong ngoặc kép. Cách thức tạo liên tưởng là một thủ pháp châm biếm rất sắc sảo vốn được người phương Tây ưa dùng trong văn chương trào phúng. Điều đặc sắc thứ hai của “Vi hành” chính là Nguyễn Ái Quốc đã sáng tạo ra một loại những chuối tình huống nhầm lẫn. Quả thật, Bác chưa bao giờ tự nhận mình là nghệ sĩ. Nhưng những sáng tác của Bác đã bộc lộ cho ta thấy tư cách của một người nghệ sĩ vĩ đại.

Tác giả Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã tạo ra cho mình một phong cách rất độc đáo, đó chính là yếu tố “kí” ở trong một thiên truyện. Trong tác phẩm “Vi hành” này thì nửa đầu là một truyện ngắn đích thực nhưng đến phần sau, khi chất “kỉ” quen thuộc của Người lại xuất hiện và cuốn hút người đọc. Bác đã vẽ ra cho chúng ta thấy ở trong một toa tàu điện ngầm vắng khách để nói về tình huống nhầm lẫn thứ nhất. Đôi tình nhân trẻ người Pháp ấy ngồi canh bên nhân vật “tôi” mũi tẹt, da vàng, để phiếm đàm về quốc vương An Nam. Và “tôi” đã ghi lại cho cô em trong một bức thư dường như toàn bộ sự thật mà không hề thêm bớt.  Câu chuyện về Khải Định, sự kiện Khải Định sang nước Pháp đã được bọn quan thầy tô son trát phấn, làm rùm beng ở Việt Nam. Thì khi đến nước Pháp, thảm hại thay nso chỉ là một câu chuyện phiếm. Cặp tình nhân đang nói chuyện về vua mà lại sử dụng cách xưng hô hết sức phạm thượng. Chàng trai khẳng định “Hắn đấy!” mà không một chút sợ sệt. Pháp là một đất nước dân chủ cộng hòa, vua chúa đối với thanh niên chỉ là những đồ vật cũ lỗi thời. Nó kích thích sư tò mò hơn là sự sùng bái. Cuộc nói chuyện đã diễn ra rất tự nhiên, chi tiết gây ấn tượng đầu tiên chính là “cái chụp đèn” ngài đã “chụp  lén đầu quấn khăn”. Thực ra đây là cái nón chóp, một biểu hiện quyền uy tuyệt đối của vua chúa phương Đông.  Nhìn thấy cái nói chóp ấy là nhìn thấy Thiên tử. Nhưng khổ thay, thanh niên người Pháp lại không hề biết tới cái nón chóp biểu hiện quyền uy này. Họ không hiểu cái vật Khải Định đội trên đầu là gì. Ở một thủ đô văn minh, tráng lệ như Pari thì cũng không kiếm đâu ra cái nón nào đặc biệt đến như vậy. Vì thế, đôi tình nhân ấy đã nghi Khải Định đang đội cái chóp đèn ở trên đầu. Đức hoàng thượng này quả thật rất biết cách gây tò mò, gây cho người ta những cảm nhận thú vị. Nhưng hình tượng cái chụp đèn còn mang ý nghĩa châm biếm thâm độc hơn nữa! Dưới cái chọp đèn bình thường là cái bóng đèn thủy tinh, đến thời hạn thì phải thay. Cái chụp đèn này rất đặc biệt vì phía dưới nó là… cái đầu của Khải Định. Đặt ra một sự so sánh thật hài hước mà thấm thía này, phải chăng Bác cũng ngụ ý nói rằng quốc vương An Nam cũng như cái bóng đèn thủy tinh không hơn không kém. Không sử dụng được nữa thì sẽ bị bọn thực dân Pháp hạ xuống rồi vứt đi không thương tiếc! Chỉ qua có một chi tiết cái chụp đèn mà bộ mặt bán nước bù nhìn của Khải Định đã bị vạch trần thật đích đáng! Lâu nay, nhiều ý kiến phân tích cho rằng cách nhìn của đôi tình  nhân trẻ người Pháp về gương mặt Khải Định chứa đựng sự phân biệt chủng tộc.

