Phân tích tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu – Văn mẫu hay lớp 12
Xem nhanh nội dung Phân tích tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Sóc Trăng Một trong những cái tên nổi tiếng của làng văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới chính là Nguyễn Minh Châu. Ông được coi là người ...
Xem nhanh nội dung
Phân tích tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Sóc Trăng
Một trong những cái tên nổi tiếng của làng văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới chính là Nguyễn Minh Châu. Ông được coi là người "mở đường tinh anh và tài năng nhất". Trước năm 1975, ông là một cây bút sử thi lãng mạn, viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên, sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức, và triết lý chân thực. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy là 'Chiếc thuyền ngoài xa'.
Truyện ngắn được ra đời năm 1983, đến năm 1987 được in trong tập truyện ngắn cùng tên. Năm 1983 là thời kỳ độc lập của đất nước ta. Cuộc sống thời bình với muôn mặt của đời sống, đặt ra nhu cầu nhận thức lại về hiện thực và cuộc sống con người. Là một tác phẩm đáp ứng được nhu cầu ấy, 'Chiếc thuyền ngoài xa' đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu và tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, xu hương chung của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Truyện ngắn được chia thành ba phần. Phần một: từ đầu cho đến "lưới vó biến mất". Ở phần này, tác giả đi sâu vào kể vầ phân tích hai phát hiện của nhân vật Phùng. Phần hai: tiếp theo đến "giữa phá". Câu chuyện của người đàn bà hàng chài được kể tại đây. Phần ba còn lại. Tác giả nói về bức ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy.
Trước tiên, truyện ngắn này có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Ai cũng biết, tình huống là vấn đề then chốt đối với truyện ngắn. Nhà văn tìm được tình huống độc đáo sẽ khiến bạn đọc cuốn hút theo câu truyện. Tình huống chính là tình thế xảy ra câu truyện, khi nhân vật ở trong tình thế ấy sẽ bộc lộ rõ nhất bản chất, tính cách, phẩm chất của con người. Tình thế cũng có thể là bước ngoặt làm thay đổi số phận, nhận thức hoặc có khi bộc lộ ra những cốt lõi sâu thẳm tiềm ẩn trong truyện. Tình huống truyện của 'Chiếc thuyền ngoài xa' là tình huống nhận thức. Đây là một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống của truyên được thể hiện qua hai phát hiên của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Tình huống đã giúp Phùng nhận ra được nhiều điều về cuộc sống, con người và nghệ thuật. Cuộc đời vốn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, bất ngờ và đầy nghịch lý. Cần đến gần cuộc sống để khám phá sự thực bên trong và chiều sâu bản chất. Cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều để hiểu rõ bên trong số phận và tâm hồn con người. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.
Đi vào phần một của truyện là một cảnh sắc thiên nhiên đẹp thơ mộng. Phùng đã chụp được một "cảnh đất trời cho": một chiếc thuyền lòe nhòe trong sương sớm với ánh mặt trời ban mai hồng hồng. Một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ. Đứng trước cảnh đẹp ấy, người nghệ sĩ thấy tim mình như có gì đó "bóp thắt vào". Người nghệ sĩ cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc, anh thấy được cảm xúc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân- thiện -mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc trở nên trong trẻo và thanh khiết. Thông qua cảm xúc của nhân vật Phùng, tác giả đưa ra quan niệm về cái đẹp. Cái đẹp phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái chân-thiện-mĩ, cái đẹp là đạo đức. Nhưng để hoàn thiện cho quan niệm về nghê thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đã để nhân vật của mình chứng kiến câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài. Đó là một con người hiện thân cho sự lam lũ đói khổ. Từ trong chiếc thuyền đẹp như mơ kia bước ra một cặp vợ chồng. Người vợ "trạc ngoài 40", "mặt rỗ", "thân hình cao lớn thô kệch", "lưng áo bạc phếch", "gương mặt lộ rõ sự mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới". Người đàn ông "có tấm lưng rộng", khuôn mặt "độc, dữ". Cả hai người đều là hiện thân của sự nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài. Điểm đánh chú ý chính là cảnh bạo hành của hai con người này. Người chồng thì đánh đập người vợ dã man, người vợ thì cam chịu trận đòn. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối lập với cái cảnh đẹp như ngư phủ của con thuyền. Chính từ cảnh tượng tàn bạo ấy, tác giả đã có thể gửi gắm thông điệp của mình. Đó là cuộc sống có nhiều nghịch lý mâu thuẫn, nếu chỉ quan sát bên ngoài hoặc ở xa thì không thể phát hiện được sự thật bên trong nó. Cái đẹp của nghệ thuật qua ống kính của người nghệ sĩ chưa thể ddue sức mạnh để làm nên đạo đức con người trong cuộc sống.
Nếu truyện ngắn chỉ dừng lại ở đây chắc chắn sẽ không đủ sức hút có thể để lại dư âm trong lòng người đọc. Chính vì thế mà những tâm sự của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện được viết ra. Sau khi chứng kiến cảnh bạo hành dã man bên chiếc xe tăng hỏng, Phùng đã nói với chánh án Đẩu từng là chiến hữu của anh để nhờ giúp đỡ. Người đàn bà hàng chài đã đươc chánh án Đẩu mời đến để khuyên chị li hôn với chồng. Nhưng rồi những lời tâm sự của chị đã khiến không chỉ hai chàng trai mà cả người đọc cũng phải ngỡ ngàng. Vẻ đẹp tâm hồn ẩn sâu bởi cái vẻ ngoài xấu xí của người phụ nữ ấy đã khiến chánh án Đẩu và nhân vật Phùng nhận ra được nhiều điều. Mặc dù bị đánh đập dã man "ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ" nhưng người phụ nữ vẫn quyết không bỏ chồng. Vì chị thương con, muốn đàn con được ăn no. Vì thương chồng vất vả mà không giúp gì được nên chịu đòn mong có thể san sẻ được với chồng. Rồi chị tự nhận lỗi về mình, chị biết ơn chồng mình. Chị chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi "trên thuyền cũng có lúc sống vui vẻ hạnh phúc". Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài đã đem đến cho người đọc một thông điêp, một triết lý. Đó là phải nhìn mọi việc một cách toàn diện. Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống thì cũng phải gắn liền vời cuộc sống.
