Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Văn mẫu hay lớp 12
Xem nhanh nội dung Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Quảng Ninh Mỗi nhà văn, dường như đều có một vùng quê sáng tác. Đối với Nguyên Ngọc, Tây Nguyên hùng vĩ núi non. Tây Nguyên bất khuất kiên cường với những ...
Xem nhanh nội dung
Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Quảng Ninh
Mỗi nhà văn, dường như đều có một vùng quê sáng tác. Đối với Nguyên Ngọc, Tây Nguyên hùng vĩ núi non. Tây Nguyên bất khuất kiên cường với những người bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng chính là vùng đất mà ông gắn bó, trăn trở trong sáng tác của mình. Những năm kháng chiến chống Pháp, ông bám trụ ở Tây Nguyên để rồi viết nên tiểu thuyết Đất nước đứng lên. Những năm đánh Mĩ, Nguyên Ngọc lại trở về với vùng gian khổ này từ đầu những năm sáu mươi, ngay sau những ngày đồng khởi cách mạng miền Nam. Cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây Nguyên khơi lòng cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.
Rừng xu nu chỉ là một truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực của nó là lớn lao. Đó là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí và kiên cường.
Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà nu quanh làng Xô Man của người Strá. Một rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng xà nu tràn trề sức sống cho dù đại bác của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết chóc đau thương vào nó.
“Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình. Ở những vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại. và đặc quệnh thành từng cục máu lớn. Có những cây con vừa lớn ngang ngực lại bị đại bác chặt đứt làm đôi, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như một thân thể cường tráng. Chúng vươn rất nhanh, thay thế những cày đã ngã. Cứ thể hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…”.
Nguyên Ngọc miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu chất thơ, chắt lọc và tinh tế ở một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng phong phú cho người đọc. Hình ảnh rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực một rừng cây “ham ánh sáng mặt trời”, vừa là hình ảnh có nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi chống Mĩ. Bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa đã phát huy tối đa hiệu lực cua nó. Rừng xà nu hiện lên như một người bạn trung thành che chở cho dân làng Xô Man, như những con người đẹp của buôn làng. Và có thể nói rừng xà nu chính là biểu tượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Việt Nam.
Tái hiện chân thực cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mĩ, nhà văn tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của cha ông và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú và Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man.
Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được dân làng đùm bọc, nuôi dạy khôn lớn. Cậu bé Tnú đến với cách mạng ngay từ những ngày gian khổ, ác liệt nhất khi mà Mĩ Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi nơi. Chính Tnú đã chững kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán bộ cách mạng. Ngày Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống ở đời qua sự chỉ bảo của anh cán bộ Quyết. Dũng cảm, mưu trí, lanh lợi là phẩm chất tốt đẹp của Tnú, “nó liên lạc cho anh Quyết từ xã lên huyện. Không bao giờ nó đi đường mòn. Giặc vây các ngả đường nó leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xẻ rừng mà đi, lọt tất cả vòng vây. Qua sông nó không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn em về làng, tra tấn đủ mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai báo, chỉ điềm tĩnh chỏ và bụng mình để trả lời câu hỏi cùa kẻ thù: Cộng sản ở đây này”. Đó không phái là câu trả lời mà là một lời thách thức, dung cảm ! Với lời thách thức ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù.
Thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú là một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách. Anh hiểu rõ nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Anh thực hiện ngay lời dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná… " chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó. Mai, cô bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh.
Lại một thử thách nữa đến với Tnú: bọn giặc ở đồn Dác Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ con. Tnú đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất kiên cường của anh càng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh, “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc", răng cắn chặt môi, không một tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giậm vào kẻ thù. Có thể nói Tnú là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ thù đã lên tới tột đỉnh và nhân dân cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó. Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang lên, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh… Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân dân, giải phóng đất nước với một nhận định sâu sắc hơn. Điều này có thế thấy rõ qua lời tâm sự của Tnú với dân làng sau “ba năm đi lực lượng”. Anh kể rằng anh giết thằng Dục, tên chi huy đồn giặc ở Đắc Hà, kẻ đã giết vợ con anh, kẻ dã gieo đau thương cho làng Xô Man và theo anh thằng giặc nào “cũng la thằng Dục cả”. Rõ rang, với anh chiếu sĩ giải phóng quân Tnú, mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước cũng là mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó là một nhận thức sâu sắc, nhận thức mà Tnú rút ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng của đất nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.
Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng Xô Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dit “còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ…". Vậy mà, khi Tnú trở về, cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải ngẫu nhiên mà là quá trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ. Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dit bị giặc bắt “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai bàn chân nhỏ của Dit. Váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó giật lên một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”. Không chỉ gan góc Dit còn là một cô bé cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương của chị Mai, Dit “lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già, đều khóc”. Cứ thế Dit lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, Dit cũng tỏ rõ là người có bản lĩnh, có sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dit, không khỏi xúc động, nhìn anh với “đôi mắt mở to bình thản trong suốt”. Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của minh khi hỏi “đồng chí có giấy không?”, khi tuyên bố dứt khoát “không có giấy thì không được, ủy ban phải bắt thôi” và sau khi xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về có một đêm thôi”. Con người Dit như vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết với quê hương, đành rằng bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.
