06/05/2018, 09:36

Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên – Văn mẫu hay lớp 12

Xem nhanh nội dung Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định Chế Lan Viên (1920 – 1989) tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị. Ông sáng tác rất sớm và nổi tiếng với tập thơ Điêu tàn xuất bản năm ...

Xem nhanh nội dung

Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định

Chế Lan Viên (1920 – 1989) tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị. Ông sáng tác rất sớm và nổi tiếng với tập thơ Điêu tàn xuất bản năm 1937 và được đánh giá là nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên đã từng viết: Với tôi tất cả như vô nghĩa, Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau, đã từng cầu xin: Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh, Một vì sao trơ trọi cuối trời xa… để ẩn náu, trốn tránh mọi khổ đau, phiền não của cuộc sống. Sau Cách mạng, trong sự hóa thân kì diệu của đất nước và dân tộc, nhà thơ cũng đã làm một cuộc hóa thân để hòa nhập với cuộc sống xung quanh và cũng là tìm về với chính mình.

Hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc phấn khởi bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống hòa bình, xây dựng xã hội chủ nghĩa. Năm 1958, Đảng và Nhà nước ta phát động phong trào khai hoang, phát triển kinh tế ở vùng cao. Phong trào này đã được nhân dân miền xuôi, nhất là những địa phương đất chật người đông như Hà Nam, Nam Định, Thái Bình… hưởng ứng rất nhiệt tình. Thanh niên được coi là lực lượng tiên phong lên Việt Bắc, Tây Bắc vỡ đất khai hoang, xây dựng nông trường, làm thay đổi bộ mặt của chiến khu xưa.

Trong kháng chiến chín năm chống Pháp, nhà thơ Chế Lan Viên thường xuyên đi công tác nên được sống trong sự đùm bọc và tình yêu thương của đồng bào Việt Bắc, Tây Bắc. Tình cảm quý báu đó khơi nguồn thi hứng để tác giả sáng tác bài thơ Tiếng hát con tàu. Bài thơ vừa là khúc hát say mê, rạo rực của một hồn thơ đã thoát khỏi khung trời chật hẹp của cái tôi nhỏ bé để ra với chân trời rộng lớn của cái ta là nhân dân, đất nước ; vừa thể hiện lòng biết ơn sâu nặng và nỗi nhớ da diết của nhà thơ về Tây Bắc – quê hương thứ hai, nơi có những con người đã gắn bó, chia sẻ gian nan, cùng vào sống ra chết với mình trong thời kì chống Pháp.

Tiếng hát con tàu được bố cục theo trình tự diễn biến tâm trạng. Giọng điệu, âm hưởng cũng biến đổi theo mạch tâm trạng. Hai khổ đầu là sự trăn trở và lời mời gọi lên đường. Chín khổ thơ giữa thể hiện khát vọng về với nhân dân, gợi lên những kỉ niệm kháng chiến đầy nghĩa tình với nhấn dân và đất nước. Bốn khổ cuối là khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và say mê.

Bốn câu thơ đề từ chính là tư tưởng chủ đề bài thơ, đã khái quát suy nghĩ và tình cảm của tác giả:

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.

Câu hỏi tu từ: Tây Bắc ư? là lời lòng tự hỏi lòng, chứa đựng nỗi băn khoăn, trăn trở rất thực trong tâm trạng nhà thơ nói riêng và tầng lớp văn nghệ sĩ nói chung ở thời điểm lịch sử đó.

Hai khổ thơ đầu là lời giục giã với những câu hỏi thôi thúc. Nhà thơ chọn hình ảnh con tàu và địa danh Tây Bắc làm biểu tượng nghệ thuật của bài thơ:

Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng ?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội 
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi 
Ngoài cửa ô ? Tàu đói những vành trăng.
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp 
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi ?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép 
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.

Nhà thơ ví tâm hồn mình như một con tàu đang mở hết tốc lực trong hành trình tiến lên phía trước mà đích đến là đất nước, là nhân dân vĩ đại và cao cả, là cuộc sống đầy ắp chất liệu và cảm hứng nuôi dưỡng hồn thơ.

Tiếng hát con tàu ờ đây là biểu tượng cho khát vọng ra đi, đến với những miền xa xôi, đến với nhân dân, đất nước và cũng còn là đến với những mơ ước, những ngọn nguồn của cảm hứng nghệ thuật.

Ở thời điểm đó chưa có đường tàu lên Tây Bắc, cho nên hình ảnh con tàu trong bài thơ này hoàn toàn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là con tàu trong tâm tưởng chỗ đầy khát vọng hòa hợp với dân tộc, đất nước và niềm tin vào tương lai tươi sáng. Chế Lan Viên đã mượn hình ảnh thiên nhiên để khơi gợi khát vọng lên đường của mọi người. Khao khát tìm đến những chân trời rộng mở : Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi, Ngoài cửa ô ? Tàu đói những vành trăng. Nhà thơ nói với người khác mà cũng là tự nhủ với chính lòng mình.

Đánh thắng giặc xong, đất nước xây dựng lại rất cần sự đóng góp của mỗi người. Hãy thoát ra khỏi cái tôi chật hẹp mà hòa nhập với mọi người. Đi theo con đường ấy có thể tìm kiếm được nghệ thuật chân chính và gặp được tâm hổn của chính mình trong cuộc sống rộng lớn của nhân dân.

Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép 
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.

Chế Lan Viên đã khẳng định về mối liên quan máu thịt giữa văn chương, nghệ thuật với hiện thực cuộc sống, bởi cuộc sống phong phú muôn màu muôn vẻ chính là kho chất liệu, là nguồn cảm hứng vô tận của văn nghệ sĩ. Điều đó cho thấy một nhà thơ Chế Lan Viên hoàn toàn mới mẻ, khác hẳn với Chế Lan Viên – nhà thơ lãng mạn trước Cách mạng bế tắc và tuyệt vọng giữa cuộc đời tù túng, phức tạp.

Tây Bắc, ngoài tên gọi cụ thể của một vùng đất, còn là tiêu biểu cho mọi miền xa xôi của Tổ quốc, nơi có cuộc sống gian lao mà nặng nghĩa nặng tình, nơi đã ghi khắc những kỉ niệm không thể quên của những người đã trải qua cuộc kháng chiến, nơi đang vẫy gọi mọi người đi tới chung sức, chung lòng xây dựng lại quê hương.

Đến với Tây Bắc, mảnh đất nặng nghĩa nặng tình là đến với nhân dân đã chở che, đùm bọc cán bộ, chiến sĩ ta trong suốt cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược. Chính vì lẽ đó, tiếng gọi thôi thúc lên Tây Bắc đồng nghĩa với tiếng gọi về với chính lòng mình, với tâm hồn mình với những tình cảm thiết tha, trong sáng.

Nếu hai khổ thơ đầu là sự trăn trở và lời giục giã mời gọi lên đường thì chín khổ tiếp theo lại là niềm hạnh phúc và khát vọng về với nhân dân, gợi lại những kỉ niệm sâu nặng đầy tình nghĩa trong những năm kháng chiến ; xen với những hình ảnh lung linh của hồi tưởng là những chiêm nghiệm, đúc kết trong giọng thơ trầm lắng.

Bắt đầu là khung cảnh và con người Tây Bắc nay đã đổi thay:

Trên Tây Bắc ! ôi mười năm Tây Bắc 
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng 
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất 
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân.

Ở khổ thơ này, các hình ảnh cũ và mới đan xen vừa rất sáng tạo, vừa giàu ý nghĩa. Nghĩ về Tây Bắc, những kỉ niệm vui buồn về cảnh vật và con người cứ lớp lớp hiện lên trong tâm tưởng nhà thơ. Sau mười năm xa cách, xưa Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất, Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân. Tất cả những điều đó tạo nên nền tảng vững chắc cho đời sống tinh thần, đời sống tình cảm phong phú của con người. Cao hơn thế, nó trở thành ngọn lửa soi đường dẫn tối:

Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa 
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường.
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa 
Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương.

Trong suy nghĩ của nhà thơ, đến với Tây Bắc là đến với vùng đất thân thuộc của tâm hồn mình, là làm cuộc hành trình về với Mẹ nhân dân – Mẹ Tổ quốc yêu thương.

Chế Lan Viên khái quát hành trình trở về với nhân dân bằng những hình ảnh so sánh vừa hiện thực vừa trữ tình, thể hiện độ sâu của cảm xúc và độ cao của sáng tạo nghệ thuật:

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ 
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa 
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa 
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cảnh tay đưa
.

Để nói lên ý nghĩa sâu xa, niềm hạnh phúc lớn lao của việc trở về với nhân dân, tác giả đã sử dụng một loạt hình ảnh so sánh để khơi sâu, mở rộng thêm ý nghĩa của sự việc, sự vật. Nhà thơ nhận thức được rằng văn nghệ sĩ về với nhân dân là điều hết sức tự nhiên, phù hợp với quy luật như nai về suối cũ là nơi quen thuộc, như cỏ đón giêng hai. Chim én gặp mùa để tiếp nhận sức sống và phô bày vẻ đẹp. Về với nhân dân là về với ngọn nguồn của sự sống, của hạnh phúc; là về nơi đã nuôi dưỡng, chở che, cưu mang mình. Đây là hành động cần thiết và kịp thời đối với tầng lớp văn nghệ sĩ để được tiếp thêm niềm tin và sức mạnh trên con đường sáng tạo nghệ thuật : Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa, 
Chiếc nôi dừng bỗng gặp cánh tay đưa.

Khát vọng lên Tây Bắc gợi nhớ cả một trời kỉ niệm về những năm tháng kháng chiến gian nan, nguy hiểm mà ấm áp tình người:

Con nhớ anh con người anh du kích 
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách 
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.
Con nhớ em con thằng em liên lạc 
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ 
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc 
Mười năm tròn ! Chưa mất một phong thư.
Con nhớ mế ! Lửa hồng soi tóc bạc 
Năm con đau, mế thức một mùa dài.
Con với mế không phải hòn máu cắt 
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.