Kết thúc câu truyện, tác giả nhắc lại về bức ảnh chụp của nghệ sĩ Phùng nhằm nhấn mạnh sức ảnh hưởng của nó. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đi sâu vào tiềm thức của Phùng như một trải nghiệm mà mỗi khi nhìn vào bức ảnh anh lại nhớ đến nó.
Với cách xây dựng tình huồng truyện đọc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc đời, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện( nhân vật Phùng), "Chiếc thuyền ngoài xa" đã để lại ấn tượng sâu đậm. Thành công của Nguyễn Minh Châu đã đem đến cho người đọc một tác phẩm đầy tính triết lý và chiêm nghiệm về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật. Những triết lý luôn đúng với mọi thời đại.
Phân tích tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 2
Nguyễn Minh Châu là người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật, thao thiết kiếm tìm “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người.” Trước 1975, Nguyễn Minh Châu được biết đến với những tác phẩm đậm chất sử thi như: Cửa sông, Miền cháy, Dấu chân người lính. Thế nhưng, sau 1975, chính Nguyễn Minh Châu lại là người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học. Chiếc thuyền ngoài xa được in năm 1983 là một bước tiến dài rất đáng trân trọng trong hành trình khám phá vào tầng chìm, vào chiều sâu của cuộc sống và con người của văn xuôi Nguyễn Minh Châu.
Tình huống thắt nút của tác phẩm
Tác phẩm đã chọn được một tình huống hết sức đắt giá và có ý nghĩa. Tình huống ấy chứa đựng nhiều mâu thuẫn, nhiều nghịch lí của cuộc sống. Phóng viên Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp thêm cảnh một buổi bình minh đầy sương để bổ sung cho hoàn hảo vào bộ sưu tập chuyên đề thuỳen và biển: “ 12 tháng là 12 bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển.” Lặn lội hơn 600 cây số,anh đến một vùng đầm phá miền Trung xa xôi mà anh cho là rất thi mộng để săn lấy một bức ảnh hợp với ý đồ nghệ thuật của vị trưởng phòng. Bao nhiêu ngày nằm phục kích, cuối cùng anh cũng bắt gặp được một cảnh mà anh rất mãn nguyện: “có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy. Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. Đó là cảnh chiếc thuyền vó của gia đình một ngư dân đang tiến vào bờ. Người nghệ sĩ nhiếp ảnh tràn ngập hạnh phúc sau khi bấm “ liên thanh” một hồi hết một phần tư cuốn phim ghi lại bức ảnh mà anh cho là “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh.” Thế nhưng, chính lúc đang thăng hoa trong tột đỉnh khoái cảm nghệ thuật, người nghệ sĩ nhiếp ảnh và cả người đọc lại phải ngạc nhiên đến sững sờ trước một cảnh tượng nghịch lí đang diễn ra trước mắt. Nguyễn Minh Châu đã đưa đến cho ta một tình huống đầy bất ngờ: có ai ngờ trong cái khung cảnh mà người nghệ sĩ nhiếp ảnh nhìn thấy một sự hài hòa đến toàn bích kia, trong cái cảnh mờ sương đầy thơ mộng kia lại dần dần hiện lên một sự thực trần trụi đầy trớ trêu. Một trong những con đường để đi đến ý nghĩa của tác phẩm là phải phát hiện ra những mâu thuẫn nghệ thuật của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã thực sự đặt người đọc trước một tình huống đầy vấn đề: một người đàn ông vũ phu, tàn nhẫn đến mức như không còn nhân tính; một người đàn bà cam chịu đến mức như mù quáng, vô cảm và một đứa bé với sức phản kháng dữ dội đến mức như những hành động bản năng. Rõ ràng, tình huống ấy có sức khơi gợi rất mạnh tư duy và cảm xúc của người đọc. Tình huống diễn ra bất ngờ và kì lạ đến mức trong mấy phút đầu người nghệ sĩ nhiếp ảnh chỉ biết “há mồm ra mà nhìn”. Từ tình huống ấy, ngòi bút “thâm trầm, buồn lắng, yêu thương nhưng dữ dội ” của Nguyễn Minh Châu đã tài tình hé mở cho ta đi vào cuộc sống đời thường với bao đa sự, đa đoan của nó. Nhiều người cho rằng loại tình huống mà Nguyễn Minh Châu đặt ra trong tác phẩm là tình huống nhận thức. Điều đó cũng hợp lí vì càng đi sâu vào tình huống càng cho ta ngộ ra, bừng tỉnh ra nhiều điều, những điều không tuyệt bích như một bức tranh sơn mài mù sương mà ngược lại; đầy chất muối, đầy sự mặn chát của cõi bụi trần. Từ tình huống ấy ta nhận ra bao tâm trạng, bao con người, bao vấn đề của cuộc sống.
Hình tượng người đàn ông đánh vợ tàn nhẫn
Nếu nhìn từ xa và quan sát bên ngoài thì hình ảnh người đàn ông đánh vợ hiện lên đầy hùng hổ, táo tợn và tàn nhẫn. Thế nhưng, theo dõi tâm lí, hành động của con người này mới vỡ lẽ rằng, thì ra con người thô lỗ, lạnh lùng như gỗ đá ấy cũng biểu hiện những tâm trạng, cảm xúc khiến người đọc phải suy ngẫm.Quan sát kĩ chúng ta nhận thấy vấn đề: khi cùng lội vào bờ, đôi mắt người đàn ông “lúc nào cũng dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà” thế nhưng khi đã đi khuất vào sau những chiếc xe tăng hỏng thì người đàn ông mới lập tức trở nên hùng hổ, dữ tợn đến không ngờ. Trong cái thân hình hộ pháp đậm chất biển khơi kia như đang dồn nén bao gánh nặng bắt buộc phải được trút xuống, bắt buộc phải được thoát ra. Trong từng cơn giận lão trút xuống lưng người đàn bà ta nhận ra cái “giọng rên rỉ đau đớn” và câu nói đi kèm: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Câu nói cửa miệng “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ” giúp ta định hướng rằng, hành động vũ phu man rợ của người đàn ông không phải xuất phát từ nguyên nhân là một tội lỗi nào đó của người đàn bà mà nguyên nhân là gánh nặng cuộc sống, gánh nặng gia đình với một đàn con nheo nhóc đang đè lên vai người đàn ôn trụ cột này. Đàn con thì càng ngày càng đông đúc, nên những trận đòn ngày càng dài hơn, cay cực hơn. Người đàn ông trút bao căm hờn của tình cảnh gia đình lên đầu vợ bằng bạo lực, bằng thói vũ phu đến man rợ là điều đáng giận, đáng phê phán. Thế nhưng, qua tình huống truyện, qua cái “giọng rên rỉ đau đớn” ta nhận ra cái tình cảnh khốn cùng đến bế tắc đè nặng lên bờ vai, khối thịt vốn đã không thể đen hơn, rám nắng hơn trong sự vật lộn với biển khơi của người đàn ông vùng biển.