Tnú và Dit tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Xô Man, từ lòng căm thù của họ đến với cuộc chiến đấu của dân tộc và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự trưởng thành của họ có cội nguồn của có một mặt là do họ tự vượt mình qua những thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt cách mạng cùa cha ông. Đặc biệt sự trưởng thành của Tnú và Dit được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền thông anh hùng cùa người Strá. Cụ Mết chính là đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man. Cụ là pho sử sống, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quăc thước như xưa… ngực cũng như một tấm xà nu lớn… tiếng nói vẫn ồ ồ vang trong lồng ngực”, vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. Có lẽ cuộc đời cụ đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên cụ luôn luôn nhắc nhờ con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất cúa quê hương. Chứng kiến cái chết thảm thương của Mai và sự bất lực của Tnú trước sự tra tấn dã man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấu hiếu: Đối với kẻ thù “chỉ có hai bàn tay trắng, chỉ với bàn tay không” thì không thể nào đối đầu với chúng được, phải cầm vũ khí đứng lên! Bài học này, cụ muốn truyền lại cho thế hệ mai sau: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy. San này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu. Chúng nó cầm súng, mình phái cầm giáo’’. Lời cụ rành rẽ vang lên trong ánh lửa bập bùng ở nhà ưng.
Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống, với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít… có sự trưởng thành lớn lao.
Và không chỉ có lớp người như Tnú, lớp sau Tnú như bé Heng, cũng lớn lên, lớn lên cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Xô Man. Với nhân vật bé Heng, Nguyên Ngọc chỉ phác họa vài ba đường nét miêu tả ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Tuổi của bé Heng, lẽ ra, là tuổi đến trường với những trang sách, với những trò chơi vui nhộn nhưng đất nước còn giặc, bé cũng còn nhỏ, bé Heng đã có dáng vẻ của “một người lính thật sự, đội chiếc mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc vào một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng”. Hơn thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú năm xưa. Thật là từ hào và tin tưởng với một lớp người như bé Heng! Lớp ấy đang lớn lên, trưởng thành, xứng đáng với thế hệ cha anh.
Đọc Rừng xà nu có cảm tưởng như được xem một bộ phim về số phận một con người với biết bao sự kiện. Truyện bắt đầu từ hiện tại từ cái thời điểm anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú đặt chân lên mảnh đất quê hương ‘‘sau ba năm đi lực lượng” rồi ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Quá khứ cứ hiện dần lên trong sự hồi tướng của Tnú, trong lời kể của tác giả, trong lời kể của cụ Những mảng đời quá khứ, những mảng đời hiện tại, cứ đan ngang, soi tỏ cho nhau để cắt nghĩa sự trưởng thành của thế hệ Tnú, sự trưởng thành của làng Xô Man trong cuộc chiến đấu với kẻ thù, để làm nổi rõ chủ đề của truyện, từ nỗi đau riêng và nỗi đau chung, Tnú và làng Xô Man phải cầm vũ khí để tự cứu lấy mình, để giải phóng dân tộc và cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc sinh ra một thế hệ trẻ kế tục xứng đáng với cha ông. Chính cái tư tưởng này đã chi phối kết cấu của Rừng xà nu. Hệ thống sự kiện trong truyện, chủ yếu được tố chức theo sự phát triển tâm lí tính cách nhân vật trung tâm, chứ không theo trật tự thời gian thông thường. Tổ chức sự kiện theo cách đó, nhà văn có điều kiện tập trung miêu tả những tình huống gay cấn làm nổi bật tính cách nhân vật, mặt khác cũng phù hợp với ý nghĩa chính luận của tác phẩm. Hai lần đối đầu trực tiếp với kẻ thù là hai lần Tnú thể hiện rõ phẩm chất kiên cường của anh, tất nhiên tác phẩm này thể hiện ở mỗi lần có khác nhau và có sự phát triển. Sa vào tay giặc khi còn là một cậu bé, Tnú tỏ rõ đức kiên trung quả cảm cùa mình. Còn lần đối đầu với kẻ thù, Tnú rực sáng kiên cường bất khuất trước bóng đen tàn bạo của kẻ thù.
Khắc họa tính cách nhân vật, Nguyên Ngọc có sở trường trong việc lựa chọn những chi tiết tiêu biểu có ý nghĩa khái quát cao, những chi tiết giàu chất tạo hình, giàu chất thơ. Trong nhận thức của người đọc, sừng sững hình
ảnh tụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết quắc thước, râu dài, mắt sáng, ngực căng như một cây xà nu lớn. Và cũng xúc động lòng người một cụ Mết ân tình với cháu con lúc trở tay chùi hai giọt nước mắt lớn khi lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú còn ngang dọc những vết thương đã thành sẹo tím. Như vậy nhân vật anh hùng trong Rừng xà nu không chỉ rung cảm người đọc ở sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt của họ mà còn ở những xúc động, những tình cảm thầm kín nơi họ.
Trên những trang viết của mình. Nguyên Ngọc thường trải những cảm xúc trữ tình của ông về con người, đất nước quê hương. Giọng văn của Rừng xà nu đằm thắm chất trữ tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà nhưng trong lời kể trang nghiêm xúc động về quá khứ đau thương của cụ Mết, khi tha thiết tuôn chảy theo dòng hồi tường về người thân, theo dòng suy tưởng về quê hương của Tnú… lời văn của Rừng xà nu giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, óng mượt như ngôn ngữ của một bài thơ (ví dụ: đoạn mở đầu tác phẩm). Chính cái vẻ cùa lời văn đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Rừng xà nu là chuyện của con người nhưng qua đó ta thấy số phận của một dân tộc. Từ câu chuyện của Tnú và của làng Xô Man, tác già nói tới sự trưởng thành của cách mạng miền Nam trong những ngày trước và sau đồng khởi. Đọc Rừng xà nu hôm nay, vẫn thấy âm vang cái hào hùng cùa một thời chống Mĩ, một thời có những con người đẹp như cụ Mết, như Tnú, như Dít, như Mai…
Phân tích tác phẩm Rừng xà nu để thấy được khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn – Bài làm 2
Nguyễn Trung Thành – một trong những nhà văn có duyên nợ với mảnh đất Tây Nguyên- một dải núi non hùng vĩ của Tổ quốc, mảnh đất nhiều cảm xúc. Ông là nhà văn trưởng thành trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Truyện ngắn “Rừng xà nu” là một thành tựu của ông. Truyện mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Thật vậy, trong bối cảnh Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam – Bắc. Trong khi miền Bắc chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa thì miền Nam lại phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống lại chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mĩ. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối. Năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền
Nam và tiến hành đánh phá ác liệt miền Bắc. Rừng xà nu được viết trong bối cảnh không khí sục sôi chống Mĩ. Thông qua hình tượng những người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh bên cạnh sức sống cánh rừng xà nu bạt ngàn, Nguyễn Trung Thành đã đặt ra một vấn đề mang tầm vóc lịch sử lớn lao: Cầm vũ khí tiêu diệt kẻ thù để mang lại tự do cho đất nước, sự sống cho dân tộc.
