13/01/2018, 16:45

Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Văn hay lớp 11

Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Văn hay lớp 11 Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi tỉnh Cà Mau Nguyễn Bính (1918 – 1966) tên khai sinh là Nguyễn Bính Tuyết. Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà, biết làm thơ từ năm 13 tuổi. Năm ...

Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Văn hay lớp 11

Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi tỉnh Cà Mau

Nguyễn Bính (1918 – 1966) tên khai sinh là Nguyễn Bính Tuyết. Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà, biết làm thơ từ năm 13 tuổi. Năm 1937, tập thơ Tâm hồn tôi được Tự lực văn đoàn trao giải. Năm 1945, Nguyễn Bính vào Nam Bộ. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ rồi kháng chiến chống Pháp, ông ở lại tham gia kháng chiến Nam Bộ, phụ trách đoàn Văn hóa Cứu quốc tỉnh Rạch Giá. Sau đó, ông chuyển sang công tác ở Ban văn nghệ khu Tám, sáng tác thơ, viết truyện kí và tùy bút. Năm 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, tiếp tục sáng tác, là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1956, ông chủ trương tờ báo Trâm hoa. Cuối đời, ông sống ở Nam Định.

Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Song trong khi hầu hết các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của thơ ca lãng mạn Pháp thì Nguyễn Bính về với văn hóa dân gian, gắn bó với môi trường bình dị, thân thuộc của đồng quê, qua những hàng cau, giàn trầu, rặng mồng tơi, cây đa, giếng nước, sân đình… Cùng với Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… ông đã góp một dòng thơ, phái thơ riêng – Thơ mới dân gian, làm phong phú hơn cho thơ mới.

Tương tư rút tong tập thơ Lỡ bước sang ngang, tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính trước cách mạng.

 “Tương tư’ có nghĩa là nhớ nhau, nhưng tâm trạng tương tư không chỉ đơn thuần là nhớ nhung. Nỗi tương tư trong bài thơ này là một phức hợp các cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không hề xuôi chiều. Bắt đầu là sự nhớ nhung:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười thương một người

Rồi đến băn khoăn hờn dỗi:

Hai thôn chung lại một làng

Cớ sao bên ấy không sang bên này?

Đến than thở:

Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

Đến hờn trách mát mẻ:

Bảo rằng cách trở đò ngang

Không sang là chẳng đường sang đã đành

Nhưng đây cách một đầu đình

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?

Rồi nôn nao mơ tưởng:

Bao giờ bến mới gặp đò

Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau

Đến những ước vọng xa xôi:

Nhà em có một giàn giầu

Nhà anh có mốt hàng cau liên phòng

Tất cả diễn biến theo lối xen lồng và chuyển hóa nhau rất tự nhiên, chân thực.

Trong bài thơ, chàng trai có ý trách móc cô gái:

Bề ngoài, điều này là vô lí. Trong tình yêu, người chủ động đi đến phải là người con trai, đằng này lại trong vai thụ động ngồi chờ đợi mới có thể bộc bạch được tâm trạng tâm tư của một người trai quê như thế. Thứ hai, lối trách móc này không phải vì ghét, không giống như sự qui kết trách nhiệm, đỗ lỗi thông thường. Mà trách vì yêu. Do quá mong nhớ, bị nỗi nhớ mong giày vò người trong cuộc dễ tưởng mình bị hờ hững, nên sinh ra “hờn ngược, trách xuôi” thôi, không có hàm ý ghét bỏ. Nói khác đi, trách chỉ là một cách bộc bạch tình yêu. Người đời cũng gọi thế là “trách yêu”.