Khát vọng trở về với nhân dân được nhà thơ thể hiện thông qua những cảm xúc chân thành, những kỉ niệm sâu sắc gắn liền với từng con người tiêu biểu cho sự hi sinh, đùm bọc của nhân dân trong kháng chiến. Nhân dân ở đây không còn là một khái niệm chung chung, mà là những con người cụ thể, gần gũi. Đó là người anh du kích với Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách, Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con, là thằng em liên lạc, Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ ; là bà mế lửa hồng soi tóc bạc, Năm con đau mế thức một mùa dài,… Với những điệp ngữ và cách xưng hô thân tình : Con nhớ anh con, Con nhớ em con, Con nhớ mế,… nhà thơ đã thể hiện tình cảm đằm thắm với những con người đã từng gắn bó máu thịt với mình, chia sẻ từng vắt cơm, manh áo trong hoàn cảnh khó khăn của kháng chiến. Đó là những con người hi sinh thầm lặng cho cách mạng, cho kháng chiến. Những câu thơ nói về nhân dân Tây Bắc biểu lộ lòng biết ơn, sự gắn bó chân thành và niềm xúc động thấm thía của nhà thơ. Mỗi con đường, mỗi bản làng, mỗi ngọn núi, dòng sông đều gắn với những kỉ niệm vui buồn không thể nào quên.

Đang từ dòng hồi tưởng về những kỉ niệm khó quên, nhà thơ đã nâng cao và khái quát cảm xúc lên thành một triết lí nhân sinh sâu sắc. Khổ thơ dưới đây như một phát hiện về quy luật của tình cảm đời sống tâm hồn con người:

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ 
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương ?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở 
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!

Tình thương yêu ở đây không chỉ giới hạn trong tình yêu đôi lứa mà còn là những tình cảm sâu nặng đối với quê hương, đất nước. Nhà thơ đã nói tới phép màu của tình yêu. Chính tình yêu đã biến những miền đất xa lạ thành thân thiết như chính quê hương của mình, hóa thành máu thịt tâm hồn mình : Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi, đất đã hỏa tâm hồn / Triết lí được rút ra từ tình cảm, cảm xúc chân thành, cho nên không khô khan mà vẫn tự nhiên, dung dị.

Ở khổ thơ tiếp theo, mạch thơ đột ngột chuyển sang một rung cảm và suy tưởng khác về: tình yêu và đất lạ:

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét 
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc 
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.

Nói đến tình yêu, nỗi nhớ, Chế Lan Viên có cách so sánh thật độc đáo và thú vị. Nỗi nhớ trong tình yêu, giữa anh với em là tất yếu, giống như quy luật của đất trời: đông về nhớ rét Còn tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng – một đặc sản của núi rừng Tây Bắc và đẹp như sắc biếc lông chim lúc xuân sang. Tác giả đã cụ thể hóa khái niệm trừu tượng là tình yêu thành những hình ảnh gần gũi, quen thuộc với con người, nhất là người miền núi.

Đoạn thơ thứ ba mang âm hưởng của khúc hát lên đường háo hức, dồn dập và lôi cuốn. Chất trữ tình bay bổng, lãng mạn kết hợp với giọng điệu sôi nổi, thôi thúc. Đây là lời tự cổ vũ, động viên và khẳng định một lần nữa quyết tâm lên Tây Bắc, mở mang những nông trường, những vùng kinh tế mới cho đất nước:

Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi 
Tình em đang mong tình mẹ đang chờ 
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội 
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.
Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng 
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào 
Rẽ người mà đi vịn tay mà đến 
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao.

Khao khát ấy thôi thúc tâm hồn nhà thơ vì lên Tây Bắc cũng là về với ngọn nguồn của hồn thơ, của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Những năm tháng gian khổ những hi sinh lớn lao, những đau thương của chiến tranh nay đã kết thành : Mùa nhân dân giảng lúa chỉn rì rào, trên Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao.

Thôi thúc lên Tây Bắc đến đây đã nhập chung làm một với nhu cầu hòa hợp với nhân dân, đất nước. Nhà thơ đã tìm thấy ở đó sức mạnh vươn lên:

Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ 
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ,
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa,
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta.

Nhà thơ Chế Lan Viên đã mượn hình ảnh tượng trưng thường thấy trong ca dao xưa để biểu đạt vẻ đẹp cao quý của tâm hồn. Giống như vàng không sợ lửa, nhà thơ được rèn luyện, thử thách trong hiện thực gian khó, đau thương và oanh liệt của cuộc kháng chiến trường kì để giờ đây đã thực sự có được chất vàng mười tinh túy của tâm hồn gắn bó máu thịt với nhân dân, đất nước.

Kết thúc bài thơ là những ẩn dụ nghệ thuật tượng trưng có giá trị tư tưởng và thẩm mĩ rất cao, hội tụ tinh thần của toàn bài:

Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng.
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.

Bằng các thủ pháp nghệ thuật tả thực, ẩn dụ, so sánh, tượng trưng phong phú…, trong bài Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên đã sáng tạo thành công nhiều hình ảnh đặc sắc gợi sự liên tưởng phong phú cho người đọc.

Cảm hứng bao trùm trong bài thơ là lòng biết ơn và hiềm hạnh phúc trong sự gắn bó với cuộc sống, với nhân dân và đất nước của một tâm hồn đã từ thung lũng đau thương ra cảnh đồng vui. Con tàu tâm tưởng chở đầy ước mơ, khát vọng đang băng băng tới những vùng đất xa xôi của Tổ quốc, đồng thời cũng là mảnh đất mỡ màu nuôi dưỡng hồn thơ, hứa hẹn những mùa vàng bội thu trong một tương lai không xa.