Để làm rõ vấn đề trên, đọc truyện ngắn Rừng xà nu, ta phải hiểu khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn bộc lộ rất rõ. Khuynh hướng sử thi được hiểu là những áng văn tự sự có quy mô lớn, miêu tả và ca ngợi những sự kiện mang tính chất toàn dân, có ý nghĩa trọng đại. Con người như một bức tượng đài lí tưởng luôn làm tròn bổn phận, trách nhiệm phục sự đồng bào, phục sự tổ quốc. Lời văn sử thi cũng mang giọng điệu ngợi ca, trịnh trọng. Sử thi luôn đi kèm với cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng khẳng định cái tôi đầy tình cảm , giàu cảm xúc. Nó ca ngợi vẻ đẹp của con người, ca ngợi chủ nghxia anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Ở trong truyện ngắn này, tính sử thi được biểu lộ trước hết ở sự kiện có tính chất toàn dân được nhắc tới. Đó chính là vận mệnh của làng Xô Man. Họ phải đứng lên chống đế quốc Mĩ. Đó cũng là câu chuyện chung của cả Tấy Nguyên, cả miền Nam, cả đất nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Tình thế bị o ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc sống đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ thi hành luật 10-59, khủng bố những người yêu nước, yêu dân tộc. Khi làng Xô Man đứng dậy đại diện cho bộ mặt của cả nước quyết tâm đánh thắng Mĩ.
Tính sử thi trong truyện ngắn Rừng xà nu còn thể hiện ở khía cạnh Nguyễn Trung Thành đã xây dựng hình tượng tập thể anh hùng. Những anh hùng này đại diện cho làng Xô Man. Mỗi một người đều có những nét riêng nhưng chung quy lại họ có chung bản lĩnh gan gạ, trung thực, ý chí kiên cường bất khuất. chiến công mà họ lập được có nhỏ, có lớn nhưng đều rất vẻ vang. Trong đó, tiêu biểu là anh Quyết, cụ Mết, anh Tnu, chị Mai, co Dít, bé Heng. Họ đều lập công góp sức mình vào sự nghiệp đấu tranh vĩ đại trường tồn của dân tộc. Lí tưởng của họ gắn với cả vận mệnh của dân tộc. Nếu như cụ Mết được coi là trưởng già lão luyện kinh nghiệm đầy mình, là cây xà nu già cỗi, là linh hồn của làng xô Man, là người lưu giữ truyền thống của làng. Cụ Mết được nhà văn miêu tả: “ quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bong, mắt vẫn sáng và xếch ngược”, “ sáu mươi tuổi mà tiếng nói vẫn ồ ồ dội vang trong lồng ngực”. Khi ở ranh giới giữa sự sống và cái chết, tiếng hô của cụ vẫn vang lên: “Chém! Chém hết. Những cây rựa sang loáng vung lên. Dưới lưỡi mác của cụ Mết, thằng Dục chỉ huy nằm gục trên vũng máu..”. Trong đêm định mệnh ấy, cụ Mết trong tư thế lẫm liệt của người chiến thắng đã sang sảng kêu gọi dân làng vùng lên cầm vũ khí giết giặc. Cụ Mết được tác giả miêu tả như một người anh hùng của buôn làng, là người thắp sáng ngọn lửa nhiệt huyết cho thế hệ trẻ tiếp nối.
Tiếp đến là T.nú. Anh là chàng trai gan dạ, dũng cảm, là niềm tự hào của làng xô Man. Cuộc đời anh đầy nước mắt và đau thương song với phẩm chất anh hùng của T.nú được tôn luyện trong mưa bom bão đạn nơi chiến tranh khốc liệt. Thuở nhỏ anh được anh Quyết – một cán bộ hoạt động cách mạng dạy chữ, truyền nhiệt huyết. Hình ảnh t.nú bị giặc bắt, tra tấn với mười ngón tay bốc cháy đã để lại trong lòng người đọc biết bao mất mát, đau thương. Ngọn lửa xà nu cháy rừng rực trên mười đầu ngón tay của anh đã làm sang bừng lên dũng khí và tinh thần bất khuất của T.nú.