Người xưa nói:

“Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”

(Một ngày không gặp mặt dài như ba mùa thu)

Để chỉ nỗi nhớ mong của những người đang yêu

Trong bài thơ này, tâm trạng đang chờ đợi, nhớ mong cũng được diễn đạt bằng những hình ảnh thật sắc sảo:

Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm dã thành cây lá vàng

Câu lục ngắt nhịp 3/3 phá đi cái nhịp thông thường của thơ lục bát (2/2/2). Ý và lời vế sau lặp lại vế trước. Cách ngắt nhịp này khiến chữ” lại” ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chạp, ngày mới chỉ còn là sự lặp lại ngày cũ một cách chán ngán và vô vọng. Cả việc ngắt nhịp, lặp lại vế câu và nói nhấn giọng ở chữ “lại” khiến cho giọng thơ vang lên như một lời than thở, kể lể ngán ngẩm. Tất cả điều đó làm hiện lên hình ảnh của một người con trai với tâm trạng nóng lòng chờ trông đến mỏi mòn.

Câu hát diễn tả thời gian và tâm trạng một cách thật tinh tế và ý nhị. Thời gian diễn ra ở câu trên đã chậm chạp sốt ruột, nhưng mới qua lời kể lể thôi. Đến câu này, thời gian mới hiện lên sinh động. Thời gian có màu, đúng hơn, thời gian hiện lên qua việc chuyển màu: lá xanh chuyển thành lá vàng. Ngày anh bắt đầu đợi chờ, cây hãy còn xanh, đến nay lá xanh đã ngả sang vàng cả rồi, thế mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng. Thời gian càng chậm, tâm trạng càng nặng nề, tâm trạng càng mỏi mòn nôn nóng, thời gian càng chậm chạp lê thê. Nhưng điều tinh tế nhất là ở chữ “nhuộm". Thứ nhất, “nhuộm” diễn tả được thời gian chậm chạp. Thứ hai,” nhuộm” để ngỏ chủ thể. Ai nhuộm? Chủ thể này hàm ẩn. Không gian thời gian, cũng không hẳn là sự chuyển biến nội tại của cây lá. Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuộm cây héo úa. Kẻ tương tư và cái cây ấy có mối tương giao thật kì lạ. Cây vừa là nhân chứng của mối tương tư, là đồng minh của kẻ tương tư, là nạn nhận của bệnh tương tư, mà tựu trung, là hiện thân của nỗi tương tư đó. Có thể xem cái kia cũng là cây tương tư được chứ sao!. Lối diễn đạt như thế thật tinh tế, ý nhị.

Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái này càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cảnh và cây cỏ chốn quê.

Trong nỗi nhớ nhung của chàng trai hiện lên những chi tiết về những địa danh, cảnh vật, cây cỏ… thuộc về chốn quê bao đời: thôn Đoài, thôn Đông, đò giang, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau…

Những chi tiết này vừa tạo ra không gian quê kiểng cho nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí, là ngôn ngữ nũa để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Có như thế, tình và cảnh mới có thế hòa quyện vào nhau được. Trong bài thơ này, trước hết thể hiện ở cách tạo ảnh độc đáo: hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông, đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra và khái quát thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng, mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa, gắn với hai chủ thể và hai đối tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn, chính vì có người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Nó tạo ra cho thủ pháp nhân hóa: “Thôn Đông ngồi nhớ…”. Nhưng sâu xa hơn, nó còn biểu đạt được cả môt quy luật tâm lí. Khi tương tư, thì cả không gian sinh tồn bao quanh chủ thể như cũng nhuốm mọi tương tư ấy, vì thế mà có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đầy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhớ nhung.

Thứ hai, nó được thể hiện nghệ thuật sử dụng các chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian, địa danh “thôn Đoài”, “thôn Đông” dùng thành ngữ “chín nhớ mười mong”, dùng số từ “một”, “chín”, “mười”,… cách tổ chức lời thơ độc đáo: nhà thơ đã sử dụng bút pháp tài tình để tạo ra khoảng cách, “thôn Đoài… thôn Đông”, “một người… một người”. Nhất là ở câu sau, hai đối tượng ở hai đầu xa cách, giữa họ là nhịp cầu “chín nhớ mười mong”. Lối sử dụng ngôn từ này đã gợi được phong vị chân quê và thể hiện được giọng điệu kể lể rất phù hợp với việc bộc bạch nỗi tương tư của nhân vật trữ tình.