Người ta nhận xét thơ Chế Lan Viên là thơ trí tuệ. Rất đúng, bởi nhà thơ chịu khó trăn trở, tìm tòi để sáng tạo ra cái mới lạ, độc đáo mà vẫn nồng nàn chất trữ tình. Có thể coi bài thơ Tiếng hát con tàu tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Chế Lan Viên – một nhà thơ lãng mạn cách mạng nổi tiếng của thơ ca Việt Nam hiện đại. 

Phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên – Bài làm 2

Chế Lan Viên là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám với tập thơ “Điêu tàn”. Đi theo cách mạng rồi đi kháng chiến chống Pháp, Chế Lan Viên gần như im lặng. Hoà bình lập lại, ông mới có thơ hay. Bài thơ “Tiếng hát con tàu” rút trong tập thơ “Ánh sáng và phù sa” là một bài thơ thời sự đáp lại lời kêu gọi của Tổ quốc đi khai hoang Tây Bắc. Viết về một nhiệm vụ lịch sử, nhưng nhà thơ không thể hiện một cách chung chung mà viết với một xúc cảm chân thành và cuồng nhiệt. Một vùng đất tươi đẹp và anh hùng của Tổ quốc hiện lên thành hình tượng thơ lấp lánh ánh sáng của trí tuệ. Tâm hồn của thi sĩ đã hoá thành con tàu mộng tưởng, trở về với nhân dân mà cũng là trở về với chính lòng mình.

1 Yêu em từ thuở trong nôi

Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru

2 Cầm vàng mà lội qua sông

Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng

Chế Lan Viên mở đầu bài thơ bằng lối tự vẫn bộc lộ sự trăn trở của nhà thơ trước một nhiệm vụ trọng đại của đất nước:

“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hoá những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”

Chế Lan Viên nhạy bén với những nhiệm vụ chính trị của Đảng và của dân tộc. Tác giả đã chuyển nhiệm vụ chung (khai hoang Tây Bắc) thành nhiệm vụ riêng của từng con người, sâu hơn nữa là nhiệm vụ của “tâm hồn ta”.

“Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?”

Đây là con tàu của mộng tưởng (chưa hề có đường tàu lên Tây Bắc), biểu tượng này thích hợp với hình ảnh ra đi, gợi những ước mơ lãng mạn:

“Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi

Ngoài cửa ô, tàu đói những vành trăng”

Tác giả còn thôi thúc người ra đi khai hoang Tây Bắc chẳng những vì Tây Bắc mà còn vì mở lối nhở hẹp của đời sống, mở lối cho sáng tạo, cho thơ:

“Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp

Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?

Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép

Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”.

Nhà thơ đã biến cuộc ra đi thành cuộc trở về. Trở về “nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất”. Và tha thiết hơn nữa “cho con về gặp lại Mẹ yêu thương”. Và thiêng liêng hơn nữa:

“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”

Những so sánh bất ngờ, những chi tiết bất chợt khiến cho dòng suy nghĩ không khô khan mà lung linh, biến hoá.

Phân tích nghệ thuật bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên – Bài làm 3

Chế Lan Viên là một hồn thơ độc đáo bởi sức cảm, sức nghĩ biến hóa và phong phú khôn lường, thậm chí đến mức biến ảo. Ông nổi tiếng trước cách mạng với tập thơ Điêu tàn, sau đó ông tham gia họat động cách mạng và tiếp tục sáng tác. Thơ của ông giàu chất suy tưởng mang vẻ đẹp phong phú và đa dạng về hình ảnh. Ông để lại bài thơ “Tiếng hát con tàu” nhiều ấn tượng. Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương đất nước, tình quân dân nam nữ keo sơn. Để làm nên những thành công ấy, Chế Lan Viên sử dụng nhiều nghệ thuật làm chất xúc tác cho tư tưởng bài thơ được thăng hoa mà trước hết là nghệ thuật xây dựng hình ảnh.

Thật vậy, bài thơ được viết vào thời điểm những năm 1960, Đảng ta vận động thanh niên miền xuôi đi theo khai hoang phát triển kinh tế ở vùng Tây Bắc. Nhà thơ Chế Lan Viên không đi được vì đang nằm trên giường bệnh nhưng xuất phát từ lòng biết ơn, sự gắn bó với nhân dân với những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình của nhân dân trong những năm kháng chiến chống pháp, Chế Lan Viên đã làm bài thơ này để theo con tàu tâm tưởng đến với Tây Bắc.

Con tàu trong bài thơ là biểu tượng cho khát vọng lên đường được đi xa ngao du tới những vùng đất xa xôi của Tổ quốc. Năng lượng ấy chính là tâm hồn yêu quê hương vô vàn để chạy con tàu đi xa hơn. Điểm nhấn chính về phương diện nghệ thuật của bài thơ là nghệ thuật xây dựng hình ảnh.