Mai, Dít, bé Heng là hiện thân của cây xà nu mới lớn. Ở Dít đó là một cô gái với lòng dũng cảm, sự thông minh với “đôi mắt mở to và bình thản” hay bé Heng với hình ảnh “đội cái mũ sụp xin được của một anh giải phóng, mặc chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, sung đeo chéo ngang lưng”…
Có thể thấy, chất anh hùng tự ngàn đời chảy vào huyết quản, thấm nhuần vào trong máu từ già làng Mết chảy qua T.nú, chảy qua Mai tới Dít, truyền tiếp qua Heng và Heng chảy vào những cây xà nu mới mọc. Dân tộc Việt Nam dù có hi sinh nhưng vẫn không bao giờ lùi bước trước quân thù:
“Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sang lòa”
Chất sử thi còn được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. Mở đầu truyện ngắn là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây” thì kết thúc truyện cũng là hình ảnh rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Truyện mở ra một cuộc đụng độ quyết liệt giữa làng Xô Man với bọn Mĩ-Diệm. Rừng xà nu cũng là nạn nhân, là chứng nhân lịch sử trong cuộc đụng độ ấy.Nhà văn cũng đã chứng kiến cảnh “có những cây bị chặt đứt ngang nửa than mình đổ ào ào như một trận bão” hay “có những cây con vừa mới lớn ngang tầm ngực người bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn lóng, vết thương không lành được cứ loét mãi ra, năm mười hôm sau thì cây chết”. Mặc dù trong bom đạn chiến tranh, thương tích đầy mình nhưng cây xà nu vẫn vươn lên mạnh mẽ như người dân Tây Nguyên kiên cường, bất khuất rắn rỏi trước kẻ thù. Cây xà nu ham ánh sang, yêu tự do, luôn vươn lên đón ánh nắng và khí trời. Cây xà nu vững chãi với thế đứng “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho cả dân làng”. Đó là biểu tượng của làng Xô Man.
Tính sử thi còn được thể hiện ở chất giọng văn tha thiết, truyền cảm trang trọng khi kể về sự tích của làng Xô Man. Giọng văn vừa hào hùng, vừa bi tráng khi miêu tả vẻ dẹp thiên nhiên Tây Nguyên thong qua cánh rừng xà nu bạt ngàn. Theo lời kể của cụ Mết, ta như chìm đóng trong dòng chảy của thời gian, không gian và kí ức. Kết cấu kể chuyện theo lối vòng tròn tạo nên dư âm hùng tráng kết hợp với biện pháp nhân hóa, liên tưởng tưởng tượng phong phú cây xà nu như con người Xô Man.
Khuynh hướng sử thi trong truyện ngắn rừng xà nu còn kết hợp chặt chẽ với cảm hứng lãng mạn, tạo nên chất trữ tình đắm say lòng người. Hình tuwojng cây xà nu và hình tượng nhân vật T.nú là một sang tạo nghệ thuật đặc sắc của tác giả, góp phần làm nên vẻ đẹp sử thi và tô đậm cảm hứng lãng mạn của tác phẩm. Rừng xà nu không chỉ tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Trung Thành mà còn tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ của văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975.
Tóm lại, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là truyện ngắn không chỉ miêu tả về thiên nhiên mà nó còn là biểu tượng của làng Xô Man. Nó ẩn dụ cho hình tượng người dân làng Xô man gan dạ, kiên cường, sẵn sàng hi sinh tính mạng mình để bảo vệ làng, bảo vệ đất nước. Qua truyện ngắn, tài năng, tình cảm của nhà văn về thiên nhiên, con người Tây Nguyên càng được bộc lộ rõ rệt. Dù rằng cuộc chiến tranh khốc liệt đó đã đi qua song hình tượng về những người anh hùng ấy luôn còn mãi trong tâm trí người đọc.
Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 3
Nguyền Trung Thành là một nhà văn đầy tài năng. Rừng xà nu là tác phẩm hay của Nguyễn Trung Thành.
“Làng ở trong tầm đại bác…” truyện của Nguyền Trung Thành đã mở đầu như vậy. Chỉ trong chưa đầy mười chữ mà dựng lên được cả một tư thế của sự sống trong sự đôi diện cùng cái chết, của cái tồn sinh trong vòng đe doạ của sự hủy diệt bạo tàn, cái mở của truyện thật đả cô đúc gọn gàng mà vần đầy uy nghi, tầm vóc.
Phải thừa nhận rằng trong nền văn xuôi của chúng ta, đang còn hiếm những câu tả cảnh thiên nhiên. Có thể thấy tác giả của nó đã rất kì công trong từng dòng chữ, để làm cho cảnh vật được chạm khắc nổi bật hẳn lên dưới một ngòi bút biết tạo hình khối, biết tạo hương, biết tạo ánh sáng và sức nóng. Hãy thử lượm ra đây một câu vãn như thế: "… Ớ chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Này đây nữa, thứ nắng rừng “rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”. Và khi khép trang sách lại, trong trí mồi chúng ta hẳn vần chưa thể hết lung linh những vóc dáng xà nu đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm nồng, chúng cứ ngời ngợi xanh dưới một ánh nắng hè nóng gắt, trong suốt và quý giá tựa vàng mười.
Làng ở trong tầm đại bác. Nhưng sẽ không có thể đại bác nào xóa nổi sự tồn tại bền bỉ và kiêu hãnh của ’làng. Cũng tương tự thế, có thế có cây, có nhiều cây xà nu bị đại bác chặt đứt làm đôi. Nhưng rừng xà nu, dù có thế, thì vẫn sinh sôi, vẫn sống. Có loại xà nu mà đạn đại bác chỉ có thế đế lại trên thân thế cường tráng những vết thương chóng lành. Cũng có cây gục ngã. Song “cạnh một cây mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Bản năng tự bảo tồn, sự thèm khát vươn tới bầu trời và ánh sáng đã khiến rừng cây ấy chiến thắng tàn phá của đạn bom. Tại một nơi như thế này, sự sống vẫn mạnh hơn cái chết, sự sông vần luôn luôn bất diệt ngay trong sự hủy diệt.
