13/01/2018, 16:45

Phân tích tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu) – Văn hay lớp 11

Phân tích tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu) – Văn hay lớp 11 Phân tích tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu) – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Thái Nguyên Phan Bội Châu (1867 -1940) là nhà yêu nước và cách mạng của dân tộc Việt Nam -người ...

Phân tích tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu) – Văn hay lớp 11

Phân tích tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu) – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Thái Nguyên

Phan Bội Châu (1867 -1940) là nhà yêu nước và cách mạng của dân tộc Việt Nam -người từng được đánh giá là "bậc anh hùng, vị thiên sứ được hai mươi triệu đồng bào trong vòng nô lệ tôn sùng" (Nguyễn Ái Quốc -Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu). Ông là đại diện đầu tiên tiêu biểu nhất cho đội ngũ các nhà cách mạng biết dùng thơ văn như một thứ vũ khí chiến đấu hiệu quả nhất. Cuộc đời của Phan Bội Châu là một minh chứng cho lí tưởng "chí nam nhi" của các bậc quân tử phương Đông. Phan Bội Châu là người khơi dòng chảy cho loại văn chương trữ tình -chính trị. Thơ ông thể hiện một bầu nhiệt huyết luôn sục sôi của một người mà lí tưởng duy nhất là giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Suốt những năm trai trẻ đến những ngày làm "ông già Bến Ngự", Phan Bội Châu luôn nung nấu trong lòng khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng một đất nước dân chủ tiến bộ.

"Lưu biệt khi xuất dương" thể hiện vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của lớp nhà nho tiên tiến đầu thế kỉ XX: ý tưởng mạnh mẽ, táo bạo, nhiệt huyết và khát vọng giải phóng dân tộc luôn sôi trào. Bằng một giọng thơ sôi nổi, đầy hào khí, tác giả đã thể hiện được tinh thần chung của thời đại, đã thổi vào không khí cách mạng đầu thế kỉ XX một luồng sinh khí mới. Điều này có một ý nghĩa vô cùng quan trọng cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam ở thời điểm cam go nhất.

Lưu biệt khi xuất dương được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Hình thức cổ điển nhưng tứ thơ, khí thơ và cảm hứng lại rất hiện đại, đó là sản phẩm tinh thần của một nhà nho tiến bộ. Bài thơ thể hiện một lí tưởng sống cao đẹp, đồng thời là một bài học về đạo làm người.
Bài thơ là sự nối tiếp xuất sắc cảm hứng về chí làm trai của văn học truyền thống từ thời Phạm Ngũ Lão đến Nguyễn Công Trứ:

Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
(Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.)

Hai câu thơ đã thể hiện một lí tưởng đẹp của con người. Con người phải làm chủ bước đi của lịch sử, phải tích cực tham gia vào sự vận động của thế sự. Mở rộng ra nghĩa là con người phải chủ động trước hoàn cảnh. "Làm trai" là khẳng định chí khí của thanh niên nói chung, chứ thực ra, Phan Bội Châu không phải là người có tư tưởng bảo thủ "trọng nam khinh nữ". Trong Trùng Quang tâm sử, ông đã thể hiện tư tưởng tiến bộ của mình qua việc xây dựng một số hình tượng người phụ nữ anh hùng, có chí khí như cô Chí (Tỏ mặt anh thư). Mở đầu bằng việc khẳng định lí tưởng truyền thống, tác giả đã tạo nên tâm thế để tiếp tục khẳng định:

Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ.
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?)