Hình ảnh người đàn bà câm lặng, nhẫn nhục chịu đựng đòn roi
Hình ảnh người đàn ông đánh vợ đã kì lạ nhưng hình ảnh người đàn bà câm lặng, nhẫn nhục chịu đựng đòn roi lại càng kì lạ hơn. “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người đàn bà ấy đã “không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn”. Người đàn bà trót gây nên tội lỗi gì để rồi cam tâm nhận lấy sự tả giá hay chi ta tăm tối, mù quáng đến mức không còn cút ý thức? Những giả thiết ấy đều bị đánh đổ bằng những điều mà người đàn bà trình bày trước vị chánh án của vùng biển. Qua những cảnh có tính chất “mở nút” của tình huống, ta nhận chân giá trị của hình tượng, đó là những vẻ đẹp tuyệt vời nơi người phụ nữ khốn khổ ấy. Người mẹ ấy luôn cam tâm nhận lấy nỗi đau thể xác nhưng chị còn phải khốn khổ hơn với nỗi đau tinh thần. Ở trên chiếc thuyền chật chội, túng thiếu và nheo nhóc những con với cái kia; tiếng cười niềm vui hạnh phúc trở nên thật hiếm hoi. Những khi trời không yên, biển không lặng, cuộc sống trên những con thuyền ấy càng trở nên gieo neo. Thế là, bao nhiêu cay cú, uất ức, người chồng vũ phu lại trút lên đầu người đàn bà, làm như người đàn bà ấy là nguyên nhân trực tiếp gây nên sự bế tắc kia. Dù oan trái nhưng chị tự nguyện chấp nhận với một lời khẩn cầu cho con: khi con cái lớn lên hãy “đưa tôi lên bờ mà đánh.” Bà cam tâm nhẫn nhục chịu đựng chỉ mong sao đừng gây nên sự tổn thương cho những tâm hồn trẻ thơ. Trong hoàn cảnh đói khổ, quẫn bách của cuộc sống thuyền chài, suy nghĩ về sự hành xử như vậy, giàu tình thương và đức hi sinh biết bao. Có hiểu được điều đó ta mới đồng cảm với tâm trạng của người mẹ ấy khi vô tình để con trai chứng kiến cảnh bà bị người chồng đánh đập dã man sau những chiếc xe tăng cũ nát kia. Người mẹ cảm thấy: “Vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã ”, đau khổ vì lo lắng cho con trước rồi mới đến xấu hổ, nhục nhã cho mình. Chứng kiến những trạng thái tình cảm này không ai không cảm thấy xúc động: “miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”.
Bên cạnh tình thương và sự hi sinh, chị còn là người biết sống và biết thấu hiểu mọi lẽ đời. Có điều, nhân hậu và vị tha biết bao nhiêu khi chị không nghĩ đến mình, chỉ thấu hiểu cho chồng và cho tương lai của đàn con đông đúc kia. Một người chồng đầy quái gỡ, nói như vị chánh án: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng như hắn”. Thế nhưng, khi được vị thẩm phán gợi ý cho con đường giải thoát thì chị lại khẩn thiết cầu xin: “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Cách hành xử của chị khiến Đẩu, vị bao công của cái phố huyện vùng biển, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chính người đàn bà có vẻ ngoài xấu xí và trái tim nặng trĩu khổ đau đã giúp anh ngộ ra bao điều. Chị nhìn suốt cả đời mình để đưa ra một chân lí, giản dị, mộc mạc nhưng thấm bao vị mặn chát của đời thường: “Đám đàn bà làng chài ở thuyền chúng tôi cần có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con mà nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Nhưng cái chân lí đích thực và đẹp đẽ hơn là: “Đàn bà ở trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Có lẽ chính thiên tính nữ ở người đàn bà đã giúp Đẩu, vị chánh án rành rỏi bao qui định của luật pháp “vỡ ra” bao điều cay đắng của luật đời. Bên cạnh Đẩu, người đàn bà còn để lại bao dư vị đắng cay cho người nghệ sĩ nhiếp ảnh. Tình huống khép lại nhưng bao nhận thức cuộc sống lại được mở ra. Đó là ý đồ nghệ thuật đầy tài ba của tác giả thiên truyện.
Những hình ảnh biểu trưng và sự thức nhận đau đớn về bao giá trị sống
Cùng với việc xây dựng tình huống là những hình ảnh biểu trưng có sức gợi , sức kết lắng ý nghĩa tư tưởng lớn. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, những hình ảnh biểu tượng ẩn chứa bao ý nghĩa sâu xa và chính những hình ảnh này kết lắng và chứa đựng chủ đề tư tưởng tác phẩm.
Trước hết là cảnh tượng người đàn ông đánh vợ một cách thô bạo và man rợ đằng sau những chiếc xe tăng hỏng. Trên mảnh đất đầm phá đầy tinh thần cách mạng ấy, chiến tranh đã đi qua từ lâu. Những chiếc xe tăng, chứng tích của một thời bom đạn ác liệt giờ trở thành phế tích đang dần mục sét qua năm tháng và chất muối mặn của vùng biển. Những chiếc xe rà phá bom mìn đang cố gắng thu dọn những gì còn sót lại của chiến tranh có thể vô tình gây nên nỗi đau. Thế nhưng, bên cạnh cuộc chiến đấu ấy, bên cạnh nỗi đau ấy là một cuộc chiến đấu mới, là một nỗi đau mới. Cuộc chiến đấu mới ấy còn cam go hơn, nỗi đau mới ấy mới e chừng còn dai dẳng hơn. Đó là cuộc chiến đấu với đói nghèo, với tăm tối. Trên thuyền phải có một người đàn ông dù người đàn ông đó có man rợ và tàn bạo đến đâu đi nữa. Sự khẳng định hùng hồn như chân lí của người đàn bà làm vị chánh án chỉ biết “trút một tiếng thở dài đầy chua chát”.