Xin lưu ý đến điều này: Nguyền Trung Thành đã sử dụng nhân hóa như một phép tu từ chủ đạo trên suốt trang văn đặc tả xà nu. Điều đó cho phép ta được nghĩ: đoạn văn mở đầu rất đẹp này không chỉ là một khúc tiền tấu phóng túng, đầy ngẫu hứng và suy tưởng được nhà văn cho dạo lên trước khi bắt đầu câu chuyện về những con người. Rừng xà nu, đó còn là một kiểu ẩn dụ về chính con người, những con người sông dưới tầm đại bác. Cũng như xà nu, thân thể và trái tim họ đầy thương tích. Và cũng có đời người giống như những cây xà nu nào đó, bị cái chết chặt đứt ngang nửa đời xuân. Song cũng như xà nu, con người Xô Man, con người Tây Nguyên, con người Việt Nam trong những ngày đánh giặc vẫn sông, bền bỉ, kiêu hùng, đầy khao khát, trong niềm ham muôn mãnh liệt ánh sáng mặt trời, trong tư thế phóng lên đê tiếp lấy nguồn sông trong ánh nắng. Như xà nu, dân tộc Việt Nam, sức tồn sinh mạnh mẽ của đất nước Việt Nam sẽ không thế’ bị hủy diệt trong lò lửa chiến tranh khốc liệt nhất, tàn ác nhất trên trái đất trong những năm tháng ấy.
Khúc lịch sử Xô Man được cụ Mết ké suốt một đêm dài bên bếp lửa, về mặt nào đó, rất giông với' cảnh rừng xà nu nơi đầu truyện. Đó là một chuồi dài của những đau thương: Những quần chúng bị giặc giết vì nuôi cán bộ. Anh Xút bị treo cổ trên cây vả đầu làng. Bà Nhan bị chặt đầu cột treo đầu súng. Tấm lưng Tnú – khi đó còn là một cậu bé – ngang dọc vết dao chém, máu chảy ra rồi đặc quện lại, tím như nhựa xà nu. Rồi chính người cán bộ, anh Quyết hi sinh. Rồi Mai gục xuống. Cả đứa con của hạnh phúc, của tình yêu cũng chết dưới đòn đánh tàn bạo của kẻ thù. Còn Tnú, lửa xà nu đốt cụt mười ngón tay anh, lửa xà nu thiêu đốt trong lồng ngực, như cháy cả ruột anh.
Nhưng ta hãy trở về với Tnú và Mai trong thời gian trước ngày nổi dậy. Ngay từ lúc đó, họ có rất nhiều. Có lí tưởng cách mạng là cái mà bao nhiêu nhân vật trước họ chỉ tìm thấy khi đã bước đến chặng cuối trong câu chuyện của đời mình. Có đủ chữ nghĩa đế làm cán bộ; và đây là điều còn chưa hề đươc đặt ra, chưa hề được quan tâm tới.
Tnú và Mai còn được nhà văn hào phóng đưa lại cho khá nhiều vẻ đẹp của con người lí tưởng. Với Mai, đó là sự duyên dáng, linh lợi, giọng nói trong lanh lảnh và con tim thắm thiết, thủỵ chung. Còn với Tnú, đó là sự khỏe mạnh với bộ ngực rộng rãi và hai cánh tay khỏe như lim, là sự bất khuất, can trường đã được thử thách qua tra tấn dã man và mấy năm trời tù ngục. Giữa họ lại đã nảy sinh một mối tình đẹp như trong các truyện truyền kì, và Mai vừa sinh hạ một đứa con trai hứa hẹn sẽ trở nên một Tnú khác.
Tnú cường tráng như một thân xà nu lớn. Chảy trong huyết quản anh là dòng máu anh hùng của xứ sở Tây Nguyên, truyền lại từ Đam Săn, Xinh Nhã. Chứa đầy trong ngực anh là sức mạnh mênh mông và hoang dại của núi rừng. Anh thừa gan góc đến bướng bỉnh, thừa kiêu hãnh đến giàu tự ái. Anh là người không biết đến sợ hãi, không biết đến khuất phục, cho dù sự tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lười dao chém ngang dọc trên lưng ; có mượn sức mạnh của cây rừng hay lửa xà nu rừng rực. Anh đã gặp “người Đảng” từ tuổi ấu thơ, đê sớm học được một mục đích sống và một vốn hiểu biết đế làm con người chân chính. Sức mạnh của anh lại được hun đúc bởi cả một tình yêu lớn của một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhưng cũng rất kiên trung.
Vậy mà với bằng ấy cái có, Tnú vẫn không cứu sông được vợ con khỏi bị kẻ thù sát hại. Vợ anh và đứa con chưa đầy tháng của anh vẫn chết dưới cây gậy sắt. Co dù Mai đã hết sức bảo vệ con bằng sự hi sinh tuyệt vời của người mẹ và tất cả sự dẻo dai, lanh lẹ của người thiếu phụ sinh ra ở núi rừng: “Mai thét lên một tiếng. Chị vội tháo tấm dịu, vừa lật kịp đứa con ra phía bụng lúc cây gậy sắt giáng xuống trên lưng… Cây sắt thứ hai đập vào trước ngực Mai, chị lật đứa bé ra sau lưng. Nó lại đánh sau lưng, chị lật thằng bé ra trước ngực”.
Tnú chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí. Và khi chĩ có tay không thì Tnú cũng không cứu được chính đời anh. Ai đã đọc Rừng xà nu dù chỉ một lần chắc hẳn cũng không thể nào quên được hình ảnh mười ngón tay Tnú rừng rực cháy lửa xà nu, như mười ngọn đuốc. Hình ảnh này thuộc vào loại sáng tạo nghệ thuật mà người ta không dễ sinh ra đến hai lần trong một đời vãn.