Nhưng chúng ta hãy thử tìm hiểu đôi chút về khoảng thời gian sau chuyến du Tây của ông vua này. Sau khi về nước (vào năm 1923) thì đến năm 1924, Khải Định đã tổ chức sự kiện mừng thỏ. Và đến năm 1925 – từ là chi một năm sau – hắn đã qua đời. Như vậy, đôi mắt tò mò tinh quái của đôi tình nhân kia (thực chất là đôi mắt của Nguyễn Ái Quốc) đã cho ta thấy được hiện tình bệnh hoạn của ông vua sắp chết non này. Quả thật, qua chi tiết cái chụp đèn, ta thấy Khải Định là người đã lấy cái uy quyền của mình để làm trò lạ mắt cho người Pháp. Còn những nét trên gương mặt Khải Định với “cái mũi tẹt”, “đôi mắt xếch”, “cái mặt bủng như vỏ chanh” đã miêu tả quá rõ thể chất yếu ớt, bạc nhược của hắn. Hắn lo cái thân mình chưa xong mà đòi chèo lái con thuyền dân tộc. Mà thật ra Khải Định cũng đâu có ý định chèo lái cho vận mệnh nước nhà. Hắn giữ ngôi báu ấy chỉ vì mục đích ăn chơi, hưởng lạc của chính bản thân hắn. Phần chân dung còn lại của tên vua bạc nhược ấy được nhìn qua cặp mắt hết sức rành ròi thời trang cua cô gái Pari. Hắn đã đeo lên người “đủ cả bộ lụa là”, “đủ cả bộ hạt cườm”. Bộ dạng kì lạ của hắn khiến cho người Pháp phải bật cười. Quá quắt hơn nữa cả mười ngón tay của hắn “đeo đầy những nhẫn”. Than ôi! Khải Định thật sự không còn nhận dạng của một ông vua. Cô gái Pari đã coi hắn như mọt hình nhân biểu diễn thời trang, cái gì cũng được tính toán chăm chút, đủ bộ. Nhờ tất cả các bộ trang sức ấy đều gây nên sự tò mò đặc biệt, sự phản cảm đặc biệt. Càng không hiểu được thì đôi tình nhân Pháp, thì người Pháp càng có khuynh hướng nhìn Khải Định như một trò chơi. Cuối cùng, tính cách của nhân vật trào phúng Khải Định được lột tả qua việc làm, hành động của y. Cô gái đã nhìn thấy y ở trường đua ngựa với điệu bộ “nhút nhát”, “lúng ta lúng túng như một kẻ dân quê lần đầu tiên được nhìn thấy chốn thị thành. Hắn đang tập tành ăn chơi ở Pari, và thảm hại hơn nữa, hắn chỉ là một tên “công tử bé” phải tập theo thói ăn chơi trác tang của những bậc đàn anh. Khải Định không là vua không được là một người dân bình thường, mà ngay cả trong lĩnh vực cờ gian bạc lận hắn cũng không có đủ tự tin để làm một tay ăn chơi thực thụ. Còn chàng trai thì thuyết phục người bạn gái của mình, rằng Khải Định đang ngồi trước mặt hắn, hắn đang đi vi hành, còn các ông quan bà kiếc đi theo đã bị “gửi tuốt ở kho hành lí” để ông vua này “đi chơi vi hành”. Lại một chi tiết châm biếm thật hài hước, sâu sắc. Khải Định đi vi hành mà chàng trại lại nói là “đi chơi vi hành” vậy tức là hắn đang đi chơi lén. Quan lại triều đình phong kiến đi theo chỉ là những đồ vật, những “hành lí” mang theo của Khải Định. Còn “vị” vua An Nam này thực ra cũng chỉ là một đồ vật được vặn dây cót sẵn mà thôi. Mà thâm sâu hơn nữa, tác giả đã thông qua cuộc nói chuyện phiếm của đôi thanh niên này mà phác họa lên sự đánh giá của dư luận Pháp đối với ông vua dị hơm này.