Bên cạnh hình ảnh người đàn ông đánh vợ bên bãi xe tăng hỏng là hình ảnh người nghệ sĩ nhiếp ảnh và bức ảnh nghệ thuật về chiếc thuyền ngoài xa. Nếu cảnh người đàn ông đánh vợ đầy nghịch lí thì hình ảnh người nghệ sĩ và bức ảnh nghệ thuật lại đầy mâu thuẫn. Thực hiện ý đồ nghệ thuật của vị trưởng phòng về bộ sưu tập về thuyền và biển, người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cuộc sống con người trải qua mười hai tháng trong một năm thì bộ sưu tập có mười hai bức tranh. Bức tranh thứ mười hai qua ống kính của người nghệ sĩ ấy là một cảnh toàn bích từ đường nét, ánh sáng đến bố cục. Vậy mà, cuối cùng anh đã chứng kiến những gì? Trớ trêu, trần trụi và nghịch lí đến kì cùng. Thế nhưng nó lại có đường nét, ánh sáng và lôgic, bố cục của cuộc sống hiện thực. Cùng với vị chánh án, người nghệ sĩ nhiếp ảnh cũng “vỡ ra” về “độ chênh” giữa cái đẹp của nghệ thuật được thu vào ống kính ống kính trong trí tưởng tượng bay bổng của người nghệ sĩ và dư vị đắng cay đến xót xa trong cái đa đoan của cõi đời. Mười hai bức tranh nghệ thuật về một vùng đầm phá thơ mộng, mờ sương hay mười hai tháng với bao cơn bão tố và những trận đòn tói tấp của gia đình người đàn bà khốn khổ kia. Với hình ảnh biểu tượng này, một lần nữa, Nguyễn Minh Châu thủ thỉ với người đọc rằng: cũng như vị chánh án, người nghệ sĩ cần có cái nhìn cận nhân tâm hơn. Những bức ảnh nghệ thuật và nhan đề “chiếc thuyền ngoài xa” gợi bao thức nhận đau đớn: ở đó, không phải là những giọt sương mai thơ mộng như trong tranh thuỷ mặc của một vùng quê yên bình mà là những giọt muối mặn đầy xót xa của cuộc sống trần trụi đời thường. Nghệ thuật chính là cuộc sống, người nghệ sĩ phải có góc nhìn và cự li khám phá cuộc sống gần gũi hơn, có như vậy anh mới phản ánh đúng, mới thấu hiểu được muôn sự đa đoan của cõi đời, khốn khổ đấy, đau đớn đấy nhưng đẹp đẽ vô cùng.
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đã thể hiện những đổi mới thành công của Nguyễn Minh Châu. Bằng việc xây dựng tình huống thắt nút và việc sử dụng những hình ảnh có sức biểu trưng lớn, tác phẩm đã đi sâu khám phá cuộc sống đời thường với bao đa sự, đa đoan thời hậu chiến. Phải có cái nhìn tinh tế, sâu sắc, Nguyễn Minh Châu mới thấu hiểu và phát hiện được những vẻ đẹp thầm lặng ẩn giấu trong tâm hồn người phụ nữ khốn khổ ấy. Tác phẩm do vậy còn cho thấy tài năng và tấm lòng người cầm bút của Nguyễn Minh Châu.
Phân tích truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 3
Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là nhà văn quân đội. Ông là một trong những cây bút tiên phong của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới (cuối thế kỉ XX).
Những tập truyện ngắn: “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Bến quê”, Chiếc thuyền ngoài xa, “Cỏ lau”,… đã thể hiện sự “tinh anh” và tài năng nghệ thuật đặc sắc in đậm phong cách tự sự – triết lí của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được tác giả viết vào năm 1983, xuất bản năm 1987. Nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, chánh án Đẩu, người đàn bà hàng chài mặt rỗ và thằng bé Phác là những nhân vật được tác giả khắc họa khá sắc sảo, để lại cho người đọc bao ấn tượng, bao ám ảnh về màu sắc lãng mạn của nghệ thuật và sự thật trần trụi của đời thường.
Nghệ sĩ Phùng đã vác máy trở lại vùng biển nơi chiến trường xưa cũ của anh thời đánh Mỹ. Cảnh biển sáng có sương mù mà anh “phục kích” mấy buổi sáng vẫn chưa tìm ra. Anh háo hức muốn thu vào tờ lịch tháng bảy năm sáu cánh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh thì sáng nay đã gặp hên ”một cảnh đắt trời cho, có lẽ suốt một đời cầm máy chưa bao giờ mơ tưởng đến". Đó là cảnh “thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Và bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum đang hướng vào bờ.Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi…”
Trong ánh mắt người nghệ sĩ, Phùng cảm thấy trước mặt mình là “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ bao mỹ cảm đã dâng lên dạt dào trong lòng, anh xúc động “bối rối”, và trái tim của anh “như có gì bóp thắt vào”. Đối diện với bức tranh “thật đẹp và toàn bích” ấy, nghệ sĩ Phùng đã cảm thấy vô cùng hạnh phúc, anh mới thấm thía “bản thân trong cái đẹp chính là đạo đức” như ai đó lần đầu phát hiện ra; trong giây phút bối rối, anh: tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Cái đẹp và nghệ thuật đã thanh lọc tâm hồn người, làm cho hồn người trở nên thánh thiện.
Và khi đã chạm tới gấu áo của thần nghệ thuật, Phừng đã bấm máy “liên thanh“ một hồi hết một phẩn tư cuộn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca. Cái khoảnh khắc ấy đối với anh vô cùng hạnh phúc, anh mới “ngộ” ra: “hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại”.