“Tnú không cứu được vợ được con… nhớ không, Tnú, mày cũng khống cứu sống được vợ mày. Còn mày thì chúng nó bắt mày, trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng, chúng nố trói mày lại. Còn tau thì lúc đó tau đứng sau gốc cây vả. Tau thấy chúng nó trói mày bằng dây rừng, tau không nhảy ra cứu mày. Tau cụng chỉ có hai bàn tay không”. Những lời nói giông như điệp khúc trong một bản trường ca mà người già làng đã cất lên bên bếp lửa, trong không khí của đêm thiêng, ta nghe như lịch sử đang truyền phán. Với điệp khúc âm vang ấy, và với hình ảnh hai bàn tay cụt đốt kia, tác giả Rừng xà nu như muôn ghi vào thời gian một lời nhắc nhở vĩnh hằng: Rằng sẽ ra sao, nếu kẻ thù cầm súng rồi mà ta còn chưa kịp cầm lấy giáo.
Đoạn truyện còn lại có phần ít chất sông hơn. Mọi việc diễn ra đúng như ta có thể suy ra theo quy luật: không thê chiến đấu với quân thù chỉ bằng tay không và lòng căm thù mù quáng; dân làng đã đi tìm vũ khí, và đã quay về với lưỡi mác và cây rựa được mài băng đá núi Ngọc Linh.
Còn bàn tay, với những ngón tay chỉ còn hai đốt, một khi đã biết cầm lấy súng lấy dao sẽ lập tức trở thành bàn tay quả báo. Bởi thế, Nguyền Trung Thành đã không chịu để cho thằng Dục (không phải cả nhân thằng Dục – I1Ó đã chết trước đó rồi, dưới chân cụ Mết – mà là kẻ thù, “chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục”) chết vì súng vì dao. Thằng Dục phải chết dưới những ngón tay đã bị chúng thiêu cụt đốt. Lại thêm một lần nửa. Nguyền Trung Thành tạo ra một biểu trưng: kẻ thù đã gây tội ác, kẻ thù sẽ phải đền tội bởi chính những dấu tích của tội ác mà chúng đã gây ra.
Đến cuối truyện, hình ảnh cánh rừng xà nu lại trở về, “những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”, với “vô sô" những cây con đang mọc lên”, bất chấp đại bác đêm qua lại bắn. Ta nghe thấy gì từ cái rồi sẽ được Nguyên Ngọc gọi là “một vĩ thanh cứ xa mờ dần và bất tận” ấy, nếu không phải là sức sông vô hạn và không thể gì tàn phá của một dân tộc thương đau, là chiến thắng của tuổi trẻ, là lời hứa hẹn của tương lai? Ta nghĩ đến Dit, một Mai khác, một Mai không chỉ biết thương yêu mà còn biết chiến đâu để bảo vệ những cái thương yêu. Ta nghĩ đến những bé Heng, rất có thể cò đi xa hơn Tnú… Và như thế, câu chuyện nói rất nhiều đến súng, dao, chết chóc đã khép lại trong một điệp khúc xanh.
Và tất cả những điều đó đã được viết ra trong một cảm hứng sử thi hoành tráng. Hoành tráng trong hình ảnh, với vóc dáng vạm vỡ, cao cả của rừng núi – một núi rừng gợi nghĩ đến Tổ quốc và dân tộc – quý nhất của cả cộng đồng. Và hoành tráng trong âm hưởng, với lời văn đầy âm điệu, khi vang động, khi tha thiết trang nghiêm.
Phân tích tác phẩm Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) – Bài làm 4
Truyện ngắn Rừng xà nu được viết vào giữa năm 1965, lúc cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam ở vào một bước ngoặt chuyển từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” ; hàng chục vạn quân viễn chinh Mĩ ồ ạt đổ và o miền Nam, lực lượng cách mạng phải đương đầu với những thách thức to lớn, nhưng vẫn kiên trì mục tiêu và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nguyễn Trung thành lúc ấy đang hoạt động báo chí trong lực lượng quân giải phóng miền Trung Trung Bộ đã kịp thời viết bài tùy bút nổi tiếng Đường chúng ta đi, được xem như một bài hịch của thời đánh đế quốc Mĩ. Tiếp đó, theo yêu cầu của tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ, bằng vốn hiểu biết và tình cảm sâu nặng với Tây Nguyên, nhà văn đã viết rất nhanh truyện Rừng xà nu cũng với tư tưởng cơ bản là khẳng định con đường duy nhất để giải phóng của nhân dân miền Nam là đứng lên cầm vũ khí chiến đấu, dung bạo lực cách mạng để chống lại sự tàn bạo của kẻ thù.
Rừng xà nu là truyện về cuộc "đồng khởi" của làng Xô Man ở Tây Nguyên, cũng là câu chuyện bi tráng về cuộc đời của Tnú. Hai câu chuyện ấy lồng vào nhau mà truyện về Tnú diễn ra trên nền cảnh lịch sử là cuộc "đồng khởi" của làng. Tư tưởng chủ đề của truyện đã được phát ngôn qua lời của cụ Mết, ở đoạn cao trào của xung đột giữa nhân dân làng Xô Man với kẻ thù, qua lời của một già làng; tư tưởng ấy được ghi khắc như một chân lí lịch sử: "Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo !…". Cố nhiên, giá trị tác phẩm không phải chỉ ở sự minh hoạ tư tưởng ấy, những tư tưởng ấy là điểm quy tụ mọi cảm hứng nghệ thuật của tác giả và soi chiếu lên mọi chi tiết nghệ thuật của tác phẩm.