Thông qua câu nói của chàng trai “nghe nói ông bầu Nhà hát Múa rối có định kí giao kèo thuê đấy…” cũng đủ để ta hiểu Khải Định trước mắt người Pháp chỉ là một trò cười để mua vui. Hắn sẵn sàng thay thế những con rối lòe loẹt, ngộ nghĩnh để làm cho con rối “sống” cho người khác giật dây. Khải Định – một ông vua uy quyền – trước mặt người dân An Nam thì khi sang Pháp hắn lại là một kẻ có thân phận thấp hèn nhất, phải bán mình đê mua vui cho thiên hạ. Mà tệ hại hơn, hắn không phải là một nghệ sĩ hài như Saclô, mà chỉ là một con rối cho người khác giật dây. Như vậy, giá trị của Khải Định dưới ngòi bút của Nguyễn Ái Quốc có cứ hạ thấp xuống dần. Từ một ông vua thích khoe khoang, chưng diện đến lố lăng, từ một ke bạc nhược yếu ớt bệnh hoạn, từ một tên “công tử bé” giờ trở thành một con rối mua vui không chút tự do. Nhưng thực sự, trên phương diện chính trị thì Khải Định đã là một con rối. Một con rối trong vai vua bù nhìn không nhất thiết là phải bán mình làm rối. Vậy phải chăng động cơ khiến hắn phải làm như vậy là vì cần có tiền để vào trường đua ngựa, vào những “hộp đen”…. Thật là hèn kém, nhục nhã…! Xã hội Pháp nhìn Khải Định như môt món đồ chơi. Họ cho rằng hắn rất có ích cho họ. Vì sao vậy? Bởi vì khi Khải Định chưa tới thì người Pari đang “đói” những tin “thời sự” giật gân. “Cái lò ở Giăngbe đã bán chặt ra từng khúc thì không thu hút được công chúng lắm…”. Và thật may mắn cho họ, “đúng lúc đó thì có một anh vua” đã đến với đất Pháp để mua vui  cho họ. Họ tìm hiểu Khải Định bởi tính hiếu kì, quan tâm tới Khải Định cũng như quan tâm những chuyện hình sự vậy. Khải Định thật là một món đồ chơi thú vị cua người Pháp.    Thế còn giá trị tiền bạc của món đồ chơi ấy thì sao? Đôi thanh niên người Pháp đã có một bảng giá trị so sánh rất đặc biệt. Họ phải trả tới nghìn rưỡi Phrăng để xem vợ lẽ nàng hầu của Cao Miên, xem trò leo trèo nhào lộn của bọn sư thánh xứ Cônggô. Còn hôm nay thì họ “có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh”.

Như vậy Khải Định là một món đồ chơi miễn phí cho người Pháp. Hai tình huống nhầm lẫn liên tiếp theo đã được nhân vật “tôi” kể thoáng qua cho cô rm họ ở chốn quê nhà. Sự “thật thà, khờ khạo” của “tôi” đã cho chúng ta cái logic ngược. Chính người trong cuộc đã kể về sự đón tiếp nồng nhiệt của người Pháp khi thấy một người “mũi tẹt”, “da vàng”, Những tiếng “hắn đấy!” hay “xem hắn kìa!” là những lời chào mừng kín đáo và kính trọng mà chúng ta thường gặp dọc đường”. Dĩ nhiên là mọi người đã nhầm lẫn nhân vật “tôi” mà cũng như bất cứ người dân Việt Nam nào mà họ thấy là Khải Định. Và chính ông vua An Nam ấy, với người Pháp chỉ là một kẻ tầm thường, cần bài xích. Trường hợp nhầm lẫn thứ ba là chính quyền quyền thực dân nhầm lẫn “tôi” là Khải Định”. Vì thế “các vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác bà mẹ hiền rình con thơ chập chững bước đi thứ nhất (…) các vị bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng”. Thông qua chi tiết nhầm lẫn này, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bộ mặt thật của bọn thực dân cướp nước. Chúng đã cho mật thám theo dõi những người yêu nước Việt Nam trên đất Pháp như hình với bóng. Chúng đã lừa dối nhân dân Pháp. Ngay trên chính quốc mà chúng cũng không ngần ngại thực hiện những hành vi ám muội. Chúng đã vi phạm hiến pháp, tước đoạt quyền tự do của con người ngay tại thủ đô Pari dân chủ, văn minh nhất châu Âu thời bấy giờ. Sở dĩ tình huống của truyện độc đáo như vậy là vì Nguyễn Ái Quốc đã tạo nên một giọng điệu rất độc đáo thông qua hình thức một bức thư. Thực ra dùng thư để sáng tạo văn chương không phải là trường hơp hiếm hoi trong văn chương phương Tây. Nhưng với tư cách là một tác phẩm của dòng văn học cách mạng Việ Nam. “Vi hành” đã đóng góp vào văn chương hiện đại một hình thức mới được du nhập từ phương Tây. Thư từ vốn thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày trong giao tiếp. Đặc điểm chính cua nó là rất tự nhiên, rất nhiều giọng điệu, nhiều đề tài.