Nơi nhà nhiếp ảnh bấm máy, đó chẳng phải là Lầu Hoàng Hạc chẳng phải là một chốn Bồng Lai mà chỉ là một bãi biển có đầy tàn tích chiến tranh với bao xác xe tăng, xe rà phá mìn và xe công binh Mỹ thua chạy bỏ lại. Phùng ngồi bấm máy phải “rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa”. Chi tiết này rất quan trọng, nó cho thấy cảnh biển mù sương và con thuyền trong bình minh tuy có đẹp, nhưng cái đẹp ấy chưa trong vẹn. Vết thương chiến tranh còn in hằn trên bãi biển và trong lòng người ngư dân. Chỉ vì Phùng, với tâm hồn lãng mạn của người nghệ sĩ mới thi vị hóa, thần tiên hóa hình ảnh Chiếc thuyền ngoài xa để rồi sau đó anh sẽ bị hẫng.
Một tình huống đầy bi kịch đã xảy ra. Một cảnh đời ngang trái, quá phũ phàng và vô cùng tàn nhẫn đã diễn ra khi chiếc thuyền “đâm thẳng” vào bờ, vào ngay trước chỗ nhà nhiếp ảnh đứng. Phùng không chỉ nhìn thấy, được chứng kiến mà còn được tham gia dự vào những chuyện trớ trêu, đau lòng.
Còn đâu nữa cái màu trắng, màu hồng của bức tranh “toàn bích” khi một người đàn ông và một người đàn bà rời thuyền lội qua một quãng bờ phá đi lên bãi cát. Một tiếng nói như quát cất lên: “Cứ ngồi yên đấy, động đậy tao giết cả mày bây giờ”. Người đàn bà ngoài bốn mươi tuổi, cao lớn, thô kệch, rỗ mặt, mệt mỏi, tái ngắt… Người đàn ông đi sau “lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền; mái tóc tổ quạ, chân chữ bát, lông mày cháy nắng rủ xuống”… Lão đàn ông “hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán mắt vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”
Những gì xảy ra đã xảy ra sau đó. Bãi cát , nơi xác chiếc xe rà phá mìn đã trở thành nơi hành tộ. Khi người đàn bà “đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá, chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng” thì một sự việc đã diễn ra vô cùng khủng khiếp! Lão đàn ông “trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay”, hắn lồng lên như một con thú dữ. Lão rút trong người ra 1 chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, cái vũ khí thường ngày của kẻ gần như mất hết tính người, “quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Hắn “vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két”. Lão “trút cơn giận như lửa cháy” vào người đàn bà tội nghiệp. Lão nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Mày và chúng mày ở đây là vợ và con lão.
Thật kì lạ là người đàn bà khổ nạn ấy lại không kêu lên một tiếng, không chống trả, không trốn chạy mà “cam chịu đầy nhẫn nhục”. Hình ảnh đau đớn đó làm cho nghệ sĩ nhiếp ảnh kinh ngạc, “đứng há mồm ra mà nhìn” trong mấy phút. Khi Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới thì có một thằng bé con giận dữ “như một viên đạn lao tới đích đã nhắm” lao thẳng đến lão đàn ông. Đứa bé với một sức mạnh ghê gớm đã giằng được chiếc thắt lưng, vung chiếc khóa sắt quật vào giữa ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông loăn xoăn của lão đàn ông. Giằng không được cái dây thắt lưng da, lão ta dang tay cho thằng bé hai tát khiến thằng bé ngã dúi xuống cát.
Tiếng gọi: “Phác,con ơi!” của người mẹ tội nghiệp cất lên. Hình ảnh người đàn bà “ôm chầm lấy thằng bé, rồi buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy …”. Và hình ảnh thằng nhỏ “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ” lau đi những giọt nước mắt chứa đầy những nốt rỗ chằng chịt, tất cả đã làm cho nhà nhiếp ảnh Phùng, cho mỗi chúng ta tê tái, bàng hoàng. Đứa con đến cứu người mẹ, để chặn bàn tay dã man của cha nó!
Phác ngơ ngác nhìn ra bờ phá khi người đàn bà buông đứa con ra, đi thật nhanh đuổi theo lão đàn ông vừa đánh mụ, rồi cả hai cùng đi về thuyền. Bãi cát hoang sơ mà mênh mông, tiếng sóng kêu ồ ồ cất lên. Bức ảnh thế sự ấy diễn ra “như trong truyện cổ tích quái đản”, chiếc thuyền vó ấy đã biến mất, chắc đã làm cho cách nghĩ, cảm quan, tầm nhìn của nghệ sĩ Phùng thay đổi? Bức ảnh thế sự trần trụi ấy đã được Nguyễn Minh Châu ký họa, được nghệ sĩ Phùng mục đích và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về cái đẹp nhưng không thể hiện sự lừa dối, Lãng mạn hóa cuộc đời, bôi hồng lên hiện thực cuộc sống là vô nghĩa khi cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt.
Với Phùng có thể đây là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì lại trần trụi ngay trước mắt. Qua đó ta càng thấy rõ chân lí cuộc đời có lúc không phải là chân lí nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu qua Chiếc thuyền ngoài xa đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với nhà nghệ sĩ chân chính giàu bản lĩnh.
Câu chuyện người đàn bà làng chài ở trụ sở tòa án huyện đã lí giải cho Phùng và Đẩu, đã giúp chúng ta hiểu rõ sự thật trần trụi đằng sau moi bi kịch gia đình, hiểu sâu hơn tấm lòng và tâm lý của người phụ nữ trong nỗi éo le cuộc đời.
Người đàn bà mặt rỗ lúc đầu chỉ dám ngồi ở góc tường, khi được Đẩu mời, mụ mới “rón rén” đến ngồi vào mép chiếc ghế và cố thu người lại. Khi nghe vụ chánh án nói, mụ “ngước lên nhìn” rồi lại “cúi mặt xuống”. Mụ chắp tay vái lạy lia lịa Đẩu và xưng là con: “Con lạy quý tòa… “. Mụ nhấp nhổm xoay người như bị kiến đốt! Nghe mụ van xin mà xót xa: “Quý tòa bắt tội con cũng được, bỏ tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó…”. Sống với một kẻ vũ phu “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” thế mà mụ vẫn van xin quý tòa “đừng bắt con bỏ nó” . Chánh án Đẩu làm sao hiểu được nỗi éo le đó. Nhà nhiếp ảnh Phùng cảm thấy “ngột ngạt quá”.