Trước hết, ta phải kể đến Chế Lan Viên đã rất thành công trong việc sáng tạo hình ảnh. Có những hình ảnh được ông sáng tạo mang tính độc đáo, thể hiện ngay ở bốn câu thơ đề từ mở đầu bài thơ:

“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc 
Khi lòng ta đã hoá những con tàu 
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát 
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”

Tây Bắc vừa có nghĩa là địa điểm Tây Bắc là miền đất cực Tây của Tổ quốc mà nó còn là hiện thân của Tổ quốc. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tượng trưng biến một vùng đất cụ thể hạn hẹp thành một hình tượng có ý nghĩa khái quát mang tính biểu tượng vì nhà thơ tìm thấy mối liên hệ giữa mình và cuộc sống. Mình là một con tàu đang hăm hở đến với cụôc đời còn cuộc sống đang bừng lên một sức sống mới mãnh liệt đang mở rộng lòng chào đón sự trở về của mình. Cái tôi hòa hợp với cái ta cho nên Tây Bắc không chỉ bó hẹp trong một địa danh địa điểm mà nó hòa chung vào nhịp sống của đất nước.

Chính nhan đề “Tiếng hát con tàu” cũng mang hình ảnh biểu tượng rõ ràng.Trước thời điểm nhà thơ viết bài này, chưa có một con đường nào lên Tây Bắc nên ta có thể hiểu con tàu ở đây biểu tượng cho khát vọng vươn tới những vùng đất xa xôi kia để đến với nhân dân đến với đất nước. Con tàu cũng chính là tâm hồn của nhà thơ. Địa danh Tây Bắc vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng.

Để làm nổi bật được những hình ảnh biểu tượng ấy, Chế Lan Viên rất khéo léo và tinh tế sử dụng các biện pháp tu từ kết hợp với nghệ thuật sáng tạo hình ảnh để bài thơ thêm hấp dẫn hơn. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh độc đáo, liên tiếp trùng điệp:

“Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa 
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường 
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa 
Cho con về gặp lại mẹ yêu thương

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ 
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa 
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa 
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”

Những hình ảnh so sánh liên tiếp như thế có tác dụng cụ thể hóa những ý nghĩa vốn trừu tượng: tình yêu quê hương đất nước, mối quan hệ khăng khít gắn bó máu thịt giữa nghệ thuật với cuộc sống nhân dân, nỗi nhớ tình yêu dạt dào mà sâu sắc. Biện pháp tu từ ẩn dụ cũng được Chế Lan viên sử dụng một cách rộng rãi kết hợp với biện pháp chuyển nghĩa cùng với hình ảnh phong phú làm cho bài thơ có vẻ đẹp tinh tế, rực rỡ hơn.

Nhà thơ cũng dùng nhiều hình ảnh thơ sáng tạo theo bút pháp tả thực như bản sương giăng, đèo mây phủ, lửa hồng soi tóc bạc… Có khi lại sử dụng bút pháp tả thực đến từng chi tiết “Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách” mà “anh du kích”, “mặc đêm đông còn ấy”, xét về giá trị vật chất thì chẳng đáng giá là bao, nhưng “Đêm cuối cùng, anh cởi lại cho con” thì về ý nghĩa tinh thần, chiếc áo đó bỗng trở nên vô giá. Bởi của chẳng đáng bao nhiêu nhưng tình thì rất nặng. Đây không còn thuần tuý là trao chiếc áo cho nhau mà đó chính là trao lại sự sống cho nhau. Thật cảm động biết bao! Trong cuộc cách mạng đầy hi sinh gian khổ, đã xuất hiện biết bao con người có tấm lòng vàng như thế.  Những câu thơ của ông được cấu tạo bằng hình ảnh thường là chùm hoặc tầng tầng lớp lớp rất phong phú đa dạng.

Nói tóm lại, với giọng điệu trữ tình mang đậm màu sắc triết lí và suy tưởng, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng kết hợp với các biện pháp tu từ hiệu quả, Chế Lan Viên đã viết nên một bài thơ Tiếng hát con tàu tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của mình. Qua bài thơ, tiếng hát say mê của một tâm hồn muốn thóat khỏi cái tôi nhỏ bé để đến với cái ta rộng lớn càng được nhà thơ truyền tải rõ bằng tình yêu quê hương đất nước sâu sắc hơn.

Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên – Bài làm 4

Chúng ta từng biết đến một Chế Lan Viên “đột ngột xuất hiện giữa làng thơ như một niềm kinh dị” (Hoài Thanh), một Chế Lan Viên siêu hình muốn trốn vào “tinh cầu giá lạnh” ở tận “cõi trời xa”. Đồng thời chúng ta cũng thật sung sướng và cảm động được đón nhận một hồn thơ “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”, từ cái tôi cô đơn bế tắc đến với cuộc đời rộng lớn của nhân dân, đất nước, cách mạng. Cuộc “trở về” ấy đã được Chế Lan Viên thể hiện trong những vần thơ chan chứa niềm biết ơn trong tập Ánh trăng và phù sa mà Tiếng hát con tàu là một bài thơ tiêu biểu.