 Khát vọng lứa đôi trong mối tương tư này còn được biểu hiện tinh vi bằng nhiều cặp đôi trong bài: thôn Đoài – thôn Đông, môt người – một người, gió mưa – tương tư, tôi – nàng, bên ấy – bên này, hai thôn – một làng, bến – đò. hoa khuê các – bướm giang hồ, nhà anh – nhà em, giàn giầu – hàng cau, cau thôn Đoài – giầu thôn Đông.

Các cặp đôi trên xuất hiện theo trình tự từ xa đến gần, cuối cùng dừng lại ở cặp đôi giầu – cau. Điều ấy cho thấy rõ, bên dưới nỗi tương tư là niềm khát khao gần kề, khao khát chung tình, khao khát nhân duyên, tình yêu gắn với hôn nhân là một đặc điểm quan niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Bính(cũng giống với ca dao). Điều này thêm một minh chứng để khẳng định thêm rằng chất truyền thống, chất chân quê đã thấm sầu và hồn thơ Nguyễn Bính.

Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài làm số 2

Tương tư là nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa. Nhưng trong cuộc đời, tương tư lại thường là nỗi nhớ đơn phương. Người này nhớ, mà đôi khi cứ ngỡ người kia vô tình lắm, chẳng hề biết, chẳng muốn biết rằng mình đang khổ sở vì tương tư. Thực tình, nhớ là hiện thân của yêu: một tâm hồn đang nhớ là một trái tim đang yêu ; một tâm hồn ngừng nhớ là dấu hiệu chắc chắn của một trái tim đã ngừng yêu. Cho nên có kẻ nào yêu mà chẳng từng tương tư. Nguyễn Bính cũng thế! Chàng trai chân quê này tương tư và đã trải đến tận cùng những cung bậc tương tư, nói khác đi, là đã bị mọi cung bậc của tương tư giày vò đến khổ sở.

Yêu nhau, mà xa nhau, tất sẽ nảy sinh nhung nhớ. Nhớ nhung, thực chất, là khát khao được có nhau, gần nhau. Xa cách về không gian và thời gian chính là duyên cớ để tương tư. Vì thế mà trong bản chất tình cảm, tương tư là một khao khát, một nỗ lực vượt không gian và chiến thắng thời gian bằng tinh thần. Không gian, thời gian vô cớ trở thành kẻ thù của những tình nhân bị xa cách. Và đây là những kẻ thù nghìn lần đáng ghét. Bởi trong nỗi tương tư, khoảng cách dù là ngắn cũng trở thành diệu vợi, nghìn trùng ; một khoảnh khắc cũng thành đằng đẵng, thăm thẳm. Đôi khi chỉ tấc gang cũng thành vực thẳm. Thậm chí, với một tình nhân giàu dự cảm thì dầu chưa xảy ra xa cách, đã khắc khoải tương tư rồi: – Vừa thoáng tiếng còi tàu  Lòng đã Nam đã Bắc – Nên cả lúc gần anh Mà lòng em vẫn nhớ. (Xuân Quỳnh) Trong bài thơ của mình, Nguyễn Bính đã nói lên nỗi tương tư nghìn đời của những lứa đôi. Ngay những lời mở đầu đã vẽ ra một nỗi tương tư chan chứa cả cảnh sắc thôn làng: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, Một người chín nhớ mười mong một người. Chỉ vì có một chàng trai thôn Đoài đang gửi lòng say cô gái thôn Đông mà cuối cùng đã thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Cách nói bóng gió tạo hiệu quả không ngờ là hai miền không gian đang nhớ nhau. Điều này đâu phải vô cớ. Khi người ta tương tư, cảnh vật xung quanh cũng bị cuốn vào nỗi tương tư, không gian bao quanh cũng ngập tràn nhung nhớ. Người ta có nhìn bằng con mắt khách quan nữa đâu! Cảnh vật nhuốm màu tương tư cả rồi. Câu thứ hai đặc Nguyễn Bính! Ấy là giọng kể lể. Mội câu thơ được viết toàn bằng số từ! Không gian tương tư thật rõ. Câu bát có xu hướng kéo dài, nó càng dài hơn bởi giọng kể lể và chất đầy những số từ thậm xưng theo lối thành ngữ. Mỗi người đứng ở một đầu câu thơ, thăm thẳm, vời vợi. Giữa họ là một khoảng không diệu vợi. Nỗi tương tư giăng mắc một nhịp cầu "chín nhớ, mười mong", khởi lên từ đầu này và chấp chới, và mơ mòng tới đầu kia. Kế đó là một sự lí giải: Gió mưa là bệnh của giời, Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng. So sánh mình với giời, ngông là thế mà thấy cũng chấp nhận được. Bởi cả hai có cùng một căn bệnh. Tôi và Giời hoá ra là hai kẻ đồng bệnh. Thế mà chưa hết đâu, cái tôi này còn toan tính hạ thấp cả giời trong so sánh đó nữa. "Gió mưa là bệnh của giời", thì bệnh đó là môt thứ tật, một thói hư, giời giở chứng ra – một thứ bệnh nội sinh có sẵn! Còn "Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng" thì là căn bệnh mắc phải do "ngoại nhập".