Khi nghe vị chánh án gọi bằng “bà” và nói rõ chủ trương là kêu gọi hòa thuận, chị ta “ngơ ngác” nhìn Đẩu, nhìn Phùng, chị ta thay đổi cách xưng hô, tự xưng là “chị”, gọi Phùng và Đẩu bằng “chú” rất khẩn thiết, chân thành.
Mụ kể về thời con gái của mình, mụ tâm sự về chuyện lấy chồng của mình: mặt rỗ, xấu gái, không ai lấy, rồi có mang với anh con trai…lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”
Mụ kể chuyện từ ngày cách mạng về đỡ khổ, chứ trước đây những lần biển động, vợ chồng con cái toàn ăn xương rồng luộc chấm muối suốt hàng tháng trời. Chị ta than thở gia cảnh nghèo, thuyền quá nhỏ,… Đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá; đàn ông ở thuyền hoặc uống rượu hoặc đánh vợ bất kể lúc nào, hễ thấy khổ là xách vợ ra đánh. Chị ta biết cho nỗi vất vả của một người đàn bà trên chiếc thuyền không có đàn ông, nhất là những khi biển động sóng gió để chèo chống. “Ông trời sinh ra đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được…” Chị cho biết ngày trước chồng chị trốn đi lính ngụy. Chị có niềm vui là vợ chồng con cái sống vui vẻ , “vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con được ăn no…”
Sự nhẫn nhẫn nhục, đức hi sinh của người đàn bà xấu xí ấy thật bao la. Chị ta cam chịu bị chồng đánh, chị ta xin chồng đừng đánh mình trước mặt con. Chị ta sợ đứa con trai tên Phác làm điều gì dại dột với bố nó nên phải gửi nó lên ở với ông ngoại. Chị ta đã khóc khi nghe Phùng nhắc đến thằng Phác.
Chỉ qua những lời giãi bày chân thực đó, ta mới có thể hiểu được nỗi khổ, sự cam chịu nhẫn nhục, đức hi sinh thầm lặng, tình thương con mênh mông của người đàn bà làng chài đáng thương.; ta mới thấu hiểu được căn nguyên sâu xa của bạo lực trong các gia đình nghèo. Nhìn chuyện đời một cách thấu suốt, rất nhân tình, rất đời sẽ thấy cách nghĩ, cách sống, cách ứng xử của người vợ, người mẹ đó là không thể khác được!
Biết đáy vực nông, sâu đã khó. Biết được nỗi lòng, cảnh đời, cảnh ngộ của con người không bao giờ là dễ. Qua câu chuyện người đàn bà ở tòa án huyện ta càng thấy rõ không thể đơn giản nhìn người, nhìn đời khi đánh giá hiện tượng trong xã hội, cuộc sống. Không thể hấp tấp, vội vàng. Nếu thiên kiến, duy ý trí là sai. Có lòng tốt, có ý định tốt chưa đủ mà phải suy xét, cân nhắc vừa có tình, vừa có lý.
Truyện Chiếc thuyền ngoài xa có nhiều tình huống bất ngờ, hấp dẫn. Mỗi khi một tình huống mới xuất hiện, câu chuyện lại được đẩy lên cao trào, khắc sâ. Nhà nhiếp ảnh xuất hiện lúc đầu, phát hiện ra chiếc thuyền trong sương mù và bấm máy “liên thanh”, ngây người trước cảnh đẹp là một tình huống mộng mơ. Chuyện người đàn ông chân chữ bát dùng dây lưng lính Ngụy đánh vợ rỗ mặt và thằng Phác đánh lại bố để bảo vệ người mẹ đáng thương diễn ra trước mắt Phùng là một bi kịch đầy nước mắt. Chuyện lão thuyền chài dánh vợ, đánh bị thương Phùng – kẻ dám đến can ngăn; đều là những tình huống cực kỳ gay cấn. Câu chuyện người đàn bà kể lại ở tòa án huyện.. là tình huống nói về éo le cuộc đời, về thân phải tủi nhục, đắng cay của người đàn bà nghèo đông con ở làng chài.
Qua các tình huống đó, nhà nghệ sĩ Phùng mới thấm thía rằng: nghệ thuật không thể lãng mạn hóa, thi vị hóa cuộc đời còn đầy ngang trái, Chánh án Đẩu mới thấu hiểu toàn án không chỉ để thực thi công lí, pháp luật mà còn phải soi sáng lòng dân, tình dân. Và mỗi chúng ta mới hiểu: cuộc sống đã và đang diễn ra vô cùng phức tạp, không thể đơn giản hoặc một chiều phiến diện, một phía, một cạnh.
Tình huống chuyện Chiếc thuyền ngoài xa vừa chân thực, vừa mang giá trị nhân bản sâu sắc. Phải chăng cuộc đời lam lũ, nghèo khổ, nheo nhóc, sự tối tăm, ngu dốt… là một trong những nguyên nhân gây ra bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em trong gia đình Việt Nam lâu nay? Phải chăng Nguyễn Minh Châu đã kín đáo nói về căn nguyên đầy nước mắt mà thi hào Nguyễn Du đã viết trong “Văn chiêu hồn” hơn hai thế kỉ trước:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”
Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 4
Căn cứ theo điều Nguyễn Minh Châu lúc sinh thời từng tâm niệm : "Không có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại có thể cắt nghĩa rõ rệt chân giá trị của người làm ra nó như nghề viết văn" thì có thể khẳng định rằng những gì ông để lại cho đời đã đảm bảo chắc chắn ông là một tài năng và một nhân cách lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông có một vị trí quan trọng trong quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới sau năm 1975 và ông rất xứng đáng với lời đánh giá của nhà văn Nguyên Ngọc : "Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng của vãn học ta hiện nay".