Từ sự kiện kinh tế – chính trị của đất nước là phát động nhân dân, nhất là thanh niên đi xây dựng những khu kinh tế mới ở miền núi Tây Bắc, Chế Lan Viên đã có dịp bộc lộ thành thơ những trăn trở, những xúc động, những biết ơn của mình đối với Tổ quốc, nhân dân cùng những suy nghĩ về ngọn nguồn sáng tạo của thi ca. Bài thơ hấp dẫn người đọc bởi chất trữ tình – triết luận, bởi những sáng tạo độc đáo, bất ngờ, mới lạ đặc biệt là nhan đề và lời đề từ.

Nét đặc sắc nổi bật của nghệ thuật thơ Chế Lan Viên là sáng tạo những hình ảnh mang tính biểu tượng. Từ chỗ cảm nhận hình ảnh cụ thể, cảm tính, người đọc dần dần hiểu ra ý nghĩa biểu tượng của nó và cảm thấy vô cùng sâu sắc, thú vị. Mới đọc bài thơ, ta có cảm giác về một cuộc lên đường thật sự, có điểm đi (Hà Nội), điểm đến (Tây Bắc) và con tàu như có tinh thần đang bồn chồn đợi lệnh khởi hành (gió ngàn đang rú gọi, tàu đói những vành trăng). Khi đã băng băng trên đường, ta thấy những “mái ngói đỏ trăm ga”, những mùa “lúa chín rì rào”. Du khách miên man với những hình ảnh, âm thanh lướt qua.

Nhưng thực tế lúc Chế Lan Viên viết bài thơ này chưa có đường tàu lên Tây Bắc. Nhớ ra điều này, ta bỗng hiểu tất cả những cảm giác trên chỉ là tưởng tượng theo những liên tưởng, tưởng tượng của cả một thế giới hình ảnh trong bài thơ. Tác giả bắt người đọc rung cảm với những “cảm xúc giả tưởng” (Phan Huy Dũng). Bằng cách ấy, nhà thơ đưa người đọc vào “vùng trời” của thơ, cảm nhận được chân giá trị thẩm mĩ của thi phẩm.

Chính Chế Lan Viên cũng đã từng nói: “Thực ra làm thơ chính là nói là viết về cái điều tỏa ra trước thực tế chứ không phải bằng bản thân thực tế”. Khi viết bài thơ này, nhà thơ cảm thấy “trong lòng rất day dứt… cảm thấy cuộc sống của mình sẽ chật hẹp bé nhỏ nếu không hòa được với cuộc đời chung” (Chế Lan Viên). Con tàu – hồn thơ đang trong cuộc hành trình về với nhân dân, thoát khỏi đời riêng nhỏ hẹp. Đây không phải hành trình lãng tử bơ vơ mà là một chuyến tàu giục giã, hối thúc tràn đầy phấn hứng. Con tàu đã làm nên phần nhạc của bài thơ mà năng lượng là niềm vui, là cảm xúc dạt dào, là “tiếng hát”. Con tàu là biểu tượng cho khát vọng ra đi, đi đến những miền đất xa xôi của Tổ quốc. Với Chế Lan Viên, ra đi thực chất là trở về (Con đã đi nhưng con cần vượt nữa / Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương) bởi vì trước đây nhà thơ đã đi quá xa (vào thế giới siêu hình), xa đến nỗi tưởng quên cả đường về. Chế Lan Viên đã đi theo cách mạng cũng hết sức tự nhiên nhưng còn nhiều lực cản đặc biệt là phải vượt lên chính mình, vượt lên những “buồn rớt”, “mộng rớt” trong tâm hồn để tìm thấy ý nghĩa đích thực của cuộc đời, tìm thấy ngọn nguồn của sáng tạo. Cuộc ra đi – trở về này được nhà thơ hình tượng hóa thành một chuyến tàu lên Tây Bắc, nơi quê hương cách mạng, nơi đất nước đang gọi, nơi “tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”.

Con tàu là biểu tượng cho khát vọng lên đường. Tiếng hát biểu thị sự phấn chấn hăm hở, tin yêu và tự hào. Có một thời chàng thi sĩ này đã khóc. Nhiều người nhầm chàng là hậu duệ của Chế Bồng Nga bởi chàng trong thân phận của một người dân vong quốc đã khóc thương cho sự đổ nát “điêu tàn” của đất nước Chiêm Thành. Trong thơ chàng, người ta nghe thấy tiếng xương gãy, đầu rơi, tủy vọt, tiếng voi gầm ngựa hí, tiếng binh khí thành Đồ Bàn và tiếng “muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi”. Đến với cách mạng, người thi sĩ ấy đã thoát ra khỏi “những tháp Chàm lẻ loi, bí mật” và sau một quá trình “nhận đường”, “tìm đường” đã cất lên tiếng hát, tiếng hát của lòng biết ơn vì Đảng, Bác, nhân dân, đất nước đã đem “ánh sáng và phù sa” đến làm sống dậy một hồn thơ.

Tiếng hát con tàu là tiếng hát của một tâm hồn đang phấn chấn, hăm hở với khát vọng lên đường đến những miền đất mới mà thực chất là trở về với nhân dân, đất nước – ngọn nguồn của hồn thơ, của những sáng tạo.