Nguyễn Ái Quốc đã biết lợi dụng vào đặc điểm này của thư từ để tạo ra một cảm giác thật cho một chuyện rất bịa của mình. Mâu thuẫn này đã làm cho hình tượng Khải Định trở nên đặc sắc và nhiều ý nghĩa. Ta bắt gặp ở đây, những lằn roi châm biếm mỉa mai, quất thẳng vào mặt Khải Định theo phong cách châm biếm phương Tây. Ta bắt gặp cái giọng điệu có vẻ ngờ nghệch, cả tin của nhân vật “tôi” nhưng thực ra đó là sự cả tin giả vờ của một người hiểu đến chân tơ kẽ tóc đối tượng mình châm biếm. Ngôn ngữ trong văn bản đã tạo nên một hiệu ứng ngược cho độc giả… Cũng chính nhờ giọng điệu thư từ, ta nghe được tiếng nói của trái tim người viết bồi hồi xao xuyến với quê nhà, với những kỉ niệm thời ấu thơ. “Vi hành” là một tác phẩm văn chương đích thực, mặc dù người viết chỉ coi đó là một hành vi cách mạng. Nếu không có một trái tim yêu nước, không có lòng căm thù bọn phong kiến tay sai, bọn thực dân xâm lược, không có sự phẫn uất nhục nhã khi chứng kiến cảnh ô nhục của Khải Định thì sẽ không có tác phẩm “Vi hành”  ra đời. Tuy nhiên cũng cần khẳng định, để làm nên thành công rực rỡ của tác phẩm “Vi hành” một phần là do sự hiểu biết sâu sắc về văn học phương Tây và một năng khiếu trời phú cho Nguyễn Ái Quốc. Tác giả đã sáng tạo  được những phần nữa là tình huống nhẫm lẫn, vẽ nên bức chân dung trào phúng độc đáo về Khải Định. Tác phẩm được viết năm 1923, nhưng chúng ta thấy hoàn toàn có lí khi xếp nó vào dòng văn học cách mạng Việt Nam 1930 – 1945.

Phân tích tác phẩm Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) – Bài làm số 4

Sinh thời Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh (1890-1969) không có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn học. Nhưng căn cứ vào di sản mà Người để lại cho dân tộc đủ để ta khẳng định: Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là một nhà thơ, nhà văn lớn. Thơ của Người có thể sánh với Lí Bạch, Đỗ Phủ (Trung Quốc); văn của Người có thể so sánh với Huy Gô, BanGiắc (Pháp). Tiêu biểu nhất trong các sáng tác văn xuôi của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh phải kể đến Vi Hành, một truyện ngắn vừa có nội dung sâu xa vừa có nghệ thuật độc đáo.