Mẫn cảm với nghề, Nguyễn Minh Châu ý thức rất sớm về xu thế tất yếu phải đổi mới văn học, mà trước nhất là đổi mới quan niệm về văn chương, về bản lĩnh và trách nhiệm của nhà văn. Từ năm 1945 dến 1975, văn học Việt Nam có sứ mệnh phục vụ chiến đấu, nó phải trở thành một vũ khí, một "mặt trận"tư tưởng. Yêu cầu dó quy định cách văn học tiếp cận cuộc sống chủ yếu từ góc độ lịch sử – sự kiện. Những vấn đề của cộng đồng được ưu tiên và được coi như tiêu chí hàng đầu dể định giá tác phẩm. Tự nguyện làm một nhà văn – chiến sĩ, Nguyễn Minh Châu đã góp vào nền văn học kháng chiến những tác phẩm xuất sắc : Cửa sông, Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng. Chính trong thời kì hào hùng và cam go ấy, nhà văn ghi vào nhật kí : "Hôm nay chúng ta đang chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc, nhưng sẽ đến một ngày chúng ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, sao cho con người ngày một tốt hơn. Chính cuộc đấu tranh ấy mới là lâu dài". Hoá ra con người là mối bận tâm thường xuyên của ông. Nhận xét văn học viết trong chiến tranh của chúng ta thường có hạn chế lớn : "sự kiện lấn át con người", ông cả quyết rằng sẽ đến lúc vãn học "phải viết về con người", "trước sau con người cũng leo lên trên sự kiện để đòi quyền sống".
Khi đất nước hoà bình, Nguyễn Minh Châu có điều kiên để hiện thực hoá những suy tư đầy sáng suốt đó. Ông coi "văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người", còn nhà văn chân chính thì bao giờ cũng "mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống, nhất là tình yêu thương con người". Tình yêu ấy thôi thúc ông làm một cuộc tự đổi mới âm thầm mà quyết liệt. Trong những sáng tác từ sau nầrn 1975, ngòi bút ông ngày càng nghiêng hẳn về đề tài thế sự, nơi ông có thể đi sâu vào những vấn đề của cá nhân trong mối quan hệ đời thường đa đoan, phức tạp. Rồi từ đó ông đề xuất quan niệm mới mang nội dung dân chủ và nhân bản sâu sắc về con người.
Hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985), đánh dấu bước chuyển vững vàng của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (viết xong tháng 8 – 1983) in trong tập Bến quê.
Những đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn này về cơ bản tập trung ở cách tiếp cận đời sống và quan niệm về con người. Chọn số phận cá nhân trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn thời hậu chiến làm đối tượng khám phá, nhà văn đã kiên quyết khước từ cái nhìn lí tưởng hoá con người, để hiện thực hiện lên với tất cá cái xù xì, góc cạnh của nó. Truyện dường như không có bóng dáng bất cứ một sự kiện chính trị – xã hội nào, chỉ là cuộc sống bế tắc quẩn quanh, thường nhật của một gia đình dân chài vùng đầm phá miền Trung, cách Hà Nội hơn sáu trăm cây số. Điều tác giả muốn nhấn mạnh là : tính chất phức tạp, bí ẩn của đời sống không thể nhìn bằng cái nhìn giản đơn, dễ dãi. Ông đã sáng tạo một tình huống thật độc đáo và hấp dẫn nhằm chuyển tải tư tưởng riêng, những phát hiện riêng về cuộc đời và về văn chương.
Vai trò của tình huống luôn được người viết truyện ngắn đé cao.Với Nguyễn Minh Châu, "Đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra câu chuyện thật hay và thế là coi như xong một nửa". Tình huống chính là "thứ nước rửa ánh làm nổi hình nổi sắc nhân vật, làm rõ tư tưởng của nhà văn".
Chiếc thuyền ngoài xa được triển khai trên hai tình huống chính. Tình huống tự nhận thức là tình huống lớn, bao trùm toàn bộ câu chuyện : Nhân vật Phùng được cử tới vùng biển xa xôi kia để chụp ảnh bổ sung cho bộ ảnh lịch chuyên đề mười hai tháng về biển. Trưởng phòng khi giao nhiệm vụ nói với Phùng : "không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật". Nhờ đó mà Phùng có cơ hội chứng kiến một tình huống khác hết sức bất ngờ và khó tin : một người phụ nữ làng chài thường xuyên bị chồng đánh đập dã man, vẫn cắn răng cam chịu, từ chối lời khuyên đầy thiện chí cúa vị thẩm phán toà án huyện, kiên quyết không rời bỏ người chồng vũ phu. Cách xử sự lạ lùng của người đàn bà gây thắc mắc cho cả Phùng (phóng viên ảnh) lẫn Đẩu (thẩm phán). Kết cục là họ "vỡ ra" được nhận thức mới, đúng hơn, một nhận thức làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc của họ (kiểu tình huống này cũng xuất hiện ở nhiều truyện khác của Nguyễn Minh Châu như Bức tranh, Bến quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,…).
Do tình huống đặt ra là tình huống tự nhận thức nên cốt truyộn được xây dựng trên nguyên tắc luận đề : sự kiện, sự việc chỉ là phông nền cho quá trình vận động tâm lí dần đến bước ngoặt tư tưởng.
Chủ thể của quá trình nhận thức ở đây là nhân vật Phùng, người kể chuyện xưng tôi (một hoá thân của Nguyễn Minh Châu ?). Phùng có phẩm chất đáng quý của một nghệ sĩ giàu tâm huyết, tâm hồn tinh tế, thiết tha với cái đẹp. Cảnh thiên nhiên vùng đầm phá buổi sáng, "phẳng lặng và tươi mát" ; cảnh đẩy thuyền ra khơi sôi nổi, náo nhiệt và khoẻ khoắn, cảnh thuyền cá trở về lúc bình minh rực rỡ; cánh biển đông huyền bí, sâu thẳm… đã đem lại những rung động " tuyệt đỉnh", khiến anh vui sướng, hạnh phúc đến mức "tưởng như chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khác trong ngần của tâm hồn". Đằng sau những câu văn khá du dương, hào phóng mĩ từ trong đoạn này, ngầm án một nụ cười hài hước, chế giễu nhẹ nhàng lối tư duy lãng mạn cùa nhiều nghệ sĩ (đó cũng có thể là nụ cười tự trào đầy thâm thuý của Nguyễn Minh Châu). Tự tin và tự mãn, Phùng đã vội thu vào ống kính "cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại". Anh ngỡ rằng mình sáng suốt hơn người trưởng phòng, biết gắn cái đẹp thiên nhiên với hình ảnh con người, biết tìm ra sự hài hoà giữa chất thơ của trời biển với vẻ "náo nhiệt" tưng bừng của lao động. Nhưng anh đã lầm. Bước ngoặt trong nhận thức người nghệ sĩ được tác giả khắc hoạ thật sắc sảo qua sự đối lập gay gất giữa "cái – thấy – phút – trước" với "cái – thấy – phút – sau". Mấy cụm từ giản dị mà đầy sức nén của chân lí : "tôi chắc mẩm" (niềm tin có sẵn), "ngay lúc ấy" (đột biến), "bất giác tôi nghe" (hoang mang trước sự thật).