Bài thơ – khúc hát chia làm ba phần. Hai khổ đầu là sự trăn trở trước lời mời gọi lên đường. Giọng thơ vừa day dứt vừa giục giã hối thúc. Tác giả dùng thủ pháp phân thân để tự vấn với hàng loạt câu hỏi và câu trả lời tạo nên thế đối lập giữa phê phán và mời gọi, tạo một độ sâu đặc biệt cho cảm hứng trữ tình:

“- Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
– Tàu gọi anh đi sao chửa ra đi?
– Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi 
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng”

Phá bỏ chủ nghĩa cá nhân vị kỉ để bay ra giữa cuộc đời cao rộng. Hai khổ thơ có ý nghĩa như một sự lấy đà, “nạp nhiên liệu”, chuẩn bị tâm lí, trí tuệ để lên đường.

Chín khổ thơ giữa thể hiện khát vọng về với nhân dân, gợi lại những  kỉ niệm kháng chiến với nghĩa tình của nhân dân, đất nước. Sự da diết của những kỉ niệm làm sống dậy những hình ảnh cụ thể đầy xúc động:

“Ôi kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa 
Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường”

Với lớp văn nghệ sĩ tiền chiến thì Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp có ý nghĩa đặc biệt. Chế Lan Viên nói về kháng chiến với lòng biết ơn sâu nặng. Thực ra đến với kháng chiến cũng là đáp ứng nhu cầu cấp thiết của tâm hồn “cho con về gặp lại Mẹ yêu thương”. Để diễn tả niềm hạnh phúc lớn lao của việc trở về, nhà thơ đã sử dụng một loạt hình ảnh so sánh:

“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ 
Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa 
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa 
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa ”

Nhân dân là những con người cụ thể, là “anh con”, “em con”, là “mế”… những con người tuy “không phải hòn máu cắt” nhưng nghĩa tình thì “trọn đời”, “con nhớ mãi”. Mạch thơ đi từ những xúc động thiêng liêng, chân thành đến những khái quát triết luận:

"Khi ta ở chỉ là nơi đất ở 
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương"

Vẻ đẹp của đoạn thơ là vẻ đẹp của chất trữ tình – triết luận mang đậm phong cách thơ trí tuệ Chế Lan Viên. Đây là kiểu “đốt cháy trái tim để thành trí tuệ ngời sáng”.

Bốn khổ thơ cuối là khúc hát lên đường đầy sôi nổi tin tưởng. Tiếng gọi của đất nước, nhân dân đã trở thành sự thôi thúc bên trong, thành lời giục giã của chính lòng mình. Tác giả sử dụng hàng loạt hình ảnh kết tinh từ đau thương, hi sinh: “lúa chín rì rào”, “mặt đất nồng”, “đôi cánh”, “mái ngói đỏ trăm ga”, “vàng”, “vầng trăng”, “suối lớn mùa xuân”. Đây là những hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng, đặc biệt là sự trở lại của hình ảnh “con tàu”, “vầng trăng”. Bài thơ vút lên với cảm xúc lãng mạn bay bổng. Hình ảnh con tàu trở lại và trở thành trung tâm của đoạn kết thể hiện một nhu cầu, một khát vọng ra đi không cưỡng lại được:

"Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng 
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng"

Tây Bắc – biểu tượng cho đất nước, nhân dân, cho cội nguồn thơ ca là cái sân ga tinh thần mà con tàu tâm hồn đã tới đích.

Những nội dung trên đây của bài thơ đã được Chế Lan Viên dồn nén một cách cô đọng, hàm súc trong bốn câu đề từ:

“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc 
Khi lòng ta đã hóa những con tàu 
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát 
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu!”.

Trong các tác phẩm văn học, lời đề từ như một tín hiệu chỉ dẫn, lời mách bảo kín đáo con đường khám phá tác phẩm. Tuy nhiên, không phải một lúc chúng ta có thể nhận thức được hết ý nghĩa của lời đề từ. Muốn hiểu được lời đề từ phải nắm được nội dung tác phẩm. Vì thế, lời đề từ và nội dung tác phẩm luôn soi chiếu lẫn nhau để vừa hiểu sâu sắc tác phẩm vừa nhận ra ý vị của lời đề từ vốn có hình thức như một câu đố:

“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc ”

Câu mở đầu là một câu hỏi mà đối tượng chính là Tây Bắc. Nhưng hỏi không phải để tìm câu trả lời mà để phát biểu một quan điểm, để bày tỏ cảm xúc. Lớp nghĩa bề mặt của câu thơ là: Tây Bắc là vùng đất xa xôi, nơi có cuộc sống gian lao mà nặng nghĩa tình, nơi đang cần bàn tay con người khai phá. Dường như câu thơ còn ẩn chứa một điều gì rất khó nắm bắt. Cái chất Chế Lan Viên nằm trong câu thơ ta dường như chưa chạm tới được. Tây Bắc là một biểu tượng mang nội dung ước lệ. Tây Bắc lại có đặc điểm của một hình tượng nghệ thuật đủ sức lay động cảm xúc thẩm mĩ nơi độc giả.