Năm 1922, nhằm phô trương thanh thế, bòn rút chính quốc và tăng cường khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã tổ chức đưa vua Khải Định sang "nước mẹ" dự cuộc đấu xảo thuộc địa, tổ chức tại cảng Véc-xay. Vua Khải Định, đây là cơ hội để ăn chơi xa xỉ và vận động cho ngôi vua cua con cháu sau này được chắc chắn. Lúc đó nhiều người Việt Nam yêu nước trên đất Pháp đã vô cùng phẫn nộ. Phan Châu Trinh lập tức cho công bố một bức thư nổi tiếng lên án Khải Định, trong đó ông đã khẳng định Khải Định có bảy tội đáng chết chém (thư thất điều). Nguyễn Ái Quốc "chào đón" Khải Định bằng một loạt sáng tác: Lời than vãn của bà Trưng Trắc; Sở thích đặc biệt; kịch Con rồng tre và nổi bật nhất là truyện ngắn Vi hành.

Vi hành là một truyện ngắn độc đáo được viết dưới dạng hình thức một bức thư gửi cô em họ, được chính tác giả dịch ra tiếng Pháp và cho đăng trên tờ báo Nhân đạo năm 1923.

Nằm trong hệ thống tác phẩm được sáng tác theo một dụng ý chính trị rõ rệt, Vi hành đả kích, tố cáo chế độ đế quốc và phong kiến mà trực tiếp là thực dân Pháp và vua bù nhìn Khải Định. Vậy vua Khải Định dưới mắt nhìn của người dân Pháp đã hiện ra như thế nào?

Có thể nói, Khải Định được tác giả khắc hoạ rất chân thực mặc dù nhân vật không hiện diện trong tác phẩm. Từ hình dáng đến phục sĩ: của Khải Định đều rất kệch cỡm, nhố nhăng, lố bịch và kì quặc. Hãy nghe một cô gái Pháp tả Khải Định: Hắn có cả cái chụp đèn đè chụp lên đầu, các ngón tay thì đeo đầy những nhẫn, vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bủng vỏ chanh. Hắn đeo lên người đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm… Với phương Tây, vào những năm 20 của thế kỉ XX đã là thời kì của xã hội tư bản phát triển. Giữa một thủ đô tráng lệ như Pa ri, nổi tiếng thế giới với các mốt ăn chơi trang điểm, thì cách phục sức của Khải Định là quá cổ lỗ sĩ, đặc biệt là dưới mắt nhìn cua những thanh niên Pháp, vẫn là nhân vật cô gái nhận xét Khải Định: Em thì em đã thấy hắn ở trường đua, trông hắn có vẻ nhút nhát hơn, lúng ta lúng túng hơn cơ… có khi hắn đã gửi tuốt ở kho hành lí nhà ga để đi vi hành đấy… Hay là chán cảnh ông vua to, bây giờ lại nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé. Một ông vua như thế thì thật là xấu xa. Cứ như lời cô gái Pháp thì Khải Định đã lén lút vi hành để tìm đến các nhà thổ, các trường đua ngựa, để lao vào các cuộc cá cược đỏ đen như con bạc khát nước rồi cuối cùng phải vào hiệu cầm đồ. Ăn chơi xấu xa, sa đoạ, thô bỉ, Khải Định không có tư cách của một ông vua.

Trong con mắt người Pháp, Khải Định chỉ là một thằng hề, một con rối dưới bàn tay điều khiển của bọn thực dân Pháp. Em thì em thích Sác- Lô hơn… Phải trả những ngàn rưỡi phờ răng để xem vợ lẽ, nàng hầu vua Cao Miên, tụi làm trò nhào lộn của sứ thánh Công Gô; hôm nay chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua ngay bên cạnh? Nghe nói ông bầu nhà hát múa rối có ý định kí giao kèo thuê đấy. Lời bộc lộ tâm tình tự nhiên là của đôi trai gái người Pháp. Đó có thể xem là một lời đánh giá khách quan nhất về Khải Định. Cứ đó mà suy, ta thấy Khải Định được so sánh theo giá trị giảm dần: với anh hề Sác Lô; với nàng hầu (con sen) của vua Cao Miên; rồi đến thay cho con rối trong nhà hát… thật Khải Định không còn là một con người nữa.

