24/05/2017, 14:26

Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ

Đề bài:   Em hãy làm bài văn phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương   Trần Tế Xương là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông đã dùng ngòi bút sắc bén của mình để đả kích, trào lộng một cách chua cay, sâu sắc về xã hội nửa tây nửa ta, về ...

Đề bài:   Em hãy làm bài văn phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương   Trần Tế Xương là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông đã dùng ngòi bút sắc bén của mình để đả kích, trào lộng một cách chua cay, sâu sắc về xã hội nửa tây nửa ta, về nạn tham nhũng, thi cử. Nét đặc biệt nhất là ông còn viết những vần thơ trào lộng chính mình. Trong bài thơ “Thương vợ”, Trần Tú Xương không chỉ thể hiện tình thương sâu nặng với ...

Đề bài:   Em hãy làm bài văn phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương

  Trần Tế Xương là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông đã dùng ngòi bút sắc bén của mình để đả kích, trào lộng một cách chua cay, sâu sắc về xã hội nửa tây nửa ta, về nạn tham nhũng, thi cử. Nét đặc biệt nhất là ông còn viết những vần thơ trào lộng chính mình. Trong bài thơ “Thương vợ”, Trần Tú Xương không chỉ thể hiện tình thương sâu nặng với vợ thông qua sự thấu hiểu nỗi vất vả, gian lao của bà Tú mà còn châm biếm chính mình vì làm thân nam nhi nhưng lại làm gánh nặng cho vợ con.

Đọc thơ Trần Tế Xương ta có thể dễ dàng bắt gặp những vần thơ trào lộng, châm biếm về chính bản thân nhà thơ. Bài thơ “Thương vợ” cũng là một tác phẩm như vậy. Đọc thơ, ta đồng cảm sâu sắc với tình thương mà Tú Xương dành cho vợ, cũng cảm nhận được cái “tôi” đầy ý thức, tình nghĩa của Trần Tế Xương. Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã vẽ ra không gian lao động đầy lam lũ, vất vả của bà Tú:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng”

“Quanh năm” gợi ra cái dằng dặc của thời gian sống cũng gợi ra cái đều đặn của hành động, mang theo được cả những nỗi gian truân, vất vả mà bà Tú phải gánh vác “buôn bán ở mom sông” . “Buôn bán ở mom sông” gợi ra cái không gian nhỏ hẹp nhưng đầy bát nháo, xô bồ của những người buôn, kẻ bán. Trong cái không gian xô bồ, chật hẹp ấy, hình ảnh bà Tú hiện lên thật khiến cho người đọc phải xót xa. Trong quan niệm của người Phương Đông, người phụ nữ ở trong nhà là “an”, ra ngoài là bất an, người phụ nữ được sống trong sự chở che, yêu thương của người chồng là an, phải sống trong sự xô bồ của cuộc sống “con buôn” là vô cùng gian nan, khổ cực.

Bà Tú quanh năm vất vả với công việc buôn bán bởi trách nhiệm cơm áo gạo tiền để duy trì cuộc sống hàng ngày, cũng là bởi trên vai gánh nặng trách nhiệm chồng con: “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Ở đây, Tế Xương đã gộp mình vào những đứa con, là một trong những gánh nặng mà bà Tú phải gánh vác, nhà thơ tự trách mình vì sống là thân nam nhi, không những không làm chỗ dựa được cho vợ mà còn chất chồng thêm những gian khổ nên người phụ nữ ấy.

Hình ảnh bà Tú tiếp tục được Tế Xương khắc họa bằng những gian khổ, bằng tình thương sâu sắc dành cho vợ nhưng đồng thời cũng thể hiện sự bất lực của bản thân khi không thể làm gì hơn để giúp vợ:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

“Lặn lội”, “eo sèo” thể hiện được cuộc sống nổi trôi, những thăng trầm trong công việc bán buôn. Hình ảnh con cò thường là hình ảnh biểu tượng cho những người phụ nữ. Ở đây, nhà thơ dùng từ “thân cò” để nói về hình dáng mỏng manh, đầy khổ cực của bà Tú trong công việc, vừa thể hiện được sự xót xa, đau đớn khi chứng kiến sự cực nhọc của người vợ, nhất là khi công việc buôn bán không thuận lợi, nhiều khó khăn “quãng vắng”, “buổi đò đông”.

“Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công”

Nếu những câu thơ trên, Trần Tế Xương nói về công việc buôn bán đầy cực nhọc cũng như nỗi gian truân, vất vả của bà Tú thì đến câu thơ này, nhà văn nhấn mạnh đến những phẩm chất tốt đẹp của vợ mình. Đó chính là sự hi sinh vô điều kiện vì chồng con. Vất vả là thế, cực nhọc là thế nhưng bà Tú vẫn không hề “quản công”, không một lời than trách mà coi nó là trách nhiệm của mình “âu đành phận” vì con, vì chồng “một duyên, hai nợ”. Nhấn mạnh đến sự hi sinh, tấm lòng vĩ đại của bà Tú, Tế Xương đã sử dụng đến hình ảnh “năm nắng mười mưa” để làm nổi bật lên vẻ đẹp đức hạnh ấy.

Càng thương vợ bao nhiêu thì Tế Xương càng tự trách mình bấy nhiêu, vì làm chồng mà không giúp được gì cho vợ:

“Cha mẹ  thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”

Tế Xương đã dùng những ngôn ngữ thông tục để nói về sự bạc bẽo của cuộc đời, về sự trớ trêu của hoàn cảnh “cha mẹ thói đời ăn ở bạc”. Cất tiếng “chửi” đời cũng là điểm nhấn để Tế Xương tự giễu chính bản thân mình “Có chồng hờ hững cũng như không”. Hận thói bạc bẽo của cuộc đời bao nhiêu thì ông hận chính mình bấy nhiêu. Câu thơ thể hiện sự thương vợ song cũng tự ý thức về trách nhiệm của chính mình, Tế Xương cho rằng ông đã không hoàn thành được trách nhiệm, bổn phận của một người chồng, không những vậy còn làm tăng thêm gánh nặng cho vợ. Ông trào lộng mình như cách nói tiếng thương cảm chân thành với người vợ của mình “có chồng cũng như không”.

Như vậy, qua bài thơ “Thương vợ”của Trần Tế Xương, hình ảnh bà Tú hiện lên với bao vẻ cực nhọc, đáng thương song cũng mang đầy vẻ đẹp của phẩm chất, đạo đức. Không thể không nhắc tới ở đây chính là hình ảnh tự họa của chính nhà thơ, tuy Tế Xương trách mình, hận mình song độc giả cũng cảm nhận được tấm lòng thương vợ sâu sắc, ở sự nghiêm khắc với bản thân. Đây là điều mà không phải ai cũng làm được. Nên vậy, hình ảnh Tú Xương hiện lên vẫn rất đáng trân trọng

0