Một lời khẳng định dứt khoát, đầy khí phách về sức mạnh của con người trước càn khôn. ý thức về cái Tôi đã được tác giả tận dụng triệt để bằng cách tạo nên thế đứng đặc biệt: sự ngang hàng giữa "tớ" và “khoảng trăm năm". Đây không phải là sự đề cao cái Tôi một cách bi quan hay cực đoan như ở một số nhà thơ mới sau này mà là sự khẳng định trách nhiệm của mỗi người, nhất là thanh niên, đối với vận mệnh dân tộc. Câu thơ cũng là lời giục giã, đánh thức tinh thần đấu tranh của con người. Là lãnh tụ cách mạng đầy tâm huyết, Phan Bội Châu là người luôn có ý thức kêu gọi mọi người cùng góp sức tranh đấu. Để đánh thức tầng lớp thanh niên những năm đầu thế kỉ XX đang bị ru ngủ bởi những trò tiêu khiển được du nhập từ phương Tây, ông đã viết Bài ca chúc tết thanh niên (1927). Chính từ ảnh hưởng của bài thơ này mà đã có rất nhiều thanh niên ra đi tìm đường cứu nước.

Sau khi khẳng định chí nam nhi, nhà thơ lại nói đến trách nhiệm đối với dân tộc của mỗi người. Tấm lòng và nhân cách cao đẹp của một nhà nho, một con người chân chính đã thể hiện ở đây:

Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!
(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!)

Hai câu luận vẫn tiếp tục được viết dưới hình thức đối ngẫu quen thuộc của thơ cổ điển, nó vừa khẳng định khí tiết vừa là quyết tâm của người chiến sĩ. Vào thời buổi đó của đất nước, ra đi tìm đường cứu nước là lí tưởng đúng đắn. Lúc này, khi dân tộc đã mất tự do, chủ quyền đất nước bị xâm hại, thì việc đầu tiên, cần thiết nhất không phải ngồi đó để học thứ văn chương cử tử nữa. Câu thơ không có ý chê bai hay bài xích chuyện học đạo thánh hiền mà chỉ có ý khuyên con người ta phải sống với thời cuộc. Nước mất thì nhà tan, thân nô lệ làm sao mà thực hiện được đạo thánh hiền. Câu thơ còn thể hiện nỗi xót xa của nhà thơ. Đất nước tao loạn, dân chúng lầm than, đói khổ, đạo đức xã hội suy đồi khiến những con người có trách nhiệm với dân tộc phải suy nghĩ mà đau lòng. Trên thực tế, khi thực dân Pháp vào xâm lược đất nước ta, văn hoá phương Tây vốn rất xa lạ với người phương Đông đã ồ ạt tràn vào Việt Nam, mang theo nhiều điều mới mẻ nhưng cũng không ít rác rưởi. Nó đã gây nên sự xáo trộn ghê gớm trong nền đạo đức, luân lí xã hội. Và trở thành nỗi đau đời của các nhà nho vốn coi trọng "tam cương ngũ thường". Non sông bị chà đạp, dân tộc mất tự do, nền luân lí, đạo đức xã hội bị đảo lộn đã khiến những người có trách nhiệm với dân tộc như Phan Bội Châu đau lòng. Những từ như tử (chết), nhuế (nhơ nhuốc), si (ngu) đã thể hiện thái độ khinh thường của tác giả đối với những kẻ tự ru ngủ mình bằng cách ngồi đọc sách thánh hiền trong lúc dân tộc đang lầm than, đồng thời khẳng định khí tiết hiên ngang, bất khuất của một nhân cách cao đẹp.

Đến hai câu kết thì những nét bút kì vĩ cuối cùng đã hoàn thiện hành động kiệt xuất của một cuộc đời kiệt xuất:

Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)

Khí thế ra đi thật hùng dũng và đầy quyết tâm, tràn trề sức mạnh. Câu thơ cuối cùng khẳng định bầu nhiệt huyết đang sục sôi của người ra đi. Hướng về phía đông (cụ thể là nước Nhật), người ra đi với một quyết tâm rất cao. Bản dịch chưa dịch hết được tinh thần của nguyên tác ở ba chữ nhất tề phi. Cái mạnh mẽ và hùng dũng, đầy nhiệt huyết và cũng tràn đầy hi vọng thể hiện ở câu thơ cuối cùng này. Hình ảnh kết thúc bài thơ hào hùng, lãng mạn, thể hiện được tư thế ra đi đầy khí phách của con người trong thời đại mới. Người ra đi đã gửi gắm bao nhiêu hi vọng vào con đường mình đã chọn.