Không dừng lại ở việc phê phán vua bù nhìn Khải Định, Vi Hành còn nhằm tố cáo những chính sách thuộc địa dã man, nham hiểm và bịp bợm của thực dân Pháp. Qua lời bộc lộ suy nghĩ của nhân vật trữ tình, khi tính cách của Khải Định được bộc lộ, thì tội ác của thực dân Pháp cũng bị bóc trần. Tác giả Nguyễn Ái Quốc. Với tầm nhìn lãnh tụ mặc dù lúc đó Nguyễn Ái Quốc chưa phải là lãnh tụ) Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bộ mặt xâm lược của thực dân qua ba chính sách tiêu biểu của chúng.

Thứ nhất,: Thực dân Pháp đã thực hiện một chính sách ngu dân ở Việt Nam bằng cách đầu độc người dân bản xứ bằng thuốc phiện, rượu cồn. Đây có thể xem là kế sách thâm độc nhất của bọn thực dân. "Dân ngu dễ trị" được bọn chúng xem như là một học thuyết cai trị. Chỉ cần qua một câu nói của nhân vật trữ tình, cái bộ mặt "chăm dân" của bọn thực dân đã bị lật tẩy: Phải chăng ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là A-Lếch-Xăng đệ nhất, có được sung sướng, có được quyền uống nhiều rượu cồn và đi được hút nhiều thuốc phiện bằng dân An Nam dưới quyền ngự trị của ngài hay không?

Thứ hai, tác giả vạch trần chính sách tuyên truyền dối trá, bịp bợm của bọn thực dân. Đem quân đi ăn cướp nước người mà lại gọi là "bảo hộ", là "khai hoá văn minh". Tác giả đã bóc trần sự thật này chỉ bằng một câu chứa đựng mâu thuẫn, phi lôgíc: Đến nay tất cả ai ở Đông Dương có màu da trắng đều là những bậc "khai hóa", thì bây giờ đến lượt tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành hoàng đế ở Pháp…

Thứ ba, tác giả Vi hành còn lên tiếng tố cáo chế độ nhà tù, chính sách mật thám truy nã, bủa vây những người Việt Nam yêu nước trên đất Pháp. Qua câu chuyện bịa 100% tác giả lại nói về một sự thật 100%. Bịa là, bức thư gửi cô em họ; ngay cả chính phủ Pháp cũng không biết ai là Khải Định… thật là Khải Định sang Pháp, thực dân Pháp lấy lí bảo vệ Khải Định để theo dõi, bủa vây những người Việt Nam hoạt động trên nước Pháp, đặc biệt là Nguyễn Ái Quốc. Tác giả viết: "Cái.vui nhất là ngay cả đến chính phủ cũng không ai nhận ra được khách thật của mình nữa, và để chắc chắn khỏi thất thố trong nhiệm vụ tiếp tân chính phủ bèn phải đối đãi tốt với tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá tuốt!… và giá có được thấy các vị ấy ân cần theo dõi tôi chẳng khác bà mẹ rình con thơ chập chững bước đi thứ nhất, thì hẳn cô phải phát ghen lên được vì nỗi âu yếm của các vị đối với tôi. Có thể nói các vị bám lấy đế giầy tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng". Rõ ràng đây không phải là một sự chăm sóc ân tình mà lại một sự bủa vây kìm kẹp. Vẫn biết Vi hành được sáng tác theo một dụng ý chính trị, nhưng không vì thế mà tác giả xem nhẹ nghệ thuật; trái lại, truyện ngắn Vi hành là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của một nhà văn bậc thầy: Nguyễn Ái Quốc. Sự sáng tạo trong Vi Hành được thể hiện trong từng tế bào của tác phẩm

Nhan đề tác phẩm đã là một sáng tạo. Từ "vi hành" có xuất xứ từ Trung Quốc nghĩa gốc là chỉ hành động c

0