2. Truyện Rừng xù nu mang đậm chất sử thi. Chất sử thi toát lên từ chủ để, cốt truyện đến nhân vật và cả hình ảnh thiên nhiên, các chi tiết nghệ thuật và giọng điệu, ngôn ngữ của tác phẩm. Hãy chú ý đến cách trần thuật của truyện: Câu chuyện về lịch sử cuộc nổi dậy của một làng và cuộc đời của Tnú được kể lại trong một đêm, cái đêm anh về thăm làng, qua lời của cụ Mết. Chuyện được kể qua lời của một già làng, bên bếp lửa bập bùng suốt đêm, cho cả dân làng nghe: giọng kể trang trọng như truyền cho các thế hệ con cháu những trang lịch sử bi thương và anh hùng của cộng đồng: Người già chưa quên, người chết quên rồi thì để cái nhớ lại cho người sống… "Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãỵ lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe !…".
Cách trần thuật như vậy gợi nhớ tới cách kể khan (trường ca) của nhiều dân tộc ở Tây Nguyên. Bên bếp lửa chung của làng, các bài khan được kể như hát suốt nhiều đêm, những trường ca đầy chất sử thi kể về lịch sử mang màu sắc huyền thoại của bộ tộc, về những người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh và khát vọng của cộng đồng (như các trường ca Đăm San, Xinh Nhã, Đăm Bơ-ri,…). Trong Rừng xà nu, câu chuyên cụ Mết kể cho dân làng nghe là câu chuyện của thời hiện tại, nhưng đã được kể như là một câu chuyên lịch sử với giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng sử thi, với thái độ "chiêm ngưỡng" qua một "khoảng cách sử thi" những con người và sự kiện được kể lại.
3. Truyện ngắn này đã xây dựng cả một hộ thống nhân vật, thể hiện sự tiếp nối của các thế hệ cách mạng của làng Xô Man ở Tây Nguyên: Cụ Mết là gạch nối giữa lịch sử và hiện tại, là thế hệ chiến đấu từ thời chống thực dân Pháp; anh Quyết là cán bộ cách mạng, người đã "gieo mầm" cách mạng trong đồng bào Tây Nguyên; rồi Tnú, Mai và tiếp đó là Dít, cả thằng bé Heng – các thế hệ nhân dân Tây Nguyên tiếp nối cuộc chiến đấu, càng sau càng trưởng thành mau lẹ. Nhân vật trung tâm – Tnú – được tác giả tập trung khắc hoạ cả tính cách và số phận. Cuộc đời và số phận của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giải phóng của nhân dân Tây Nguyên. Ở Tnú, nhiêu chi tiết được miêu tả nhằm làm nổi bạt những nét tính cách đẹp đẽ và được bộc lộ ngay từ lúc còn là một cậu bé: gan góc và táo bạo, dũng cảm và trung thực, gắn bó và trung thành với cách mạng, tình thương yêu vợ con và dân làng, quê hương,… Câu chuyện tình của Tnú và Mai lúc còn nhỏ thì hồn nhiên và thơ mộng, ở tuổi trưởng thành thật đẹp và thắm thiết nghĩa tình, nhưng rồi thành vô cùng bi thương bởi sự tàn bạo tột cùng của kẻ thù, ngay giữa lúc hai người đang ngập tràn hạnh phúc. Nhưng có lẽ ở nhân vật Tnú, hình ảnh đôi bàn tay gây được ấn tượng sâu sắc và đậm nét hơn cả. Qua bàn tay mà hiện lên cả cuộc đời và tính cách nhân vật. Bàn tay Tnú lúc còn lành lặn là bàn tay trung thực, tình nghĩa: bàn tay cầm phấn viết cái chữ do anh Quyết dạy cho, bàn tay dám cầm đá đập vào đầu mình "Cộng sản ở đây này !" khi giặc tra hỏi, khi Tnú thoát ngục Kông Tum trở về, gặp Mai ở đầu làng, Mai cầm đôi bàn tay ấy mà giàn giụa nước mắt.
Với đôi bàn tay không, Tnú xông ra giữa bọn giặc, quật ngã tên lính to béo đang nện những cây gậy sắt lên mẹ con Mai. Nhưng với hai bàn tay trắng, Tnú đã không cứu nổi vợ con anh. Hai bàn tay Tnú, mười ngón bị bọn giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu rồi đốt. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc. Ngọn lửa từ mười đẩu ngón tay – nơi thần kinh bén nhạy nhất – đã thiêu đốt cả gan ruột, cả hệ thần kinh của Tnú : "Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi". Mười ngọn đuốc ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của làng Xô Man : trong ánh đuốc lửa xà nu, cụ Mết cùng đám thanh niên với giáo mác trong tay xông ra giết sạch cả tiểu đội lính địch, khởi đầu cho cuộc chiến đấu vũ trang giải phóng của làng. Bàn tay Tnú đã được dập lửa, nhưng mỗi ngón chỉ còn hai đốt. Đốt ngón tay cháy cụt không thể mọc lại. Bàn tay mười ngón cháy cụt còn đó như chứng tích căm hờn mà Tnú mang theo suốt cuộc đời, nó nhắc nhở anh và cả làng Xô Man vể tội ác man rợ của kẻ thù.