Vẫn tiếp tục thể hiện chí làm trai của văn học truyền thống nhưng Phan Bội Châu đã mang đến cho chí khí ấy một sắc màu, một khí thế mới, hiện đại hơn. Bài thơ không chỉ có ý nghĩa động viên khích lệ thế hệ thanh niên lúc đó mà còn thể hiện một lẽ sống đẹp, là bài học làm người cho thanh niên  tầng lớp hùng hậu và mạnh mẽ nhất  mọi thời đại. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình tượng đẹp về một nhà nho tiến bộ đầu thế kỉ XX với lí tưởng cứu nước, khát vọng sống, chiến đấu vì dân tộc, lòng tin và ước mơ về một tương lai tươi sáng.
Lời tạm biệt đầy nhiệt huyết, tâm thế ra đi đầy hào hứng và hiên ngang, bài thơ là khúc tráng ca của một thời đại đau thương nhưng đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Và là tấm gương sáng ngời muôn thủa để người đời sau soi mình. Đó là những giá trị bất hủ của Xuất dương lưu biệt.

Bài thơ là lời mời gọi lên đường, gửi gắm một khát vọng hoài bão mãnh liệt, khẳng định tình yêu đất nước tha thiết và thôi thúc tin h thần chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc của tác giả.Giọng điệu bài thơ tâm huyết sâu lắng mà sôi sục, hào hùng, cùng với bút pháp khoa trương thể hiện niềm lạc quan, nhiệt tình hành động cùng những tư tưởng cách mạng của tác giả. Hình ảnh thơ kỳ vĩ, lớn lao kết hợp với những từ láy gây ấn tượng mạnh đã làm nổi bật được chí vá trời, lấp biển của nhà thơ Phan Bội Châu

Phân tích tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu) – Bài làm số 2 

Phan Bội Châu (1867-1940), ôi cái tên đẹp một thời. “Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại” (Tôn Quang Phiệt). Phan Bội Cháu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quôc khoảng 25 năm đầu thế kỉ XX. Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu Iiước như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài vàn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tình yêu nước. ‘‘Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng (Tố Hữu).

Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguvên khoa thi Hương trường Nghệ Năm 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tố chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông du. Trước lúc lên đường Đông du, qua Trung Hoa, để cầu ngoại viện với bao hoài bão tung hoành, ông để lại đồng chí bài thơ “Xuất dương lưu biệt”. Có thể nói bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sư nghiệp giải phóng dân tộc của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.

“Xuât dương lưu biệt” được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú  Đường luật, là khúc ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.

 Hai câu để là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sông cao cả:

“Sinh vi nam tử yếu hi kì

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”

Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên “điều lạ” (yêu hi ki). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường. Không thế sống một cách thụ động cho trời đất (càn khôn) “tự chuyển đời” một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi, tự tin ở mức độ, tài năng của mình muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyến trời đất, như ông đã nói rõ trong một bài thơ khác:

“Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,

Mở miệng cười tan cuộc oán thù”.

Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạnh vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu, ta mới cảm nhận được cái khẩu khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cồ:

“Mỗi phận bất vong duy trúc bạch,

Lập thân tối hạ thị văn chương”

(“Tùy viên thi thoại" – Viên Mai)

(Bữa bữa nhừng mong ghi sử sách,

Lập thân xoàng nhất ấy văn chương).

Đấng nam nhi muốn là nên “điều lạ” ở trên đời ấy có một “bầu máu nóng" sôi sục: “Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đèn những chỗ nói người xưa chịu thuế để thành dạo nhân, nước mắt lại đầm đìa nhỏ xuống ướt đẫm cả giấy…” (Ngục trung thư).