Từ ngày yêu nàng, tôi mới mắc bệnh này. Coi tương tư là một thứ "bệnh", mới kể lể được những khổ sở của cái tôi mang bệnh. Mà bệnh này đã mắc thì… phi em vô phương cứu chữa. Trong câu thơ, thấy có cái giọng chấp nhận một thực tế, một quy luật tất yếu không cưỡng lại nổi. Cái tôi hiện ra vừa như một tình nhân đắm đuối vừa như một nạn nhân tự nguyện rước bệnh, rước khổ sở vào thân. Có phải khi yêu, lời chân thành nào cũng hoá khôn ngoan thế chăng? Có phải thế là sự khôn ngoan… dễ thương? Hình như tương tư thường bắt đầu bằng kể lể, giãi bày, và rồi chẳng mấy ai chịu dừng lại ở đó. Sẽ còn là trách móc, hờn giận, sẽ còn là dằn dỗi đơn phương, khát khao đòi hỏi,… cũng đơn phương. Nghĩa là bệnh tương tư sẽ mỗi ngày một thêm trầm trọng. Mà "kì" nhất là, cũng một không gian ấy thôi, nhưng khi đã kể lể nỗi khổ của mình – cho mình, thì nó bỗng dài ra vô tận, trái lại, đến khi trách móc, "kể tội đối phương" thì nó lại thu hẹp đến kiệt cùng: Hai thôn chung lại một làng, Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này? Mở ra, "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông", tưởng chừng nghìn trùng cách trở. Đến đây, té ra sự cách trở đã hoàn toàn triệt tiêu: tuy hai thôn nhưng thực ra chỉ có một làng. Quái lạ thay là tâm lí tương tư! Khoảng cách có vậy mà khéo co giãn, biến hoá làm sao! Nhưng xem chừng, hay nhất vẫn là sự kể lể về thời gian: Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng Ngày trước, tả mối tương tư Kim – Kiều, Nguyễn Du cũng thấy cái nghịch lí trữ tình của thời gian: Sầu đong càng lắc càng đầy, Ba thu dọn lại một ngày dài ghê. Một ngày thôi mà ngỡ đã ba thu. Thế cũng đã quá ư… trầm trọng! Dẫu sao, đó vẫn là nỗi tương tư được nói bằng giọng người trần thuật, ngoài cuộc. Còn lời thơ Nguyễn Bính vẫn nguyên sự sốt ruột, khắc khoải của người trong cuộc, y như lời lẽ của người đang ngồi bóc lịch đếm từng ngày rề rà chậm chạp trôi qua một cách vô tình, thậm chí như cố tình trêu ngươi vậy! "Ngày qua ngày lại qua ngày", câu thơ di nhịp 3/3, chia thành hai vế, vế này là sự lặp lại của vế kia theo lối trùng diệp. Chữ "lại" chứa đựng một ngán ngẩm. Vừa hi vọng, vừa như thất vọng. Mỗi ngày mới đến nhen lên một hi vọng, để đến cuối ngày, hi vọng tàn đi thành vô vọng. Tất cả gợi được nhịp vận hành lặp đi lặp lại rời rã của những ngày đợi chờ, mong mỏi mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng. Câu thứ hai vẽ ra một người nóng lòng chờ đợi cùng cái cây (nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính thường bộc bạch tâm trạng cùng với một cái cây nào đó. Đây thì chẳng rõ là cây gì. Chỉ biết nó cũng nặng trĩu tương tư! Hay đó là cây tương tư?! ). Kẻ tương tư và cái cây ấy có một mối tương giao kì lạ. Thời gian với kẻ tương tư chẳng vô hình. Nó có màu: ấy là màu vàng héo. Mỗi ngày qua đổ lại một dấu vết nhỡn tiên trên vòm lá. Cái cây khác nào một cuốn lịch thiên nhiên.