Hiểu như vậy, ta thấy Tây Bắc lấp lánh thêm nhiều tầng lớp ý nghĩa. Tây Bắc là cách nói về Tổ quốc trong quá khứ, hiện tại và tương lai đồng thời cũng là cách nói về hiện thực cuộc sống, là thiên nhiên, con người, cuộc đời… mà nhà thơ cần hướng tới để nhận thức, khám phá và biểu hiện những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Tây Bắc đó là “khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát”, là lời mời gọi thiết tha mỗi con người, mỗi hồn thơ hãy giang cánh mà trở về với đất nước, nhân dân, với những gian lao, với nghĩa tình sâu nặng. “Con tàu” chính là “lòng ta” bỗng náo nức một nỗi lên đường để đến với nhân dân, đất nước, đến với thơ, đến với tâm hồn đích thực của mình. “Khi lòng ta đã hóa những con tàu” tức là tâm hồn đã quyết tâm ra đi, đã quyết từ bỏ chủ nghĩa cá nhân siêu hình bế tắc để đến với cuộc đời, đến với hiện thực cuộc sống, ngọn nguồn của sáng tạo nghệ thuật.

Thế nhưng, đọc kĩ câu 2 và câu 4 của lời đề từ, ta bỗng thấy nhấp nháy một tín hiệu lạ. Ở câu 2 tác giả viết: “Khi lòng ta đã hóa những con tàu”. Nhưng sang câu 4 nhà thơ lại viết: “Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”. Câu thơ như một định nghĩa về “tâm hồn ta” vậy. Cụm từ “chứ còn đâu” có màu sắc chất vấn để khẳng định tính chính xác của “định nghĩa”. Độc giả bỗng thoáng chút lúng túng. Nhưng đặt hai câu thơ trong phong cách thơ Chế Lan Viên ta sẽ phát hiện được tầng nghĩa có tính chất triết lí ẩn chìm phía dưới. Chế Lan Viên đã thống nhất ba sự việc, ba biểu tượng: con tàu – tâm hồn – Tây Bắc để lôi cuốn tác giả. Khi “phá cô đơn ta hòa nhập với người”, khi mỗi con người phá bỏ chủ nghĩa cá nhân, phá bỏ những quan niệm nghệ thuật siêu hình bế tắc để hòa nhập với cộng đồng, với thế giới, với nhân dân đất nước thì tâm hồn mỗi con người sẽ trở thành một thế giới không tầm thường chút nào. Tâm hồn anh thuộc về nhân dân, được sinh ra từ nhân dân, được nhân dân nuôi sống. Cuộc đời và thế giới cá nhân đã hóa thân, chưng cất thành tâm hồn nhân dân. Vì thế tâm hồn anh có sự giao cảm đặc biệt với muôn triệu tâm hồn. Chế Lan Viên đã nhiều lần nói về sự thay đổi kì diệu này:

“Tâm hồn tôi khi thế giới soi vào 
Thấy nghìn núi trăm sông diễm lệ ”

Hoặc:

“Sợi chỉ lòng anh nghèo có một màu 
Xe vào cái đa sắc của cuộc đời thêm chói lọi”.

Ở Tiếng hát con tàu, Tây Bắc cũng soi vào hồn nhà thơ và nhìn vào tâm hồn nhà thơ bỗng phát hiện ra Tây Bắc đâu chỉ là một miền đất, một vùng quê. Tây Bắc còn sống trong mỗi con người với những kỉ niệm “máu rỏ tâm hồn ta thấm đất”. Tây Bắc là “anh con”, “em con”, là “mế”, là “bản sương giăng”, “đèo mây phủ” là “vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng”, là cuộc sống gian lao nhưng trọng nghĩa tình, là tất cả những kỉ niệm tươi rói để kết lại thành: “Tây Bắc – người là mẹ của hồn thơ”.

Lời đề từ chính là một lời tâm niệm: tâm hồn ta thuộc về nhân dân, đất nước. Nhìn vào tâm hồn thấy nhân dân, đất nước. Soi vào đất nước, nhân dân lại thấy được lòng mình. Ra đi đến với cuộc đời, đến với đất nước, nhân dân cũng chính là tìm đến tâm hồn đích thực của mình với những tình cảm trong sáng, những nghĩa tình sâu nặng. Đó chính là ngọn nguồn của sáng tạo bởi “chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”.

Tiếng hát con tàu có vẻ đẹp hài hòa giữa cảm xúc và suy tư, giữa tình cảm và trí tuệ. Đây cũng là đặc điểm phong cách Chế Lan Viên trong Ánh sáng và phù sa. Cuộc đời và thời đại đã thổi vào hồn thơ ông một luồng gió mới. Hơi thơ tràn đi như một khúc hát ân tình. Ý thơ vận động theo lôgic triết luận. Chất trí tuệ lấp lánh cả bài thơ từ nhan đề, lời đề từ cho đến khổ thơ kết.

Sau 1975, thơ Chế Lan Viên có những chuyển biến đa dạng và đa diện nhưng chất trữ tình – triết luận vẫn luôn là nét phong cách ổn định tạo nên vẻ đẹp, sự sang trọng cho thơ ông. Tiếng hát con tàu đã ghi một dấu mốc quan trọng trong đời thơ Chế Lan Viên – một hồn thơ thanh khiết sáng ngời trong cuộc trở về với nhân dân, đất nước.

Thu Thủy (Tổng hợp)

0