Phần thực, ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò cùa minh trong xã hội và trong lịch sử:

“Ư bách niên trung tu hữu ngã,

Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”

“Ngã” là ta: “tu hữu ngã” nghĩa là phải có ta trong cuộc dời “một trăm năm ” (bách niên trung). Câu thơ khẳng định, biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. “Thiên tải hậu” nghìn năm sau, là lịch sử của đát nước và dân tộc há lại không cố ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định đế làm nổi bật điều khẳng định. Đó là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ỷ tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử:

"… Dâu cho trăm thân, này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta củng cam lòng”.

("Hịch tướng sĩ' – Trấn Quốc Tuấn).

"… Nhân sinh tự cổ thày vô tử,

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.

(Văn Thiên Tường)

Lấy cái hữu hạn “bách niên” của một đời người đối với cái vô hạn “thiên tải" cùa lịch sử dân tộc. Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và nguy hiểm, ông vẫn bất khuất, lạc quan:

“Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,

Bao nhiêu nguy hiềm sợ gi đâu!”

(“Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông")

Phần luận, tác giả nói về sống và chết, nói về công danh. Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm dài đen tối dưới ách thống trị cùa thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại xâm chiếm, giày xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu, có sông cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nâu sử xôi kinh, có chúi đầu vào con đường khoa cử cũng vô nghĩa. Sách vở của “thánh hiền” liệu còn có ích gì trong sự nghiệp cứu nước cứu nhà:

“Non sông đã chết, sống thêm nhục,

Hiền thánh còn đáu học cũng hoài”.

Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước hết. Ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành, ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lốì học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở di tìm lí tưởng cao cả. Trong bài “Bài ca chúc tết thanh niên” viết vào dịp Tết nám 1927, Cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:

“Ai hữu chỉ từ nay xin gắng gỏi

Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần

Đừng ham chai, đừng ham mặc, đừng ham ăn

Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa

Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…”

Sống như thế là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên “điều lạ' ở trên đời, mới tự khẳng định được: “Trong khoảng trăm năm cần có tớ”.

Phần luận là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm màu sắc lãng mạn:

“Nguyện trục đường phong Đông hải khứ Thiên trùng bạch lãng nhát tề phi”.

Thơ vân Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cố vũ lòng yêu nước, khêu gợi lòng căm thù giặc. Thơ vãn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bài ca ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sôi sục nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết là một ví dụ hùng hồn: "Trường phong” (ngọn gió dài), “thiên trùng bạch lãng” (ngàn lớp sóng bạc), lã hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sĩ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ “nguyện trục” (mong đuổi theo) và “nhất tề phi” (cùng bay lên). Cái

không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là “Đông hải”. Nếu hai thanh trắc cuối câu 7 (Đông hải khứ) làm cho ám điệu thắt lại, nỏn lại thì hai thanh bằng cuối câu 8 (nhất tề phi) lại làm cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng bổng trầm ấy cũng góp phần thề hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của Phan Bội Châu, ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đâu và khẩu khí cùa người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thông nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đả nói ở hai câu kết.

“Xuất dương lưu biệt” là bài thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng. Tráng lệ nhất là hai câu kết. Bài thơ thế hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.

Phân tích tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu) – Bài làm số 3 

Phan Bội Châu (1867-1940) là một nhà yêu nước và cách mạng lớn của dân tộc,trong ông luôn sục sôi ý chí tìm ra con đường cứu nước mới cho dân tộc.

Tuy văn tài lỗi lạc nhưng ông không xem văn chương là con đường sự nghiệp của mình, ông chỉ muốn dùng nó để lên tiếng cho cách mạng, cho dân tộc đang sống trong đói khổ lầm than, để những người thanh niên yêu nước đứng dậy làm cách mạng cứu nước, cứu dân. Tinh thần yêu nước ấy được thể hiện rõ trong tác phẩm “Lưu biệt khi xuất dương” (1905)được ông sáng tác trước lúc lên đường sang Nhật. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mang hình thức cổ điển, khí thơ và cảm hứng lại rất hiện đại, đó là sản phẩm tinh thần của một nhà nho tiến bộ. Bài thơ thể hiện một lí tưởng sống cao đẹp, đồng thời là một bài học về đạo làm người,một bài ca hùng tráng về chí nam nhi của nhân vật trữ tình mang vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng.