Hơn thế, cái cây là nhân chứng của mối tương tư, là tri kỉ câm lặng của kẻ tương tư, là nạn nhân của bệnh tương tư hay là kẻ đồng nạn? – nạn nhân bỡi sự hững hờ của ai kia. Anh đợi em khi cây hãy còn xanh, đến nay cây đã vàng hết cả rồi, vậy mà… Đợi chờ làm cây héo úa, làm người héo hon! Cái cây kia là hình ảnh khác của anh! Cái cây kia chính là anh. Tả cảnh ngụ tình là thế! Phải nói chữ "nhuộm" thật đắt. Cũng viết về sự thay đổi sắc màu trên cây cỏ, khi Thuý Kiều tiễn biệt Thúc Sinh, Nguyễn Du viết: Người lên ngựa kẻ chia hào, Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Chữ "nhuốm" rất động. Nói được sự biến đổi đang diễn ra, chưa hoàn tất. Nó cũng trực tiếp! Dường như sắc màu này vốn từ cuộc chia li ở câu trên đã hắt sang câu dưới, đã phổ vào cảnh vật nên mới "nhuốm". Nó là sự lây lan từ tinh thần con người xâm nhập vào cây cỏ. Còn chữ "nhuộm" của Nguyễn Bính gợi được thời gian. Bởi xem chừng nó tĩnh hơn. Quá trình diễn biến đã hoàn tất: lá xanh đã biến thành lá vàng rồi! sắc thái kể lể đậm hơn. Thời gian đợi chờ của anh đằng đẵng, dằng dặc đến nồi đủ đổ nhuộm một cây xanh thành hẳn cây lá vàng cả rồi! Lời thơ vì thế mà khổ sở, khắc khoải bội phần. Có phải tương tư là một gánh nặng đơn phương, càng nặng nề bao nhiêu, càng nghĩ "đối phương" vô tình bấy nhiêu. Vì thế mà cung bậc tương tư cứ chuyển biến rất tự nhiên từ kể lể, thở than sang trách móc? Mà lời trách móc thì, ôi chao, đầy một lối "quy kết" khó mà "chạy tội" được: Bảo rằng cách trở đò giang, Không sang là chẳng đường sang đã đành. Nhưng đây cách một đầu đình, Có xa xôi mấy mù tình xa xôi… Vẫn cái "luận điệu" dễ ghét ấy. Kể lể nông nỗi mình thì cũng một sự xa cách kia mà hoá muôn trùng, thãm thẳm. Còn ở đây thì "phủ định sạch trơn": không hề có xa cách – khồng có cách trở đò giang, không phải không có đường, mà thậm chí còn gần lắm, chỉ có một đầu đình thôi. Tất cả chỉ do em hờ hững chứ chả có lí do khách quan gì! Người đâu có người mỗi lời lại một vận vào người ta thế có "khiếp" không! Nhưng không có luận điệu ấy thì làm sao có thể "quy chụp" người ta vô tình được! Sao những trái tim yêu lại có thể "ranh mãnh" một cách hồn nhiên đến thế! Vậy đấy, trong nỗi tương tư, trái tim thường cất lên những lời buộc tội thật dễ thương. Và khi "người ta" đã nhân danh nỗi khổ vì tương tư, thì nghe những lời buộc tội "khó chịu" đến đâu cũng đành mà "chịu khó" thôi, nghĩa là cũng thật dễ chịu thôi, chẳng phải thế sao? Trách chưa hết đã lại hờn: Tương tư thức mấy đêm rồi, Biết cho ai, hỏi ai người biết cho! Hờn mát đến điều rồi thì lại khát khao đến độ: Bao giờ bến mới gặp đò? Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau? Và cuối cùng thì khẳng định đinh ninh: Nhà em có một giàn giầu, Nhà anh có một hàng cau liên phòng. Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào? Tất cả đã sẵn sàng và đang nóng lòng chờ đợi. Chỉ còn em nữa thôi! Thôn Đoài đã hẳn là nhớ thôn Đông, điều ấy không còn nghi ngờ bàn cãi nữa rồi. Vậy thì, cau thôn Đoài còn biết nhớ giầu không thôn nào nữa đây. Câu thơ chứa trong nó một lô gích thật… nguy hiểm! Vậy là, trong thẳm sâu tâm lí, tương tư chính là khao khát hạnh phúc lứa đôi, khao khát thành đôi thành lứa. Khao khát ấy tràn ra trong giọng điệu khi kể lể phân trần, khi giận hờn trách móc. Khao khát ấy còn kí thác vào những cặp đôi giấu mình suốt dọc bài thơ. Ban đầu những đồi ấy còn xa xôi, càng về sau càng xích lại gần. Lần đầu, 1990, khi viết cho sách Để dạy tốt Văn 11 dành cho giáo viên, tôi mới chỉ nhận ra một nửa số cặp ấy.