Phùng đã hai lần chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn trên bờ biển (lần thứ hai, thậm chí anh còn nhảy vào can thiệp và bị thương) rồi lại chứng kiến cách chị ta ứng xử tại toà án của chánh án Đẩu. Trong suy nghĩ của Phùng và Đẩu, người đàn bà khốn khổ đáng thương không nên cam chịu bị hành hạ, chắc bà ta sẽ vui vẻ chấp thuận bỏ chồng để được giải thoát khỏi đòn roi. Ngờ đâu cả thiện chí lẫn luật pháp đều bất lực : người đàn bà khi mới nghe vị thẩm phán thuyết phục li dị chồng đã "chắp tay lại vái lia lịa : – Con lạy quý toà…". Trước cảnh này, Phùng kinh ngạc cao độ và cảm thấy bức bối : "gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá" vì "không thể nào hiểu được" thái độ cam chịu lạ lùng ấy. Ở đây diễn ra một sự va chạm gay gắt giữa những điều đã mặc định về con người với thực tế sống động của hiện thực. Phùng và Đẩu đều tin rằng mình đúng : họ đã bảo vệ bà ta bằng cả thiện chí lẫn luật pháp. Họ đinh ninh chồng bà ta là kẻ xấu xa, bỏ lão là giải pháp tốt nhất. Chỉ có điều người đàn bà lam lũ ấy giống như một bí mật mà họ chưa bao giờ biết. Sự thay đổi hoàn toàn tư thế và lối xưng hô, những câu nói chất phác mà "thấu tình đạt lí" của bà làm cả Phùng lẫn Đẩu bối rối "những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi…". Một lần nữa cách nhìn đầy định kiến và dơn giản "va" phải cái trí khôn của đời sống. Người đàn bà thất học lại có tư cách giảng giải cho hai vị trí thức về những nghịch lí mà con người phải chấp nhận khi nó bị cầm tù trong hoàn cảnh đói nghèo cùng cực. Hoá ra cuộc sống vốn đầy nghịch lí mà cái nhìn chủ quan duy ý chí không bao giờ thấy hết. Pháp luật công bằng, lòng tốt vô tư đều chưa đủ hoá giải những nghịch lí ấy. Nguyễn Minh Châu thật sâu sắc khi phát hiện sự cam chịu của người đàn bà là một phẩm chất, là cái đẹp đáng giá nhất, vì nó cần thiết nhất cho những người dân hàng chài cơ cực kia khi xã hội chưa có một giải pháp thực sự hiệu quả để thay đổi số phận họ.
Người đàn bà thất học mà không tăm tối. Thái độ nhẫn nhịn là kết quả của bao tình cảm vị tha, thánh thiện : "Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không phải sống cho mình như ở trên đất được !…". Vậy là người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn, phiền não để đảm bảo cho sự tồn tại của cái gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước vốn đầy rẫy bất trắc. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời cứa người phụ nữ ở câu chuyện này phát lộ dưới hình thức bất ngờ nhất và cũng cảm động nhất. Nó cho bà ta can đám để chịu dựng những trận đòn tàn bạo của chồng (khi bị chồng đánh bà không hé kêu khóc hay chống cự), nhưng lại khiến bà "đau đớn", "xấu hổ, nhục nhã" khi biết mình vô tình làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ dại (bà "mếu máo" gọi tên Phác, "ôm chầm lấy nó", "chắp tay vái lấy vái để" đứa con, bà cũng dã khóc ở toà án khi nghe Phùng nhắc đến thằng Phác).
Nguyễn Minh Châu đã di chuyển điểm nhìn từ Phùng sang Đẩu rồi bất ngờ "trao" cho người đàn bà và chính cái người mẹ hàng chài thô kệch, mặt rỗ xấu xí, đầy vẻ lam lũ, cam chịu ấy lại là người sắc sảo, hiểu đời hơn hẳn hai vị trí thức. Chánh án Đẩu và phóng viên nhiếp ảnh Phùng đã từng kinh qua chiến tranh, đi nhiều thấy nhiều mà hoá ra vẫn nông cạn, hời hợt trước hiện thực khắc nghiệt của gia đình bà và những người dân chài khác. Cuộc sống được Đẩu nhìn bằng sự rành rẽ, công bằng của luật pháp, Phùng nhìn bằng con mắt nghệ sĩ. Cá hai đều có sẵn lòng tốt và thiện chí với cuộc đời. Chỉ có điều các anh quen tư duy một chiều về cuộc đời (chẳng hạn, câu hỏi "như lạc đề" của Phùng : "Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không ?" hay cái thắc mắc rất ngây thơ của Đẩu : "Vậy sao không lên bờ mà ở ?") nên chỉ thấy được những gì là tất yếu, hợp lí. Người đàn bà trái lại, từ số phận mình đã buộc các anh phải đặt đời sống vào cái nhìn nhiều chiều để nhận ra vô vàn nghịch lí : bãi xe tăng bị bốc cháy (chứng tích về chiến công anh hùng trong chiến đấu) là nơi người đàn bà thường xuyên bị đánh đập, còn những đứa trẻ thì đói khát và thất học (bi kịch đói nghèo chưa cách gì chấm dứt), thiếu nữ mảnh dẻ duyên dáng "như nàng tiên cá" lại "được tách ra từ da thịt một người đàn bà hàng chài xấu xí và đau khổ", người mẹ yêu con, cố che giấu sự thật để tránh cho con khỏi đau lòng, không ngờ lại làm nó tức giận đến mù quáng,… Chính những lời giãi bày chất phác, dè dặt của người đàn bà dã dần dần "mở mắt" cho Phùng và Đẩu. Tất nhiên việc thay đổi cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc không dễ dàng gì. Làm sao hai vị cựu chiến binh của một thời đánh giặc lừng lẫy có thể thấm thìa được ngay bao nhiêu nông nỗi yêu thương, xa xót, đắng cay, hờn tủi, bao nhiêu thấu hi