Thật xứng đáng với vẻ đẹp ấy,Phan Bội Châu mở đầu bài thơ không phải là những lời chia tay,nhớ thương bịn rịn của người đi kẻ ở lại,mà đó là những câu thơ mang lí tưởng hoài bão của con người đang sục sôi ý chí muốn làm chủ vũ trụ,muốn xoay chuyển càn khôn đất trời:

 “Làm trai phải lạ ở trên đời 

Há để càn khôn tự chuyển dời”

(Sinh vi Nam tử yếu hi kì 

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi )

Hai câu thơ là một lí tưởng đẹp của con người. Con người phải làm chủ bước đi của lịch sử, phải chủ động trước hoàn cảnh. "Làm trai" là khẳng định chí khí của thanh niên,sống là phải “lạ”,làm nên sự nghiệp lớn để lại tiếng thơm muôn đời,đem lại cho đất nước cuộc sống ấm no,không thể sống tầm thường ích kỉ,chỉ cảm thụ cuộc sống riêng mình.trước Phan Bội Châu đã có bao nhiêu con người ưu tú nói về chí làm trai với lòng nhiệt thành cháy bỏng – “Nam nhi vị liễu công danh trái / Tu thỉnh nhân gian thuyết Vũ hầu”(Phạm ngũ lão ).Song,hai câu thơ của cụ Phan vừa như một câu hỏi tu từ khẳng định chí làm trai giữa trời đất vừa là lời đối thoại rằng không lẽ đấng nam nhi lại để mạc cho trời đất tự chuyển dời,tới đâu thì tới,còn “chúng ta” là kẻ đứng ngoài không phận sự hay sao? Chỉ hai câu đề ta cũng thấy được một lối sống cao đẹp tiến bộ đầy bãn lĩnh,sẵn sàng thách thức càn khôn vũ trụ mang vẻ đẹp của khí phách hào hùng người chí sĩ Phan Bội Châu. Khí phách ấy lại vang lên mạnh mẽ hơn trong hai câu thơ tiếp theo:

“Trong khoảng trăm năm cần có tớ 

Sau này muôn thuở há không ai?”

Nhân vật trữ tình ý thức dược trách nhiệm của mình trước đồng loại,trước đất trời bao la. “Trong khoảng trăm năm” này cần có một người sẵn lòng phục vụ cách mạng,phục vụ những lí tưởng cao đẹp mang lại yên bình cho đồng loại. “Trăm năm” ẩn dụ cho một đời người,một cuộc sống mà “tớ” có trách nhiệm gánh vác.Cái tôi của tác giả mang đầy trách nhiệm,”tớ” đang hiện diện hôm nay phải làm được một điều j đó có ý nghĩa cho đời, “tớ” thấy việc không thể không làm,không thể ỷ lại cho ai.Cái tôi về trách nhiệm ấy lại cho ta thấy được lịch sử là một dòng chảy liên tục,có sự chung tay góp sức của nhiều thế hệ.”Sau này muôn thuở há không ai?” -câu thơ vừa đặt ra cho ông cũng như cho những người thanh niên yêu nước của dân tộc trước cảnh nước nhà.Song,ông cũng đặt một niềm tin về thế hệ mai sau của dân tộc sẽ làm nên chuyện lạ,sẽ làm nên non sông này ngàn đời tươi đẹp.Giọng thơ đĩnh đạc hào hùng mang niềm tin của nhân vật trữ tình,đồng thời khẳng địnhvai trò của cá nhân ông,thúc giục những chí sĩ yêu nước lên đường.

Cái chết vinh quang hay cuộc sống tủi nhục lại được nhân vật trữ tình thể hiện trong hai câu tiếp theo:

Non sông đã chết sống thêm nhục,

Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.