Giờ thống kê kĩ hơn, mới thấy nhiéu cặp đôi hơn ẩn náu khắp bài thơ: Thôn Đoài – Thôn Đông  Một người – Một người  Tôi – Nàng  Bên ấy – Bên này Bến – Đò Hoa Khuê Các – Bướm giang hồ  Nhà anh – Nhà em Và cuối cùng là: Trầu – Cau Kết như thế thật khéo! Vòng vo, xa gần, cuối cùng vẫn cứ tụ lại ở điều cần nhất, khắc khoải nhất: ấy là trầu – cau! Mà trầu cau là chuyện nhân duyên. Điểm truyền thống rất nổi bật ở Nguyễn Bính là quan niệm luyến ái. Là một nhà thơ mới, nhưng Nguyễn Bính không có cái chủ trương yêu hiện đại với cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây lát, cái tình ngoài thiên thu như điệu sống thời thượng bấy giờ. Các nhà thơ hiện đại chỉ quan tâm đến tình, ít quan tâm đến duyên. Nguyễn Bính quả là chân quê khi coi trọng nhân duyên. Yêu đương với chàng thi sĩ này dứt khoát phải gắn liền với chuyện trăm năm, với hôn nhân. Nghĩa là với cau – trầu. Thực ra, những cặp hình ảnh kia vẫn chưa thành đôi hẳn, mà mới chỉ ở dạng tiềm năng, vẫn còn để ngỏ và chờ đợi. Vâng, đợi chờ một vị "cứu tinh" duy nhất là Em. Em đến, trầu cau sẽ thắm lại và tất cả các cặp còn hờ kia sẽ kết thành đôi. Bệnh tương tư sẽ được cứu chữa! Nỗi khổ sở sẽ hết giày vò! Vân vân và vân vân. Nhưng em biết không, khi tất cả những điều kia đã thành, thì cũng là lúc nỗi tương tư bắt đầu… bị hoá giải.