Nhưng bàn tay mỗi ngón còn hai đốt ấy vẫn cầm giáo, cầm súng được. Và Tnú đã lên đường, cầm súng đi tìm những thằng Dục để đòi trả món nợ máu… Đến cuối truyện, bàn tay Tnú lại một lần nữa xuất hiên trong một cảnh được miêu tả tỉ mỉ như quay cận cảnh của điện ảnh. Nhưng lần này nó ở trong một tư thế, một tương quan hoàn toàn khác với kẻ thù. Bằng đôi bàn tay cụt mười đốt ngón tay ấy, Tnú đã bóp chết tên chỉ huy đồn địch ngay trong hầm ngầm cố thủ của nó, trong ánh đèn pin soi vào mặt nó cho nó nhìn rõ bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo đang siết vào cổ họng những thằng Dục (với Tnú, chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục).
4. Một hình tượng nổi bật và xuyên suốt trong truyện ngán này là hình tượng cây xà nu. Hình ảnh này không chỉ là khung cảnh thiên nhiên làm nền cho câu chuyện mà còn mang một ý nghĩa biểu tượng rộng lớn. Mở đầu và kết thúc truyện đều là hình ảnh cánh rừng xà nu: "đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời" (câu này được nhắc lại gần nguyên vẹn ở đoạn kết, như một vĩ thanh láy lại, gây ấn tượng nổi bật, tạo một dư ảnh và dư âm đọng lại trong tâm trí độc giả sau khi câu chuyện đã khép lại).
Nhưng xà nu không chỉ có mật trong đoạn mở đầu và đoạn kết, nó còn hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và làng Xô Man của anh. Xà nu gắn bó với cuộc sống, sinh hoạt hằng ngày như đã từ ngàn đời nay thân thuộc với dân làng: ngọn lửa xà nu cháy bập bùng trong đống lửa ở nhà ưng tập hợp cả dân làng; khói xà nu đen nhẻm trên thân mình lũ trẻ; khói xà nu còn làm cho tấm bảng nứa đen kịt để anh Quyết dạy Mai và Tnú học chữ,… Xà nu còn tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống làng Xô Man: ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết và cả dân làng đi rừng sâu lấy giáo, mác, dụ, rựa đà giấu kĩ về chuẩn bị cho cuộc nổi dậy; đêm đêm cả làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc xà nu; giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu; rồi ngọn lửa từ các đuốc xà nu soi sáng rực cả làng cái đêm nổi dậy, soi rõ xác mười tên lính bị giết nằm ngổn ngang quanh đống lửa xà nu lớn giữa sân nhà ưng của làng.
Xà nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguyên. Chúng ta hiểu vì sao truyện ngắn này có tên là Rừng xà nu. Tác giả cũng đã nói rõ vai trò của hình tượng xà nu trong sự tổ chức các chi tiết nghệ thuật và quy tụ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Có thể nói hình tượng xà nu là một mô típ chủ đạo trong tác phẩm, không tìm được hình tượng này, tác giả cũng không thể viết được truyện ngắn Rừng xà nu. Nguyên Ngọc kể lại : "Bắt đầu như thế nào ? Không, quả thực bắt đầu tôi chưa hề có câu chuyện, cốt truyện nào cả. Bắt đầu đến với ngòi bút, gần như không hể tính trước, là một khu rừng xà nu, những cây xà nu.
Hồi tháng 5 – 1962, hành quân từ miền Bắc vào, tôi cùng đi với anh Nguyền Thi. Nguyễn Thi về Nam Bộ, tôi rẽ xuống khu Năm. Cùng đi dọc Trường Sơn từ Bắc vào, đến điểm chia tay mỗi người về chiến trường của mình, là khu rừng bát ngát phía tây Thừa Thiên giáp Lào. Đó là một khu rừng xà nu tít tắp tận chân trời.
Tôi yêu say mê cây rừng xà nu từ ngày đó, Nguyễn Thi và tôi đã sống với nhau một ngày một đêm chia tay cuối cùng trong khu rừng tuyệt vời ấy.
Tại sao cái đêm giữa năm 1965 ấy, ngồi viết, rừng xà nu lại bỗng đột ngột đến với tôi, chảy ra dưới ngòi bút tôi!.
Vì nhớ Nguyễn Thi chăng? Từ ngày vào chiến trường chúng tôi bặt tin nhau. Vì bấy giờ, bước vào cuộc giáp mặt trực tiếp với Mĩ rồi đây, cả cuộc đời mình – mà tôi đã cùng Nguyễn Thi ôn lại, điểm lại ngày nọ dưới rừng xà nu Tây Thừa Thiên – chợt sống dậy chăng? Hay vì cái không khí "Hịch tướng sĩ" đánh đế quốc Mĩ hừng hực bấy giờ rất tráng ca, rất "xà nu" chăng?,… Tôi không nhớ và biết rỏ.
Nhưng vậy đấy, rừng xà nu chợt đến. Và lập tức tôi biết tôi đã tạo được không khí, dã có khổng gian ba chiều. Và cũng lập tức đã nhập được vào không khí, và không gian ấy”.
Chính vì xà nu mang ý nghĩa một biểu tượng nên sự miêu tả về loài cây ở đây luôn luôn được đặt trong sự ứng chiếu với con người gợi ra những liên tưởng về đời sống và số phận cùng phẩm cách của con người – dân làng Xô Man. Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, "nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng". Cũng như Tnú, như dân làng Xô Man yêu tự do. Rừng xà nu cũng như làng Xô Man chịu nhiều đau thương bởi sự tàn phá hằng ngày của giặc: "Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương".
Nhưng xà nu có sức sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi: "Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời", cũng như các thế hệ làng Xô Man, lớp này tiếp lớp khác dứng lên, tiếp tục cuộc chiến đấu. Anh Quyết hi sinh thì có Tnú, Mai; Mai ngã xuống giữa tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống như cây xà nu bị chặt đứt ngay giữa thân mình, thì Dít lớn lên nhanh đến không ngờ, trở thành