Câu thơ mang nỗi đau đớn,xót xa của tác giả. Lúc này, khi dân tộc đã mất tự do, chủ quyền đất nước bị xâm hại, thì việc đầu tiên, cần thiết nhất không phải học văn chương cử tử nữa. Câu thơ không có ý chê bai hay bài xích chuyện học đạo thánh hiền mà chỉ có ý khuyên con người ta phải sống với thời cuộc. Nước mất thì nhà tan, dân chúng lầm than, đói khổ, đạo đức xã hội suy đồi khiến những con người có trách nhiệm với dân tộc phải suy nghĩ mà đau lòng.Với nghệ thuật đối lập được ông sử dụng một cách tài tình -gắn sự sống chết công danh của bản thân với sự mất còn vinh nhục của đất nước.Hình ảnh này vừa mang vẻ đẹp lãng mạn – sự nhận thức sâu sắc về thời cuộc -lại mang khí phách hào hùng của đấng nam nhi khi lòng nhiệt huyết đưa dân tộc ra khổi kiếp sống lầm than đang len lỏi khắp da thịt ông.

“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”

Việc “lạ” của nhân vật trữ tình đang nung nấu sắp khởi hành.Tư thế hăm hở,mang long quyết tâm về cuộc xuất dương cứu nước,nhà thơ thoát ra khỏi tủi thẹn,day dứt của hai câu thơ trước để sang hai câu thở cuối,rồi lên chiếc thuyền sắp ra khơi.Những “cánh gió” “sóng bạc”mang vẻ đẹp lãng mạn về những sóng gió,thăng trâm phía trước.Nhưng những hình ảnh này lại được ông khắc họa bằng giọng thơ hào hùng,bay bỗng.Tâm thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay vào một con đường hoạt động mới,;bay lên quẫy sóng đại dương,bay lên cùng những đợt sóng trào sôi thoáng hiện trong tâm trí ông.ông không xem đó là những cách trở,những vật cản trên con đường sự nghiệp cách mạng của mình,mà trái lại ông xem chúng như bạn đường,là đối tượng để mình đua sức đua tài.Nhiệt huyết cứu nước cứu đồng loại đã lấn át nỗi lo âu trong ông.Khí thế ra đi thật hùng dũng và đầy quyết tâm, tràn trề sức mạnh.Hình ảnh kết thúc bài thơ hào hùng, lãng mạn, thể hiện được tư thế ra đi đầy khí phách của con người trong thời đại mới. Người ra đi đã gửi gắm bao nhiêu hi vọng vào con đường mình đã chọn.Bài thơ là cuộc chia tay từ biệt nhưng cũng là tiếng hô gọi,là bàn tay vẫy gọi những lý tưởng cách mạng mới những con người yêu nước của thế hệ thanh niên tràn đây nhựa sống và phía xa xa kia là cánh cửa cuộc sống ấm no hạnh phúc của muôn dân.

Nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình tượng đẹp về một nhà nho tiến bộ đầu thế kỉ XX với lí tưởng cứu nước, khát vọng sống, chiến đấu vì dân tộc, lòng tin và ước mơ về một tương lai tươi sáng.Những hình ảnh kì vĩ về vũ trụ bao la càng làm rõ vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của người lên đường – chiến sĩ yêu nước Phan Bội Châu.

Hồng Loan tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm:

  • bai viết số 1 lớp 11 hay phân tich nhân vạt trong lưu biệt khi xuất dương
  • phân tích vẻ đẹp của các hình ảnh : trường phong đông hải thiên trường bạch lãng?

Bài viết liên quan

  • Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du – Văn hay lớp 8
  • Phát biểu cảm nghĩ về bài Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu – Văn hay lớp 7
  • Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh – Văn hay lớp 9
  • Phân tích tác phẩm Ánh trăng – Văn hay lớp 9
  • Giải bài tập Lịch sử 11 Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914)
  • Ý kiến của em về đề tài “Trên đời cái gì quý nhất? An cho là lúa gạo, Bình …” – Văn hay lớp 7
  • Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ – Văn hay lớp 9
  • Phân tích tác phẩm Vội vàng (Xuân Diệu) – Văn hay lớp 11
0