Phân tích tác phẩm Tương tư (Nguyễn Bính) – Bài làm số 3 

Nguyễn Bính nổi tiếng là một hồn thơ mang đậm chất ca dao, dân ca và bài thơ “Tương tư” viết năm 1939 in trong tập “ Lỡ bước sang ngang” (1940) của ông là một minh chứng cho đều đó. Nỗi nhớ trong bài thơ là nỗi nhớ của một mối tình quê, được diễn tả bằng những cách thức và những lời nói của dân quê, của dân gian.

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Hia thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua, ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đò ngang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau
Nhà em có một giàn giầu.
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”         

Người con trai trong thơ Nguyễn Bính sống cùng làng nhưng khác thôn với cô gái mà anh ta yêu. Bài thơ mở đầu bằng một câu thơ khá lạ: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”. Làm gì có chuyện cả một thôn này tương tư cả thôn kia? Anh chàng này chỉ đang nói quá nên thôi. Nhưng điều này là cần thiết, để khỏi đường đột, để khỏi khiến cô gái bất ngờ. trong cái tập thể thôn Đoài ấy, anh ta mới bắt đầu tách ra:  “Một người chín nhớ mười mong một người”.  Thì ra chỉ có mọt người nhớ và một người được nhớ mà thôi.          

“Gió mưa là chuyện của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”              

Chàng thanh niên như đang tự thanh min, rằng yêu nàng không phải là ý muốn chủ quan nào của tôi, không phải là tự tôi muốn có, bởi tôi tự đâu muốn tôi đau khổ đến thế mà mang căn bệnh đó vào người. Căn bệnh ấy vốn là tự nhiên mà có, tình yêu ấy vốn là tự nhiên mà đến, cũng như trời đâu có muốn gió mưa làm gì, chẳng qua đó là một quy luật mà đến trời cung phải chịu, không thể nào tránh được. Anh ta giãi bày tình yêu của mình mới thật khéo làm sao. Anh ta không là nguyên nhân của căn bệnh này, cho nên anh ta tự đi tìm nguyên cớ sao mình lại mắc căn bệnh tương tư.

“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này
Ngày qua ngày lại ngày ngày
Lá xanh nhuộm đã thành hai lá vàng
Bảo rằng cách trở đò ngang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi”

Tuy không chỉ đích danh nhưng qua những câu thơ ta hiểu, anh ta đang cho rằng lỗi thuộc về phía người con gái. Vì sao cô ta mang lỗi? Bở cô ta chẳng bao giờ sang bên này. Vậy vì sao cô ấy lại không sang? Anh chàng tự đưa ra các lý do rồi cũng tự mình gạt bỏ. Cô ấy không sang vì “cách trở đò ngang ư”? Không phải, hai thôn cách nhau mỗi một đầu đình, gần trong gang tấc chứ đâu phải không có lối sang. Ca dao xưa có câu “Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”. Có tình yếu thì dù có bao thử thách, khó khăn cũng sẽ vượt qua để đến với nhau, huống chi “hai thôn chung lại một làng”. Chỉ có một lý do duy nhất lí giải sự vô tâm của cô gái đó là: tấm lòng. Tấm lòng hay nói cách khác là tình yêu của nàng không hướng về tấm lòng của chàng trai “tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” kia. Chắc hẳn, chàng trai cũng nhận ra điều đó nên mới ngậm ngùi chịu mang mối tình tương tư. Lời trách móc của chàng trai danh cho cô gái vừa nhẹ nhàng nhưng cũng vừa sâu cay, vừa tha thiết nhưng cũng vừa ai oán làm sao! Những từ ngữ “bảo rằng”, “đã đành”, “nhưng đây”, “có xa xôi mấy”, tự nhiên như lời lẽ của một anh trai quê nói với người khác lại như tự sự với chính mình, sao mà chất phác, tội nghiệp, chân tình đến thế. Nhưng trách người thì có được gì đâu, chẳng qua là buồn quá, đau khổ qua thì trách vậy mà thôi. Trách để mà trách, cuối cùng vẫn chỉ có mình mình với mình mà thôi, chẳng có ai quan tâm hay sẻ chia cùng cả.

“Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai hỏi ai người biết cho
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau”                 

Anh chàng thương nhớ để mà hi vọng, tuy chỉ là hi vọng mong manh mà thôi. Cùng với hình ảnh “bến” và “đò” vốn đã quen thuộc trong ca dao, Nguyễn Bính đưa thêm cặp hình ảnh “hoa khuê các” và “bướm giang hồ” để mang lại ý nghĩa gợi cảm và ý nghĩa mới mẻ hơn cho câu thơ. Cô là “hoa khuê các”, là con nhà gia giáo, nề nếp, giàu sang, còn anh chỉ là “bướm giang hồ”, là kẻ phiêu bạt, lang thang nghèo khổ, hai người chênh lệch nhau quá lớn, anh thật khó để sánh với cô. Vậy mà anh vẫn nuôi hi vọng, mong chờ.                  

Đoạn kết bài thật xót xa nhưng cũng thật đẹp:

“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào”                 

Người dân quê khi nói đến tình yêu thường nhắc ngay đến trầu cau. Trầu cau bắt đầu cho một tình yêu đẹp và cũng với cơi trầu quả cau, hai con người yêu nhau sẽ nên vợ nên chồng. trầu và cau luôn đi liền với nhau mà trầu cau thì cả hai người thì đều có sẵn, em có “giàn giầu”, anh sẵn “hàng cau”. Nghĩ đến chuyện đó sao mà đẹp thế, dịu dàng và âu yếm đến thế. Nhưng giữa cái hình ảnh kết hợp đầy ẩn ý ấy, ý nghĩa chia biệt vẫn là một hiện thực đắng cay:

“Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”              

Câu trên láy lại câu thơ đầu tiên của bài “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”, láy lại nhưng đã có sự thay đổi: tác giả thay chữ “ngồi” bằng chữ “thì”. “Thôn Đoài thì nhớ…” câu thơ như khẳng định nỗi nhớ đã trở thành một chuyện dĩ nhiên, một thực tế không cần che dấu hay bàn cãi. Nhưng “cau thôn Đoài” có được quyền nhớ giàn giầu không thôn Đông hay không? Chuyện hai người rồi có đi đến một cái kết vui vẻ hay đến cuối cùng vẫn chỉ chàng trai mang trong mình nỗi nhớ và tình yêu tương tư, đau khổ. Câu hỏi đặt ra mà không có lời giải đáp. Chàng trai vẫn hi vọng, vẫn chờ đợi nhưng trong lòng vẫn dâng lên một niềm hoài nghi, không chắc chắn.            

Kín đáo mà rõ ràng, xa mà gần, mối tình sôi nổi, thiết tha mà vẫn chừng mực, kín đáo, đó chính là tình yêu trong bài “Tương tư” này. Bài  thơ mang đậm tính dân ca, ca dao truyền thống. giữa phong trào Thơ mới rộn ràng, các nhà thơ mới đang đi theo sự ảnh hưởng của thơ Pháp và châu Âu thì Nguyễn Bính vẫn giữ cho mình một lối thơ riêng, không Tàu mà cũng không Tây, hồn thơ ấy hồn hậu, mộc mạc mang đậm tình cảm quê hương, đó chính là cái đặc sắc làm nên tên tuổi của nhà thơ Nguyễn Bính.

Hồng Loan tổng hợp

Bài viết liên quan

  • Phân tích bài Bài toán dân số – Văn hay lớp 8
  • Phân tích tác phẩm Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000 – Văn hay lớp 8
  • Bình luận câu tục ngữ “Có công mài sắt có ngày nên kim” – Văn hay lớp 9
  • Phân tích tác phẩm Hai cây phong – Văn hay lớp 8
  • Kể lại chuyến đi thăm di tích lịch sử – Văn hay lớp 6
  • Bình luận câu tục ngữ “Có làm thì mới có ăn …” – Văn hay lớp 7
  • Phân tích tác phẩm Đi đường (Tẩu lộ) – Văn hay lớp 8
  • Giới thiệu chiếc áo dài Việt Nam – Văn hay lớp 10
0